Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - TÍNH TẤT YẾU BIỆN CHỨNG GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.47 KB, 25 trang )

1
MỞ ĐẦU
Sự đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng, một bước ngoặt cách mạng vĩ
đại trong lịch sử triết học nói riêng và trong lịch sử nhân loại nói chung, nó là
sản phẩm, là tinh hoa của nhân loại, là toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển xã
hội. Mỗi một học thuyết, mỗi một hình thái ý thức ra đời nó đều dựa trên cơ
sở tồn tại của nó, đối với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng được gắn
liền với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự phát triển
của phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản, cùng với
sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Những năm 40 của thế kỷ XIX, sự phát triển của khoa học tự nhiên, nhất
là vật lý học đã đem lại rất nhiều tài liệu phong phú để chứng minh tính chất
thiếu sót, tính phiến diện và chật hẹp của phương pháp tư duy máy móc siêu
hình của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Sự phát triển của khoa học tự nhiên đã
đặt ra vấn đề rất cần thiết phải xây dựng một thế giới quan duy vật biện
chứng. Nghiên cứu lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật và sự ra đời của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, có thể thấy rằng, mỗi bước phát triển, mỗi
thành tựu của khoa học tự nhiên đều gắn với mỗi bước tiến của triết học duy
vật và đều là sự tích luỹ những tiền đề, là sự thai nghén, chuẩn bị cho sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình thức cao nhất của chủ nghĩa duy
vật. Chính vì vậy, nghiên cứu, làm rõ vấn đề “Tính tất yếu quan hệ biện
chứng giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên. Ý nghĩa
đối với vấn đề bảo vệ, phát triển Triết học Mác – Lênin trong giai đoạn
hiện nay” là cơ sở để chúng ta khẳng định chủ nghĩa duy vật biện chứng và
khoa học tự nhiên có mối quan hệ chặt chẽ và khăng khít trong sự ra đời của
chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng như sự phát triển của khoa học tự nhiên,
đồng thời là cơ sở để khẳng định tính tất yếu phải bảo vệ, phát triển Triết học
Mác – Lênin trong tình hình hiện nay.


2


NỘI DUNG
1. Tính tất yếu quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa duy vật biện
chứng và khoa học tự nhiên
1.1. Các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa duy vật
Theo ph.Ph.Ăng ghen, ngay từ thời cổ xưa, con người đã gặp phải một
số vấn đề về quan hệ giữa linh hồn của con người và thể xác của nó. Từ việc
giải thích những giấc mơ, người ta đi tới quan niệm về sự tách giữa linh hồn
và thể xác, về sự bất tử của linh hồn. Từ đó nảy sinh vấn đề quan hệ giữa linh
hồn của con người với thế giới bên ngoài. Khi triết học ra đời, nó không thể
không giải quyết những vấn đề đó. Với tư duy triết học, vấn đề dược đặt ra
với tầm khái quát cao hơn, đó là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm
và vật, giữa ý thức và vật chất, trở thành vấn đề lớn cơ bản của triết học. “Vấn
đề cơ bản lớn của mọi triết học,đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ
giữa tư duy và tồn tại”1. Vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay ý thức
và vật chất được gọi là “vấn đề cơ bản lớn” hay “vấn đề tối cao” của triết học
vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn
đề khác của triết học. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học sẽ là tiêu
chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của các triết gia và học thuyết của
họ. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: Thứ nhất đó là giữa vật chất và ý
thức cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định?. Thứ hai: ý thức
của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan không? Nói cách
khác, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không? Việc giải quyết
mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai
trường phái lớn. Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước
và quyết định ý thức của con người được gọi là nhà duy vật. Ngược lại, những
người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà
duy tâm. Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại, khi triết học mới
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H 1995, t21, tr403



3
bắt đầu hình thành. Từ đó đến nay lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật
luôn gắn liền với lịch sử của khoa học và thực tiễn. Nó đã trải qua nhiều hình
thức khác nhau, nhưng đều thống nhất với nhau ở chỗ coi vật chất là cái có
trước và quyết định ý thức, đều xuất phát từ bản thân thế giới để giải thích thế
giới.
Hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật chất phác,
ngây thơ thời cổ đại. Nó xuất hiện ở nhiều dân tộc trên thế giới, nhất là ở Ấn
Độ, Trung Quốc và Hy Lạp. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nói
chung là đúng đắn nhưng mang tính ngây thơ, chất phác, vì chủ yếu dựa vào
các quan sát trực tiếp, chưa dựa vào thành tựu của các bộ môn khoa học
chuyên ngành, vì các bộ môn khoa học chuyên ngành lúc đó chưa phát triển.
Hình thức thứ hai là chủ nghĩa duy vật máy móc, siêu hình thế kỷ XVIIXVIII. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem
xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm địa vị thống trị và tác động mạnh mẽ
đến các nhà duy vật. Họ xem xét giới tự nhiên và con người chỉ như hệ thống
máy móc, siêu hình vì họ chỉ thấy sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng
đọng, không vận động không phát triển. Quá trình khắc phục các thiếu sót
máy móc siêu hình, và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội của chủ
nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII cũng đồng thời là quá trình ra đời hình thức
thứ ba của chủ nghĩa duy vật - đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
1.2. Nguyên nhân dẫn đến tính chất máy móc, siêu hình của chủ
nghĩa duy vật ở thế kỷ XVII-XVIII
Vào thế kỷ XVII, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở nhiều nước
Tây Âu đã hình thành hầu hết trong lòng xã hội phong kiến. Cùng với sự phát
hiện ra châu Mỹ con đường hằng hải vòng quanh châu phi tạo cho giai cấp tư
sản đang lên môi trường hoạt động mới. Thị trường ấn Độ, và Trung Quốc
rộng lớn, việc chiếm châu Mỹ làm thuộc địa, việc tăng thêm số phương tiện
trao đổi và số lượng hàng hoá đã đem lại cho thương nghiệp, và công nghiệp



4
hằng hải một đà phát triển chưa từng có, do đó đã làm cho các yếu tố trong xã
hội phát triển, sự phát triển của phương thức tư bản chủ nghĩa đã dẫn tới
những biến đổi sâu sắc nhiều mặt của đời sống xã hội và sự phát triển nhanh
chóng của khoa học tự nhiên. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không
thoả mãn với những kiến thức khoa học tự nhiên còn ở tình trạng chưa đầy
đủ, sơ khai, chưa sâu sắc,chưa cụ thể đã có từ trước. Người ta không thể dựa
vào kinh nghiệm đi biển thông thường và thuyền gỗ để chuyên trở khối lượng
hàng hoá lớn vượt đại dương, trái lại, cần phải có phương tiện đảm bảo kỹ
thuật, đòi hỏi phải có kỹ thuật đóng tàu mới, có máy móc mới để sản xuất
nhằm tăng năng lực sản xuất và trao đổi hàng hoá với mục đích cuối cùng là
tăng lợi nhuận ngày càng nhiều hơn cho nhà tư bản. Thực tế đó, đòi hỏi khoa
học tự nhiên như cơ học toán học, thiên văn học, vật lý học, hoá học, sinh vật
học …phải có bước phát triển mới.
Từ nhu cầu của sản xuất và buôn bán thời kỳ đó, đã thúc đẩy sự phát
triển chưa từng có của khoa học tự nhiên. Đúng như Ăngghen đã từng nhận
xét: khi thực tiễn sản xuất có nhu cầu thì nó thúc đẩy khoa học phát triển hơn
mười lần các trường đại học. Khoa học thời kỳ này dần dần tách khỏi triết học
và trở thành những ngành khoa học độc lập, có phương pháp nghiên cứu thật
chi tiết, cụ thể tỷ mỉ, nhằm phát hiện ra những thuộc tính, tính chất, quy luật
của vật chất như tính năng độ bền, tác dụng của vật liệu…sự phát triển đó của
khoa học tự nhiên với những thành tựu rực rỡ mà nó mang lại. Ăngghen đã
chỉ ra “sự phát triển của các ngành khoa học cũng tiến được những bước
khổng lồ và ngày càng mạnh mẽ lên có thể nói là tỷ lệ với bình phương của
khoảng cách (tính theo thời gian) kể từ khởi điểm. Hình như là lúc nào đó,
cần phải chứng minh cho thiên hạ thấy rằng từ nay, cái sản phẩm cao nhất của
vật chất hữu cơ, tức là trí tuệ của con người, tuân theo một quy luật vận động
ngược lại với quy luật vận động của vật chất vô cơ” 1. Sự phát triển đó của

khoa học tự nhiên đã góp phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ nhiều mặt của
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H 1994, t20, tr461


5
xã hội, nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất mà giai cấp tư sản là người
đại diện trong thời kỳ đó. Trong tuyên ngôn Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen
đã đánh giá rất cao sự phát triển chưa từng có của sản xuất vật chất dưới chủ
nghĩa tư bản “Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ
đã tạo ra những lực lượng sản xuất và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả
các thế hệ trước cộng lại” 1. Nhưng khoa học tự nhiên phát triển trong thời kỳ
này là khoa học thực nghiệm, thí nghiệm mà Phran xi Bêcơn (1561- 1626)
người sáng lập duy vật Anh. Bêcơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới vật chất, khoa học không biết một cái gì khác ngoài thế giới vật chất,
ngoài giới tự nhiên. Ông cho rằng con người cần phải thống trị, phải làm chủ
giới tự nhiên. Điều đó có thực hiện được không tất cả điều đó phụ thuộc vào
sự hiểu biết của con người. Bêcơn cho rằng tri thức là sức mạnh, sức mạnh là
tri thức. Do đó, cần có một khoa học mới lấy giới tự nhiên làm đối tượng
nghiên cứu nhằm biến giới tự nhiên thành “giang sơn” của con người. Tuy
nhiên, ông lại đi sâu nghiên cứu từng đối tượng vật chất, từng mặt, từng thuộc
tính của nó. Nhận xét về triết học duy vật của Bê Cơn, Mác viết “ở Bêcơn,
người đầu tiên sáng tạo ra nó, chủ nghĩa duy vật còn che giấu, dưới những
hình thức ngây thơ, những mầm mống của sự phát triển mọi mặt. Vật chất
mỉm cười với toàn bộ con người, trong vẻ lộng lẫy của cái cảm tính nên thơ
của nó”2. Song, chủ nghĩa duy vật của Bê Cơn là chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Ông quy sự vận động của vật chất thành sự lặp lại vĩnh viễn những hình thức
bất biến. Hay Hốpxơ là một nhà duy vật cơ học điển hình. Ông coi cơ học và
toán học là mẫu mực của bất kỳ tư duy khoa học nào. Hốpxơ coi giới tự nhiên

là tổng số các vật thể có quảng tính với những khác biệt về kích thước, hình
dáng, vị rí và vận động. Theo ông, vận động là thay đổi vị trí của các vật thể.
Ông giải thích nguồn gốc của vận động là sự tác động của vật thể này lên vật
thể khác qua va chạm đầu tiên. Hốpxơ liên hệ hình thức vận động cao nhất
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H 1995, t1 , tr603
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H 1995, t2, tr195-196


6
của vật thể với hình thức cơ học giản đơn. Chính là nhà cơ học, cho nên ông
không thấy đặc điểm riêng của giới hữu cơ. Ông cho rằng trái tim là gì, nếu
không phải là chiếc lò xo, dây thần kinh là gì, nếu không phải là những sợi
dây chỉ, còn khớp xương là gì, nếu không phải là những bánh xe làm cho cơ
thể chuyển động. Và thành tựu rực rỡ nhất của nó là cơ học, được thể hiện
đầy đủ trong hệ thống cơ học của Niu Tơn. Trên một mức độ nhất định,
phương pháp thực nghiệm hiện đại thế kỷ XVII- XVIII và những thành tựu
rực rỡ của cơ học đã ảnh hưởng đến lĩnh vực triết học. Chính vì vậy đã xuất
hiện phương pháp tư duy siêu hình, máy móc và chủ nghĩa duy vật đã trở
thành máy móc, siêu hình về tự nhiên. Vậy tại sao sự phát triển của khoa học
tự nhiên lại có được kết quả như vậy? Có phải do nội dung biện chứng khách
quan trong các phát minh khoa học quy định hay do một nguyên nhân nào
khác.
Như chúng ta đã thấy rằng ngay từ thời kỳ cổ đại, các nhà triết học đã đi
muốn xây dựng một bức tranh tổng quát về các hiện tượng và đối tượng trong
tự nhiên và họ đã làm được điều đó. Họ cho rằng thế giới là một chỉnh thể có
mối quan hệ với nhau, điều đó hoàn toàn là đúng tuy nhiên họ không thấy vì
sao có mối liên hệ đó, không thấy nguyên nhân của mối liên hệ. Những phát

biểu của họ là đúng nhưng lại mờ nhạt, thiếu những cơ sở khoa học xác đáng
mà chỉ dựa trên những cơ sở phỏng đoán và những trực kiến thiên tài mà thôi.
Chính vì vậy bức tranh do chủ nghĩa duy vật cổ đại không thể nào đáp ứng
được nhu cầu của sản xuất và việc giải phóng con người và tư duy con người
khỏi chủ nghĩa kinh viện và nhà thờ. Điều đó đặt ra là phải xây dựng được
một thế giới quan mới khắc phục được tính chất thiếu cơ sở khoa học của chủ
nghĩa duy vật cổ đại và chủ nghĩa duy tâm tôn giáo của chủ nghĩa kinh viện.
Thế giới quan đó phải được xây dựng trên cơ sở , những bằng chứng khoa
học, vì vậy ở trong thời kỳ đó chỉ có cơ học là phát triển đến đỉnh cao, còn
các ngành khác của khoa học thì vẫn ở thời kỳ ấu trĩ, nó chưa vượt qua khỏi


7
giới hạn của trình độ phát triển lúc ban đầu của nó. Mặt khác cơ học do đã đạt
được tính hệ thống hoàn chỉnh, nó được ứng dụng một cách hết sức rộng rãi
trong đời sống, trong sản xuất, nhất là trong sản xuất công nghiệp và nó đã có
đóng góp trực tiếp đưa lại bước phát triển rất dài và rất cao của lực lượng sản
xuất. Do vậy, cơ học được coi là khoa học có vị trí thống trị trong thời kỳ này.
Cơ học được coi là chỗ dựa tin cậy nhất, chính xác nhất của nhiều nhà triết
học trong việc xây dựng hệ thống triết học. Đề-các-tơ, một trong những nhà
sáng lập ra triết học cận đại đã tìm cách xây dựng một bức tranh hoàn chỉnh
về thế giới quan khoa học dựa trên nguyên lý cơ học. Điều đó đã dẫn Đề-cáctơ đến những quan điểm “máy móc’ về tự nhiên. Ông cho rằng, thế giới về
bản chất là vật chất, tồn tại ở chỗ và chỉ ở chỗ chúng có quảng tính, và sự biến
đổi xảy ra trong vật chất đều qui vào sự di chuyển của các vật thể trong không
gian từ vị trí này sang vị trí khác, tức là đều qui vào chuyển động cơ học.
Quan điểm máy móc ấy về tự nhiên đã được thể hiện một cách đầy đủ nhất
trong tác phẩm của Niu Tơn, trong thời kỳ đó nó đóng một vai trò tích cực
trong cuộc đấu tranh chủ nghĩa kinh viện và đã được áp dụng một cách có
hiệu quả trong cơ học trong trái đất và cơ học thiên thể. Chính vì vị trí của nó
trong khoa học và vai trò của nó trong đời sống, trong sản xuất, cơ học đã làm

cho các nhà khoa học thời kỳ đó tưởng rằng tất cả các hiện tượng tự nhiên đều
có thể giải thích được trên cơ sở các nguyên lý cơ học và trong khuôn khổ các
định luật chung của cơ học. Thực ra, như chúng đã biết, các định luật cơ học
phản ánh những đặc điểm chỉ của một lĩnh vực hiện tượng của tự nhiên.
Nhưng khuôn khổ trật hẹp ấy của các định luật cơ học đã bị các nhà khoa họ,
các nhà triết học thời kỳ đó xoá bỏ và nâng các định luật ấy lên thành qui luật
phổ biến của tự nhiên, và chuyển động cơ học thì do đó mà được coi là hình
thức duy nhất và cơ bản của sự vận động của giới tự nhiên. Vì vậy, tính chất
máy móc, siêu hình được sinh ra. Đây là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa duy
vật hay những quan điểm về tự nhiên thời kỳ này. Đặc điểm nổi bật khác của


8
những quan điểm về tự nhiên trong thời kỳ này là tính hạn chế siêu hình, máy
móc, là chủ nghĩa duy vật siêu hình. Vậy, cái gì là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến sự ra đời của chủ nghĩa duy vật siêu hình? Chúng ta thấy rằng, trong thời
kỳ này, việc nghiên cứu khoa học bằng thực nghiệm đã phát triển hết sức
mạnh mẽ và nó đã giành được một vị trí hết sức xứng đáng trong khoa học.
Một mặt, phương pháp thực nghiệm được truyền bá rộng rãi trong khoa
học tự nhiên, chính điều đó đã thúc đẩy việc nghiên cứu tự nhiên một cách
mạnh mẽ, chính xác và nghiêm túc, vì vậy nó đã giúp vào việc giải phóng
khoa học tự nhiên khỏi ảnh hưởng của nhà thờ, tôn giáo, cũng nhờ đó mà
khoa học tự nhiên dã tích luỹ được một lượng tri thức vô cùng to lớn đúng
như Ăngghen đã nhận xét “Khoa học tự nhiên kinh nghiệm đã tích luỹ được
một khối lượng tài liệu chính diện to lớn đến nỗi ngày nay tuyệt đối bức thiết
phải sắp xếp những tài liệu ấy lại một cách có hệ thống và dựa vào mối liên
hệ nội tại của chúng trong lĩnh vực riêng biệt” 1. Và chính vì vậy mà khoa học
tự nhiên nói chung và khoa học thực nghiệm nói riêng đã có những đóng góp
xứng đáng vào sản xuất công nghiệp, các kết quả nghiên cứu khoa học bằng
thực nghiệm trong cơ học, hoá học, sinh vật học, quang học…được ứng dụng

vào sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đã đưa lại bước phát triển vượt bậc
của lực lượng sản xuất. Đồng thời khoa học thực nghiệm còn đóng vai trò
quan trọng trong việc chống lại sự thống trị, sự ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh
viện, nó làm cho giáo lý, giáo điều, tín điều của tôn giáo bị tiêu tan thành mây
khói, và nó tạo ra một khối lượng tài liệu khoa học khổng lồ làm cơ sở nền
tảng cho sự phát triển của khoa học giai đoạn kế tiếp.
Như vậy, chúng ta thấy rằng trong thế kỷ XVII-XVIII, xét về trình độ
phát triển thì cơ học chiếm một vị trí quan trọng, xét về phương pháp nghiên
cứu thì phương pháp thực nghiệm khoa học trở thành phương pháp phổ biến.
Tuy nhiên sự truyền bá rộng rãi phương pháp thực nghiệm khoa học và những
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H1994, t20, tr487


9
thành tựu to lớn mà nó đem lại trong thời kỳ này đã dẫn đến sự chín muồi cho
một quan điểm cho rằng sự phân cắt tự nhiên ra thành từng mảnh riêng rẽ,
không có mối liên hệ, là phương thức duy nhất và phổ biến của sự nghiên cứu
khoa học, là cơ sở của lý luận nhận thức. Vì vậy mà có thói quen là xem xét
những sự vật tự nhiên và quá trình tự nhiên trong thái biệt lập của chúng, ở
bên ngoài mối liên hệ to lớn chung, và do đó không xem xét chúng trong
trạng thái vận động mà xem xét trong trạng thái tĩnh, không coi chúng về cơ
bản là biến đổi mà coi chúng là vĩnh viễn không biến đổi, không xem xét
chúng trong trạng thái sống mà xem xét chúng trong trạng thái chết. Phương
pháp nhận thức ấy được Bêcơn và Lốc-cơ đưa từ khoa học tự nhiên vào triết
học thì nó tạo ra tính hạn chế đặc thù của những thế kỷ gần đây, tức là
phương pháp siêu hình. Đối với nhà siêu hình học thì những sự vật và sự phản
ánh của chúng trong tư duy, tức là những khái niệm, đều là những đối tượng
nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ, vĩnh viễn, phải được xem xét cái này

bên cạnh cái kia. Tiêu điểm của quan niệm siêu hình về các hiện tượng tự
nhiên là những quan điểm về tính tuyệt đối không biến đổi về tự nhiên, các
hiện tượng và các đối tượng về tự nhiên, được xem xét là tồn tại vĩnh viễn,
không biến đổi, không có mối liên hệ với nhau,độc lập tuyệt đối với nhau.
Theo quan điểm này thì dẫu cho bản thân giới tự nhiên xuất hiện bằng cách
nào chăng nữa, nhưng một khi nó đã có rồi thì nó vĩnh viễn không thay đổi,
chừng nào nó còn tồn tại các loài thực vật và động vật sinh ra như thuyết nào
thì cứ vĩnh viễn như thế không thay đổi, cái giống nhau bao giời cũng sinh ra
cái giống nhau, không có một sự phát triển nào trong giới tự nhiên. Nhà siêu
hình học suy nghĩ bằng những sự tương phản hoàn toàn trực tiếp, họ nói có là
có, ngoài cái đó ra là trò xảo quyệt. Theo Ăngghen thì “khoa học tự nhiên của
đầu thế kỷ XVIII đã vươn cao hơn thời cổ Hy Lạp về mặt khối lượng kiến
thức và ngay cả về mặt phân loại các tài liệu của mình bao nhiêu thì về mặt
nắm vững những tài liệu trên lý luận, về mặt quan niệm tổng quát giới tự


10
nhiên, nó lại kém thời đó bấy nhiêu” 1. Đó chính là nguyên nhân đưa các nhà
khoa học tự nhiên và các nhà triết học thời kỳ đó rơi vào chủ nghĩa duy vật
siêu hình. Với quan điểm siêu hình về tự nhiên, người ta không thấy được sự
liên hệ, sự mâu thuẫn bên trong, sự chuyển hoá của các sự vật, không thấy
xung lực bên trong của sự vận động. Chính vì vậy, Ăngghen đã viết “ở bất cứ
đâu, nó cũng đi tìm và tìm thấy rằng nguyên nhân cuối cùng là sự thúc đẩy từ
bên ngoài, một sự thúc đẩy không thể giải thích được từ bản thân giới tự
nhiên”2. Đó là cái “hích của thượng đế” và thế là với quan điểm siêu hình, với
“cái hích đầu tiên” khoa học tự nhiên vào thời kỳ này lại rơi vào thần học. Do
vậy, Ăngghen đã có kết luận hết sức xác đáng về khoa học thời kỳ này đó là
“Vào đầu thời kỳ đó Cô-péc-ních đã gửi cho thần học một bức thư đoạn tuyệt,
Niu-tơn kết thúc thời kỳ đó bằng cái định đề về cái hích đầu tiên của chúa” 38.
Từ nội dung được trình bày ở trên, có thể thấy rằng, cái quyết định tính chất

máy móc, siêu hình của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII không phải do
nội dung của các phát minh khoa học cái hàng ngày hàng giờ đang vạch ra
tính chất biện chứng của thế giới, mà là do trình độ phát triển của khoa học tự
nhiên thời kỳ đó, dẫn đến sự thống trị của cơ học trong khoa học và vai trò to
lớn của phương pháp thực nghiệm kha học trong nghiên cứu khoa học. Địa vị
thống trị của cơ học, trong khoa học đã làm cho các nhà triết học, lầm tưởng
các định luật của cơ học là định luật vạn năng, chi phối mọi lĩnh vực tự nhiên,
điều đó dẫn người ta đến chủ nghĩa máy móc. Còn tính phổ biến và vai trò
của phương pháp thực nghiệm khoa học, một phương pháp chia nhỏ thế giới,
để nghiên cứu một cách chính xác các thuộc tính, tính năng …của từng sự vật
hiện tượng, và quá trình riêng lẻ đã dẫn các nhà triết học, và các nhà khoa học
tự nhiên, đến với chủ nghĩa duy vật siêu hình. Ở đây, cũng cần chỉ rõ rằng
phương pháp thực nghiệm khoa học và cơ học không phải là cơ sở khoa học
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H1994, t20, tr464
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H1994, t20, tr464
3
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H1994, t20, tr464-465
1
2

8


11
tự nhiên của chủ nghĩa siêu hình máy móc. Các quan điểm siêu hình, máy
móc, về tự nhiên ra đời là do người ta đã đề ra các quan điểm đó một cách tuỳ
tiện, chủ quan. Trong đó, người ta đã biến quy luật đặc thù của cơ học thành
quy luật phổ biến của vũ trụ, biến một phương pháp đặc thù trong nghiên cứu
khoa học, thành phương pháp phổ biến và nguyên tắc chung nhất để nhận
thức thế giới, và cuối cùng đi tới chia cắt thế giới, biến giới tự nhiên thành

một tập hợp hỗn độn các sự vật, hiện tượng.
Mặt khác, cũng cần thấy rằng việc truyền bá rộng rãi và củng cố những
quan điểm siêu hình máy móc làm cho nó trở thành quan điểm thống trị trong
triết học và khoa học tự nhiên thời kỳ đó, và cũng vì xuất phát từ lợi ích của
giai cấp tư sản quyết định. Giai cấp tư sản sử dụng quan điểm siêu hình máy
móc làm cơ sở lý luận và tư tưởng, để nói lên rằng chế độ tư bản là vĩnh viễn
không thể thay đổi được. Họ đã đưa ra vấn đề đó một cách khéo léo vào trong
triết học và khoa học tự nhiên. Như vậy, nguyên nhân của sự ra đời của chủ
nghĩa duy vật máy móc, siêu hình ở thế kỷ XVII-XVIII đã được làm sáng tỏ.
Chúng ta cần thấy rằng, tuy tính chất và trình độ phát triển của khoa học tự
nhiên ở thế kỷ XVII-XIII đã quyết định sự ra đời của những quan điểm siêu
hình, máy móc về tự nhiên, nhưng nội dung khoa học của nó, lại có tính chất
duy vật biện chứng, chỉ có điều nó phản ánh tính chất biện chứng và các quy
luật khách quan của giới tự nhiên ở chừng mực khác nhau mà thôi. Có thể
thấy rõ điều đó ngay trong các thành tựu của cơ học một môn khoa học được
xem là thủ phạm đưa các nhà triết học xa lầy vào chủ nghĩa siêu hình, máy
móc. Thuyết nhật tâm của Cô-péc-níc và những định luật chuyển động của
các hành tinh đã đem lại nhiều cơ sở vững vàng để nhận mối liên hệ qua lại,
sự tác động lẫn nhau trong quá trình tồn tại, vận động của các thiên thể trong
hệ mặt trời. Cơ học của Niu-tơn đã phát hiện những định luật tổng quát của
một trong những hình thức vận động của vật chất, tất cả những điều ấy nói lên
rằng cơ học (vĩ mô) đã phản ánh được những yếu tố nhát định của phép biện


12
chứng khách quan của tự nhiên. Từ đó, có thể nhận định rằng khoa học không
bao giời là kẻ thù của phép biện chứng, mà những bí mật trong phép biện
chứng của tự nhiên luôn luôn và dần dần được hé mở bởi những phát kiến
khoa học và sự tiến bộ của khoa học .
1.3. Những tiền đề khoa học tự nhiên cho sự ra đời của chủ nghĩa

duy vật biện chứng
Từ sự phân tích ở trên, và dẫn chứng Cô-péc-ních đã chia tay thần học
bằng lá thư đoạn tuyệt, thì Niu-tơn lại đến với chúa bằng “cái hích đầu tiên”.
Điều đó nói lên tính hạn chế, tính chật hẹp và sự sai lầm của quan điểm máy
móc, siêu hình về tự nhiên. Khoa học không thể tiến lên được nếu một lần nữa
không dũng cảm chia tay với chúa, chia tay với quan điểm siêu hình máy móc
đó của các nhà triết học và các nhà khoa học. Do quan điểm siêu hình máy
móc về tự nhiên, cho nên ngay từ đầu quan niệm ấy đã để cho thần học một vị
trí trong khoa học. Các nhà tự nhiên không thể giải thích được thế giới bằng
bản thân nó, chừng nào chủ nghĩa duy vật của họ còn nằm trong khuôn khổ
hạn chế của phép siêu hình và chủ nghĩa máy móc về tự nhiên. Do chỗ quan
niệm máy móc siêu hình về tự nhiên, quy mọi sự vận động của thế giới vào
vận động cơ học và các định luật của cơ học trở thành các định luật vạn năng
cho nên các nhà triết học và khoa học thời kỳ ấy, không lý giải được nguồn
gốc của sự vận động phát triển của vạn vật trong vũ trụ. Từ chỗ cho rằng vận
động của vạn vật chỉ là vận động cơ học, các nhà cơ học buộc phải tìm
nguyên nhân bên ngoài để lý giải sự vận động ấy, và nguyên nhân ấy không
phải là cái gì khác ngoài thượng đế. Đó chính là sự bế tắc, sự chật hẹp, sự hạn
chế của quan niệm siêu hình máy móc về tự nhiên. Để có cái nhìn nhận đúng
đắn hơn và khách quan hơn đòi hỏi cần phải phá bỏ cách suy nghĩ đó để cứu
chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu hình, cải tạo chủ nghĩa duy vật ấy thành duy
vật triệt để, chân chính, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành thế giới quan
khoa học, mở ra con đường rộng lớn và phương hướng đúng đắn cho khoa


13
học tiến lên. Mỗi bước phát triển của khoa học, hoặc một học thuyết ra đời,
nó đều gắn liền với điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Chính vì vậy, triết học
Mác nói nói chung và chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng chỉ ra đời vào
những năm 40 của thế kỷ XIX, khi có sự chín muồi của những tiền đề về kinh

tế xã hội, của những tiền đề về lý luận và khoa học tự nhiên. Tuy nhiên sự
chín muồi đó không phải cứ tự nhiên nó có, mà đòi hỏi có một quá trình vận
động phát triển tương đối lâu dài, qua nhiều bước trung gian quá độ. Khoa
học tự nhiên cũng vậy, để cho sự ra đời của những phát minh có tính chất
vạch thời đại đòi hỏi phải tạo tiền đề khoa học, cho Mác và Ăngghen có sự
khái quát mới về mặt triết học, thì khoa học tự nhiên ẩtước đó đã có những
bước tiến quan trọng, một mặt nó thiết thực phục vụ cho sự phát triển của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng mặt khác nó trực tiếp góp phần làm cho
từng bước đẩy lùi những quan niệm siêu hình, máy móc về tự nhiên và chuẩn
bị cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Qua nghiên cứu, thấy rằng ngay từ thế kỷ XVII, đã xuất hiện đường lối
chống quan điểm siêu hình, máy móc trong khoa học tự nhiên gắn với những
phát minh, những thành tựu khoa học mới trên hầu hết trên các lĩnh vực khoa
học tự nhiên thời kỳ đó. Trên lĩnh vực vật lý học, trước hết đó là những cống
hiến của Lô-mô-nô-xốp. Ông là người mở đầu truyền thống duy vật chủ nghĩa
trong khoa học và trong triết học tiên tiến ở Nga. Những cống hiến của Ông
hầu hết mọi người đều biết, đặc biệt là những thành quả về vật lý học. Sự
cống hiến quan trọng nhất vào khoa học là đã phát hiện định luật bảo tồn vật
chất và vận động, coi như định luật tự nhiên, có tính phổ biến và định luật đó
đã được chứng minh bằng lý luận và bằng thực nghiệm. Ông đã kiên quyết
chống lại thuyết nhiên tố và đưa ra thuyết phân tử động học về các chất khí
mà trước kia người ta coi đó là những chất không có trọng lượng cả trong các
hiện tượng điện, ánh sáng và phát triển những quan niệm mới tiến bộ về các
hiện tượng ấy. Có thể thấy rằng, ngay từ giữa thế kỷ XVIII với những phát


14
minh và cống hiến quan trọng của mình chỉ riêng trong lĩnh vực vật lý, Lômô-nô-xốp đã tạo nên những đòn đầu tiên quan trọng vào quan điểm siêu
hình, máy móc về tự nhiên của các nhà triết học và khoa học thế kỷ XVIIXVIII. Với những quan điểm khoa học của ông, thế giới không còn là cái gì
đó bao gồm những sự vật, những hiện tượng cô lập, tách biệt nằm im bên

cạnh cái kia, mà giữa chúng có mối liên hệ. Theo quan điểm của ông vật chất
và vận động không bao giờ tiêu diệt được và không bao giờ được tạo ra. Ông
khẳng định rằng, vật chất và vận động không tách rời nhau, chính vì vậy nó
đã làm cho quan điểm máy móc, siêu hình trở nên không hợp thời, và lộ rõ
chân tướng là một sự đóng kín, và vị trí của “cái hích đầu tiên” của “chúa”, đã
bắt đầu lung lay trong khoa học. Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, vật lý học đã
thu được những thành tựu to lớn, và có tính chất đột phá trong việc nghiên
cứu các hiện tượng nhiệt, điện và từ…Trong giai đoạn trước, các ngành này
mới ở trình độ sơ khai ban đầu. Sau đó, chúng được phát triển một cách rộng
rãi và có một cơ sở khoa học vững chắc. Quá trình phát triển của công cụ lao
động đã làm cho năng xuất lao động ngày càng tăng, biểu hiện như sự phát
triển của máy hơi nước, và việc vận dụng rộng rãi hơi nước trong công
nghiệp, trong vận tải, và trong cả những triển vọng phong phú của việc áp
dụng các hiện tượng điện và từ trong kỹ thuật, do sự phát hiện ra các quá trình
điện, từ và nhiệt…đã làm cho người ta rất chú ý đến các hiện tượng ấy và tạo
ra những tiền đề vật chất kỹ thuật cho những phát minh quan trọng nhất. Các
thực nghiệm khoa học được tiến hành chu đáo và rộng rãi đã cung cấp những
dẫn chứng không thể chối cãi về sự chuyển hoá định tính giữa công nhiệt và
công cơ và về sự bảo toàn của chúng. Ăngghen cho rằng, sự xác định đương
lượng cơ học của nhiệt đã chấm dứt mọi hoài nghi về kết quả ấy. Điều đó
chứng minh rằng không thể xem xét các hiện tượng như nhiệt, điện, từ, ánh
sáng…như đặc tính của các chất “không có trọng lượng” mà phải giải thích
các hiện tượng ấy theo một quan điểm khoa học mới đó là có sự chuyển hoá


15
giữa năng lượng cơ- nhiệt- điện- và từ…thực nghiệm và công nghiệp đã
chứng minh nhiệt năng có thể biến thành cơ năng, thành điện năng, điện năng
có thể chuyển hoá thành quang năng, thành năng lượng từ…và người ta còn
phát minh ra hiện tượng nhiệt hoá và điện hoá.

Từ những phát minh khoa học đem lại ý nghĩa rất quan trọng, và khả
năng to lớn để bác bỏ những quan điểm siêu hình về tự nhiên, làm phá sản
hoàn toàn quan niệm về chất “không có trọng lượng”. Một quan niệm cho
rằng các hiện tượng như: nhiệt, điện, từ, ánh sáng, là đặc tính của các chất
“không có trọng lượng”, và chuẩn bị cho sự thừa nhận những mối tương quan,
liên hệ và sự chuyển hoá giữa các lĩnh vực tự nhiên, tức quan điểm biện
chứng về tự nhiên. Những phát minh đó, đã trực tiếp chuẩn bị cho việc nêu ra,
và xây dựng nên một học thuyết chung, về năng lượng và cuối cùng đặt
những cơ sở vững chắc cho định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, một
phát minh có tính chất vạch thờ đại ở những năm 40 của thế kỷ XIX, và nó đã
chứng minh một cách hết sức rõ ràng tính chất nghèo nàn, hạn hẹp và thậm
chí phản khoa học của các quan niệm siêu hình về tự nhiên, đồng thời những
phát minh ấy đã vạch ra phép biện chứng khách quan có sẵn trong các hiện
tượng tự nhiên.
Trên lĩnh vực thiên văn học, thời kỳ này cũng đã đạt được những thành
tựu rất đáng kể. Can tơ (1724-1804) và La-pơ- la-xơ đã giáng cho quan điểm
siêu hình một đòn chí mạng. Học thuyết của Can tơ đưa ra quan niệm mới
tiến bộ và cách mạng đối với thời đại của ông, với lý thuyết về bầu trời, ông
cho rằng trái đất và toàn bộ hệ thống mặt trời được cấu tạo một cách tự nhiên
từ những tinh vân, do tác dụng của lực hút và lực đẩy, tạo nên những chuyển
động xảy ra trong vũ trụ,và kết quả là đã tạo ra trái đất và hệ mặt trời. Với
quan niệm như vậy ông đã tránh được quan niệm siêu hình và về “cái hích”
đầu tiên của Niu tơn. Theo Ăngghen thì ý nghĩa khoa học khách quan giả
thuyết của Can tơ cũng còn ở chỗ là nếu cho rằng trái đất được hình thành bởi


16
cái gì đó trong thời gian, thì trạng thái địa chất và các trạng thái khác của trái
đất, động vật và thực vật của nó cũng được hình thành từ một cái gì đó trong
thời gian. Như vậy theo Can tơ, thế giới này là vật chất và nó tồn tại trong sự

vận động, trong quá trình tự thân phát triển chứ không phải do bàn tay sáng
tạo của chúa, quan điểm ấy vừa duy vật vừa biện chứng.
Trên lĩnh vực địa chất học, khoa học cũng thu được những thành tựu
quan trọng và có giá trị to lớn trong việc bác bỏ quan điểm siêu hình. Ở đây
phải nói đến những cống hiến của Lai- en (1797-1875), nhà địa chất học
người Anh, người sáng lập ra thuyết về sự phát triển trong địa chất học. Theo
Lai- en thì những biến đổi của trái đất không phải là do những tai hoạ ngẫu
nhiên mà là kết quả của những tác động dần dần liên tục của những yếu tố tự
nhiên. Ph. Ăng ghen chi ra thuyết của Lai- en bên cạnh những thiếu sót của
nó, nó có ý nghĩa to lớn đó là: Một là, nó đã làm thay đổi quan niệm cho rằng
trái đất và những biến đổi của nó là do “tính bất thường” của “đấng tạo hoá”
và làm cho quan điểm đó mất hết cơ sở. Hai là, quan niệm về sự biến hoá
không ngừng của vỏ trái đất đã đưa đến học thuyết về sự biến hoá dần dần của
các cơ thể và sự thích nghi của các cơ thể với môi trường đang biến đổi. Quan
niệm mới về sự phát triển, của giới tự nhiên hữu cơ đã được phát triển trong
các tác phẩm của G.Buy-phông, Đi đrô, E-Đác-uyn, G.S I-Lê-ra…và của
nhiều nhà sinh vật học cũng như các nhà triết học cuối thế kỷ XVIII và đầu
thế kỷ XIX. Trong đó những học thuyết của La-mác, của Đác uyn là những
đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh những quan điểm siêu hình về tự nhiên.
Trong những năm 30 của thế kỷ XIX, thuyết tế bào được xây dựng nên
trong các công trình của I.Đuốc-kin, Gô-ri-a-nhi-nốp, Slây-đen, và Svan.
Những thuyết này đặt cơ sở vững vàng hơn cho sự nghiên cứu các vật chất
sống trong tự nhiên. Nó khẳng định tính thống nhất trong cấu tạo cơ thể động
vật và thực vật, bởi vì trước đó người ta quan niệm động vật và thực vật đối
lập nhau và không quan hệ gì với nhau. Điều đó làm cho vai trò sáng tạo của


17
chúa đối với giới tự nhiên trở nên lạc lõng và kệch kỡm đồng thời cung cấp
thêm một bằng chứng không thể chối cãi được tự nhiên vốn tồn tại trong trạng

thái biện chứng.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, sự phát triển của khoa học từ cuối thế
kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX đã làm cho khoa học đạt được những thành tựu
rực rỡ, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ của sản xuất, của
đời sống xã hội và tạo tiền đề cho sự phát triển của khoa học sau này, đồng
thời nó có nghĩa về mặt triết học rất to lớn. Những thành tựu ấy nó đã phá vỡ
quan niệm siêu hình và mở ra tiền đề cần thiết trong xây dựng một quan niệm
mới có tính chất cách mạng trong tự nhiên đó là chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Trong những thành tựu khoa học đó, được các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác- Lênin đặc biệt quan tâm đó là ba phát minh quan trọng, có ý
nghĩa vạch thời đại đó là:
Thứ nhất, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của May-e
người Đức, một thành tựu khoa học hiện đại được kết tinh từ toàn bộ những
thành tựu của vật lý học, của hoá học, sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Nó
đã phá tan khuôn khổ trật hẹp của chủ nghĩa duy vật siêu hình và mở ra một
hướng phát triển mới trong triết học và khoa học. Định luật đó đã có đầy đủ,
những cơ sở lý luận, và thực nghiệm chứng minh cho tính đúng đắn của nó,
đã vạch ra một cách rõ ràng phép biện chứng khách quan của tự nhiên, nó đã
chỉ ra vận động gắn liền với vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và
cũng không thể bị tiêu diệt được, hình thức vận động trong vũ trụ vô cùng
phong phú và đa dạng, giữa các hình thức vận động đều có sự liên hệ, có sự
chuyển hoá lẫn nhau, thế giới là một chu trình bất tận của sự vận động chuyển
hoá lẫn nhau của các sự vật hiện tượng, các quá trình. vì vậy định ấy như đột
phá đối với quan điểm siêu hình và là một bằng chứng khoa học hùng hồn
không thể bác bỏ phép biện chứng khách quan của giới tự nhiên.


18
Thứ hai, học thuyết tế bào của Slây- đen và Svan, một trong những
thành tựu lớn nhất trên lĩnh vực sinh học cũng là hòn đá thử vàng phép biện

chứng của tự nhiên. Nó đã chứng minh tất cả các cơ thể động vật và thực vật
đều được cấu tạo nên từ tế bào, các tế bào phát triển bằng hình thức nhân đôi.
Chính từ phát hiện này đưa tới việc thừa nhận sự thống nhất của toàn bộ thế
giới tự nhiên, từ vô cơ đến hữu cơ, sự thống nhất của toàn bộ quá trình lịch sử
của sự sống từ hình thức đơn giản nhất, đến những cơ thể có cấu trúc phức tạp
nhất. Phát hiện đó cho phép nhìn vào bản chất sự sống theo quan điểm về mối
liên hệ, về sự thống nhất các hình thức của nó và về sự phát triển của các hình
thức ấy, và về sự nhảy vọt.
Thứ ba, học thuyết tiến hóa của Đác uyn năm 1859, ông đã làm cho
thuyết tiến hoá trở thành khoa học (thuyết tiến hoá do Vôn phơ công bố năm
1759) như vậy sau 100năm đã được hoàn thiện với thuyết tiến hoá của Đác
uyn. Thuyết tiến hoá đã vạch ra những chứng cứ không thể nào chối cãi để
luận chứng cho sự phát triển của các loài sinh vật, nó là cơ sở luận giải tính
phong phú đa dạng của giới sinh vật, nó chứng minh rằng các loài sinh vật ,
động vật kể cả loài người sống trong trái đất đều là sản phẩm tiến hoá của tự
nhiên. Sự tiến hoá đó diễn ra theo con đường biến dị và di truyền do tác động
của môi trường. Từ những phát minh đó đã giáng một đòn chí mạng vào các
quan điểm siêu hình và quan điểm duy tâm về tự nhiên và xã hội.
Tóm lại, với sự phát triển lâu dài bền bỉ của khoa học, với những phát
minh khoa học, nhất là những phát minh có tính chất vạch thời đại, quan niệm
siêu hình về tự nhiên hoàn toàn mất chỗ đứng trong khoa học và quan niệm
mới về tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản. Như Ph.Ăng ghen
viết: “Tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì cố định đều biến
thành mây khói, tất cả cái gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì
đã trở nên nhất thời, và người ta chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều
vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu. Như thế là chúng ta đã


19
trở về với quan niệm của những người sáng vĩ đại ra triết học Hy Lạp, cho

rằng toàn bộ giới tự nhiên, từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất, từ hạt cát cho đến
mặt trời, tự những sinh vật nguyên thuỷ cho đến con người nằm trong tình
trạng không ngừng sinh ra và diệt vong, lưu động không ngừng vận động và
biến hoá bất tận”1. Như vậy có thể khẳng định rằng, khoa học tự nhiên đến
những năm 40 của thế kỷ XIX đã chuẩn bị xong xuôi những tiền đề cần thiết
cho sự ra đời của một triết học mới, đó là triết học duy vật biện chứng.
Từ những sự phát triển của khoa học tự nhiên, các điều kiện về lý luận,
về điều kinh tế xã hội, cùng với thiên tài và tình bạn chí nghĩa chí tình của
Mác và Ăng ghen. Hai ông đã nhận trách nhiệm lớn lao mà lịch sử giao cho,
các ông đã kế thừa những tinh hoa của nhân loại, tuy nhiên không phải kế
thừa một cách máy móc, nguyên xi mà kế thừa có sự chọn lọc đồng thời phê
phán những hạn chế của triết học nhân loại đặc biệt triết học cổ điển Đức, chủ
nghiã xã hội không tưởng ở Pháp, kinh tế chính trị học của Anh. Các ông đã
khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, giải phóng phép
biện chứng khỏi chủ nghĩa duy tâm, giải phóng chủ nghĩa duy vật khỏi phép
siêu hình xây dựng thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng
duy vật, đồng thời vận dụng chúng vào nghiên cứu đời sống và xã hội hình
thành nên chủ nghĩa duy vật lịch sử. Vì vậy triết học đó mang tính cách mạng,
và là học thuyết phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp của giai
cấp công nhân và giải phóng toàn thể nhân loại.
Trong quá trình sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác và
Ăngghen ngay từ đầu đã dựa vào những thành tựu khoa học của tự nhiên. Từ
những vấn đề lý luận của khoa học tự nhiên các ông đã đúc rút được những lý
luận cho việc xây dựng hệ thống lý luận nhằm đấu tranh trên mọi phương
diện chống chủ nghĩa siêu hình máy móc và chủ nghĩa duy tâm. Vừa trực tiếp
tham gia phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư
sản vừa tập trung viết các tác phẩm để chống lại tư tưởng đối lập.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H1994, t20, tr471



20
Như vậy chúng ta thấy rằng chủ nghĩa duy vật biện ra đời đó là sự kết
của nhiều yếu tố, nhân tố chủ quan, điều kiện khách quan, trong đó một yếu tố
không thể thiếu được đó là sự phát triển của khoa học tự nhiên. Mỗi bước tiến
của khoa học tự nhiên là mỗi bước mà đòi hỏi phép biện chứng cần khái quát.
Những phát minh sau này của khoa học tự nhiên tiếp tục làm sáng tỏ phép
biện chứng khách quan của tự nhiên và chứng minh tính đúng đắn khoa học
của các nguyên lý trong triết học mác xít. Chẳng hạn như định luật tuần hoàn
của các nguyên tố hoá học do Men-đen-lê-ép sáng tạo ra năm 1869 cũng có ý
nghĩa rất to lớn trong việc củng cố và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Đặc biệt sự phát triển cả khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX,
với những phát minh như:(Năm 1895) Rơn-ghen phát hiện ra tia x mở đầu
cuộc cách mạng nghiên cứu thế giới vi mô, cho phép con người ta đi vào
những sự vật nhỏ. (Năm 1896) Béc-cơ-gien phát hiện phóng xạ chứng minh
nguyên tử có thể phân chia được. (Năm 1897) Tôm xơn phát hiện ra điện tử…
từ những phát minh trên cho thấy những quan niệm cũ bị bác bỏ, chính vì vậy
chủ nghĩa duy tâm lại có thời cơ để xuyên tạc và chống lại chủ nghĩa Mác, họ
cho rằng chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng không có đối
tượng nghiên cứu, từ đó họ trượt dài sang duy tâm. Chính vì vậy Lênin đã cho
rằng các nhà khoa học tự nhiên giỏi về vật lý nhưng kém cỏi về mặt triết học.
Lênnin là người kế tục sự nghiệp của Mác và Ăngghen, ông một mặt bảo vệ
và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng lên tầm cao mới, mặt khác lại phải
đấu tranh với bọn cơ hội xét lại, chống quan điểm siêu hình và chủ nghĩa duy
tâm, tôn giáo. Khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, mở
đường cho khoa học và triết học tiếp tục phát triển.
2. Ý nghĩa đối với vấn đề bảo vệ, phát triển Triết học Mác – Lênin trong
giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, việc tiếp tục xây dựng và củng cố mối quan hệ

giữa khoa học tự nhiên với chủ nghĩa duy vật biện chứng có một ý nghĩa hết


21
sức quan trọng một mặt để bảo vệ và phát triển nó, mặt khác để củng cố mối
quan hệ biện chứng, liên minh chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên với triết học.
Đó cũng là cơ sở khoa học để khẳng định tính tất yếu ra đời và bảo vệ, phát
triển Triết học Mác – Lênin trong tình hình hiện nay.
Triết học Mác – Lênin ra đời vào đầu những năm 40 của thế kỷ XIX là
kết quả sự phát triển chín muồi của điều kiện kinh tế-xã hội, tư tưởng lý luận
và khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời và sau đó được
vận dụng vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Thực chất đó là sự phát triển cao
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và là quá trình phát triển hợp quy luật trong
sự tác động biện chứng giữa điều kiện khác quan và nhân tố chủ quan. Triết
học Mác – Lênin với chủ nghĩa duy vật biện chứng mang bản chất khoa học,
hoàn bị và triệt để được coi là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong cuộc
đấu tranh giải phóng mình và giải phóng nhân loại. Bởi triết học Mác ngay từ
khi mới ra đời đã là thế giới quan phương pháp luận khoa học cho giai cấp vô
sản, là thế đối trọng của giai cấp tư sản. Đồng thời triết học Mác đã luận giải
một cách khoa học sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Triết học Mác-Lênin trở thành ngọn
cờ tư tưởng, trở thành cơ sở lý luận trực tiếp cho cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân chống giai cấp tư sản. Cho nên ngay từ khi mới ra đời và cho đến
ngày nay, triết học Mác-Lênin luôn luôn là đối tượng chống phá của các nhà
lý luận tư sản. Mục tiêu của sự chống phá đó bác bỏ triết học Mác-Lênin trên
những vấn đề cơ bản nhất của nó, từ đó đi tới làm phá sản hoàn toàn hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các nhà
lý luận tư sản cho rằng đã đến lúc con người đi tới một xã hội đạt tới kỷ
nguyên duy lý khoa học, ở đó mọi vấn đề có thể tìm được lời giải đáp từ khoa

học - kỹ thuật mà không kêu gọi đến lý luận, đến triết học. Thông qua đó mà
phủ nhận vai trò của triết học mà trước hết là triết học mác xít, nó tước bỏ vũ


22
khí tinh thần của giai cấp vô sản. Đồng thời các học giả tư sản đang tìm mọi
cách cắt xén, bôi nhọ chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và triết học Mác- Lênin
nói riêng trong đó có những nguyên lý quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chúng cho rằng hệ thống lý luận của Mác- Lênin chỉ là sự sáng tạo
thuần tuý, thiếu các cơ sở khoa học vững chắc mà chủ yếu mang tính tư biện
và hệ thống lý luận đó không còn phù hợp, không theo kịp sự phát triển của
những điều kiện kinh tế xã hội, sự phát triển của khoa học hiện đại. Ngày nay
khoa học đã vượt xa thời đại của Mác-Lênin vì vậy hệ thống lý luận của MácLênin trở nên thừa và lạc hậu, không có ý nghĩa khoa học, ví dụ như lý luận
về giai cấp và đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, vấn đề con người…mà
Mác-Lênin đưa ra chỉ là ảo vọng. Vì sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã xoá
bỏ được mọi đối kháng trong xã hội, chúng cho rằng nhà nước tư bản là nhà
nước phúc lợi chung chứ không phải là cơ quan quyền lực của giai cấp tư sản,
nhất là từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu sụp đổ thì chúng lại càng cho rằng những điều mà chúng đưa ra
hoàn toàn có lý.
Trước tình hình hiện nay, việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, làm cho nó luôn đóng vai trò là hạt nhân lý
luận, là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của mình. Trước sự phát triển của khoa học trên tất cả các lĩnh vực kể
cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đã tiến những bước dài chưa từng có
thì triết học lại chưa có sự phát triển lớn, thiếu những bước tiến đột phá. Có
thể nói rằng, sau khi Lênin mất, triết học Mác-Lênin và chủ nghĩa Mác-Lênin
được xem như một hệ thống đã xong xuôi không cần phải bổ xung và phát
triển. Chính điều đó đã làm cho hệ thống lý luận bị đóng kín không được phát
triển. Do vậy, vấn đề đặt ra là triết học Mác- Lênin nói chung và chủ nghĩa

duy vật biện chứng nói riêng cần phải tự vươn mình để thực sự ngang tầm với
sự phát triển của thời đại, nhất là sự phát triển vượt bậc của khoa học hiện đại.


23
Bảo vệ, phát triển Triết học Mác – Lênin trong tình hình hiện nay cần phải
đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bám sát và gắn
chặt với những thành tựu khoa học để khái quát, làm sâu sắc thêm các nguyên
lý, các qui luật, phạm trù của triết học Mác-Lênin, từ đó làm cho triết học và
chủ nghĩa Mác- Lênin có sức sống trường tồn cùng với sự phát triển của xã
hội loài người.

KẾT LUẬN
Mỗi sự vật hiện tượng ra đời, đều có quá trình phát sinh phát triển và
gắn liền với các sự vật hiện tượng khác. Trong lịch sử phát triển của mình,
chủ nghĩa duy vật luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học tự nhiên. Tuy
nhiên ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, có các quan điểm khác nhau về vấn


24
đề này. Thời kỳ cổ đại, khoa học chưa phát triển, triết học được coi là khoa
học của mọi khoa học, vì vậy các nhà triết học đồng thời cũng là nhà khoa
học tự nhiên. Dần dần nhu cầu thực tiễn cuộc sống đòi hỏi, con người phải
khái quát và hiểu thực chất trong từng lĩnh vực, của cuộc sống đặt ra. Các
khoa học tự nhiên trong quá trình phát triển đã dần dần tách khỏi triết học và
trở thành khoa học độc lập. Mặc dù vậy, giữa chúng lại luôn có mối liên hệ
mật thiết với nhau.
Mối quan hệ giữa sự phát triển của khoa học tự nhiên và sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một tất yếu khách quan trong tiến trình
phát triển của lịch sử triết học nhân loại nói chung và sự phát triển của chủ

nghĩa duy vật biện chứng nói riêng. Trong giai đạon hiện nay, trước sự phát
triển của khoa học hiện đại, mối quan hệ đó là cơ sở khoa học để củng cố
ngày càng vững chắc mối liên minh giữa triết học và khoa học. Đối với vấn
đề bảo vệ, phát triển Triết học Mác – Lênin, mối quan hệ giữa sự phát triển
của khoa học tự nhiên và sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng để khẳng định tính khoa học, hoàn bị và triệt để của
hệ thống triết học tiến bộ nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H 1995, tập 1.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H 1995, tập 2.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H 1994, tập 20.
4. C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb.CTQG,H 1995, tập 21.


25
5. Giáo trình triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học), Nxb Lý Luận Chính Trị, HN.
2006
6. Lịch sử triết học, GS,TS. Nguyễn Hữu Vui, Nxb CTQG, HN.2004
7. Triết học hỏi và đáp, Trường Đại học quốc gia Lômônôxốp, GS. E.E
Nexmeyanov, Nxb Đà Nẵng.2002
9. Lịch sử triết học, PGS.Vũ Ngọc Pha, Nxb Thống Kê.2004


×