Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VÀ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC SỰ KHỦNG HOẢNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.39 KB, 17 trang )

"TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN"
VÀ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC SỰ KHỦNG HOẢNG
CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN NAY
Năm 1848, "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" ra đời. Bản Tuyên ngôn này
do C.Mác và Ăngghen viết theo sự uỷ nhiệm của Liên đoàn những người cộng
sản. Tác phẩm nổi tiếng đó vừa bao hàm cương lĩnh của chính đảng vô sản, vừa
trình bày thế giới quan mới do Mác và Ăngghen sáng lập. Lênin viết "Thế giới
quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để, bao gồm cả lĩnh vực đời sống xã hội; phép
biện chứng, học thuyết đầy đủ và sâu sắc nhất về sự phát triển; lý luận về đấu
tranh giai cấp và về vai trò cách mạng có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới của giai
cấp vô sản, người sáng tạo ra xã hội mới, cộng sản chủ nghĩa, đã được miêu tả
một cách rõ ràng, trong sáng một cách tài tình".
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" ra đời đánh dấu sự xuất hiện của một
học thuyết khoa học, cách mạng - Học thuyết Mác xít. Tác phẩm là văn kiện có
tính chất cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản cả về lý luận và thực tiễn.
Những luận điểm mà C.Mác và Ăngghen trình bày trong tác phẩm đã, đang và sẽ
là thế giới quan, phương pháp luận cho giai cấp vô sản trên con đường đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Tác phẩm ra đời đã thúc đẩy phong trào công nhân đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản, chống giai cấp tư sản lên một bước mới, phát triển về chất. Công
xã Pa ri năm 1871 là cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới, giai cấp vô
sản Pháp đã đập tan chính quyền của giai cấp tư sản, thiết lập chính quyền của
mình - chính quyền của những người dân lao động. Do mắc phải những sai lầm
nên công xã chỉ tồn tại trong 72 ngày, các chiến sỹ của công xã bị kẻ thù dìm
trong biển máu. Công xã Pa ri thất bại không đồng nghĩa với việc tổng kết sai


2

2


các quy luật khách quan, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản đã chấm dứt và học
thuyết Mác không còn giá trị. Chính vì vậy khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến
giai đoạn cao của nó là chủ nghĩa đế quốc đã làm xuất hiện khâu yếu nhất trong
sợi dây chuyền của nó, khâu yếu tập trung ở nước Nga - chính ở đây đã tạo ra
những điều kiện chín muồi cho cuộc cách mạng vô sản.
Lênin và những người cộng sản Nga đã lãnh đạo nhân dân tiến hành thành
công cuộc cách mạng tháng Mười năm 1917 đập tan chế độ Nga hoàng, lập nên
nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới của những người lao động.
Nhà nước Xô viết ra đời khẳng định tính đúng đắn cách mạng của Học
thuyết Mác - Lênin và sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, ngay
khi chế độ Xô viết ra đời, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội đã liên minh "ma quỷ" với
nhau hòng tập trung tiêu diệt Nhà nước Xô viết. Từ năm 1941 đến năm 1945,
chủ nghĩa phát xít lợi dụng ưu thế kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật tấn công
trực tiếp vào Liên xô với hy vọng chỉ trong thời gian ngắn sẽ xoá bỏ được Nhà
nước công nông đầu tiên trên thế giới. Nhưng sức sống vĩ đại của chế độ mới chế độ xã hội chủ nghĩa đã hình thành và phát triển, Liên Xô không những đứng
vững, mà còn tấn công tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít, tạo điều kiện cho một
loạt nước tiến hành cách mạng vô sản thành công.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Chủ nghĩa xã hội từ một nước đã trở
thành hệ thống thế giới, thế giới phân chia thành hai cực với hai hệ thống lớn:
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.
Nhưng đáng tiếc, sau những thắng lợi trở thành kỳ tích của chủ nghĩa xã
hội, những người cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa đã có nhiều sai lầm trong
việc vận dụng học thuyết Mác xít vào thực tiễn cách mạng của mỗi nước và dẫn
tới sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội vào những năm tám mươi của thế kỷ
XX. Quá trình cải tổ, cải cách nhằm đưa chủ nghĩa xã hội thoát ra khỏi khủng


3

3


hoảng, những người cộng sản ở hàng loạt nước lại tiếp tục mắc phải những sai
lầm. Bên cạnh đó, kẻ thù lại lợi dụng tấn công bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt, thông qua chiến lược "Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, bằng các
chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” kẻ thù tiến hành cuộc
chiến tranh không có tiếng súng, bằng những cuộc “cách mạng màu”.... Vì thế đã
dẫn tới một bi kịch, trận động đất chính trị của thế kỷ XX - hệ thống chủ nghĩa
xã hội thế giới tan rã.
Sự kiện Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ đã gây ra
cuộc tranh luận lớn ở những năm cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ
XXI xung quanh việc đánh giá tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa
xã hội nói chung và những tư tưởng về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân,
vai trò của chính đảng vô sản trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”
nói riêng. Kẻ thù của CNXH thì tuyên bố kết thúc vĩnh viễn "những thí nghiệm
cộng sản" và chủ nghĩa Mác. Một bộ phận những người cộng sản dao động, cho
rằng, Tuyên ngôn ra đời cách đây gần 160 năm nên không còn phù hợp. Họ đòi
phải có cách tiếp cận mới thay thế cho quan điểm duy vật lịch sử, quan điểm giai
cấp, đấu tranh giai cấp của tuyên ngôn.
Vừa qua, ngày 25/1/2006, vẫn tiếp tục với giọng điệu tấn công vào chủ
nghĩa cộng sản mà nền tảng của nó là học thuyết Mác xít, Đại hội đồng Nghị
viện Châu Âu (PACE) đã thông qua cái gọi là nghị quyết số 1481, một nghị
quyết nhục nhã - nhục nhã với chính Châu Âu văn minh, nghị quyết lên án tội ác
của chế độ cộng sản cực quyền. Những nội dung của nghị quyết này là: tấn công
vào sự lãnh đạo của các Đảng Cộng sản, đánh đồng chủ nghĩa cộng sản với chủ
nghĩa phát xít, lên án cái gọi là vi phạm nhân quyền của chủ nghĩa cộng sản... mà
gốc rễ sâu sa của vấn đề là tấn công vào những nước xã hội chủ nghĩa còn lại,
những tư tưởng xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tấn công vào Hệ tư tưởng Mác xít


4


4

mà một trong những nội dung đó là tấn công vào những tư tưởng của Mác,
Ăngghen trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản".
Chỉ cần bằng cách nhìn thực tiễn, chúng ta cũng có thể thấy đó là một sự
so sánh cực kỳ phi lý, phi lịch sử, trắng trợn đánh lộn trắng đen, một sự vu cáo
hèn hạ đối với chủ nghĩa cộng sản mà nền tảng tư tưởng của nó là học thuyết
Mác xít. Trên thực tế thì ý tưởng lên án chủ nghĩa cộng sản không phải là điều
mới mẻ trong mưu đồ của những kẻ mang nặng thiên kiến, muốn phủ nhận thực
tế lịch sử. Nó đã có cội rễ bắt nguồn từ cuộc đấu tranh tư tưởng cách đây gần
một thế kỷ kể từ khi chủ nghĩa xã hội đã hình thành ở một nước trên thế giới –
Liên bang Xô Viết. Gần đây thì PACE đã nhiều lần muốn thông qua một nghị
quyết tương tự mà nỗ lực gần nhất thì vào hồi tháng 9 và tháng 12 năm 2005.
Tác giả của bản nghị quyết này là G.Lin-đơ-blát, một nghị sỹ người Thụy Điển.
Tuy nhiên, những người khởi xướng dự thảo nghị quyết đã không giành được
đủ số phiếu để thông qua những khuyến nghị cụ thể đối với chính phủ các nước
thành viên Hội đồng Châu Âu.
Trước tình hình đó, hàng triệu người cộng sản và nhân dân lao động vẫn
kiên quyết bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chân lý của chủ
nghĩa Mác - Lênin, nghiêm túc tìm hiểu nguyên nhân thất bại của CNXH ở nơi
này, nơi kia, vận dụng và phát triển Hệ tư tưởng Mác xít, tư tưởng “Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản” cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Vì vậy họ đều thừa
nhận ảnh hưởng to lớn của Tuyên ngôn đối với nhân loại trong thế kỷ XX. Nhiều
người còn cho rằng Tuyên ngôn sẽ có vai trò to lớn hơn nữa trong thế kỷ XXI.
Chính vì lẽ đó cho nên đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, nắm vững tư
tưởng của Tuyên ngôn với tinh thần: lý luận gắn chặt với thực tiễn, gắn những
tư tưởng của Tuyên ngôn với thời đại lịch sử của nó, gắn tư tưởng của tuyên
ngôn với những vấn đề cơ bản, nóng hổi trong thời đại ngày nay.



5

5
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được xác lập và giành được

thắng lợi ở một loạt nước châu Âu. Nó hoàn thành nhiệm vụ xoá bỏ chế độ
phong kiến, "lấy ruột của cha cố treo cổ địa chủ phong kiến", giải phóng lực
lượng sản xuất, tạo ra lực lượng sản xuất hùng mạnh, là thời kỳ chuyển nền
kinh tế sang đại công nghiệp. Chủ nghĩa tư bản “vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu
cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu,
nó phải xâm nhập vào khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi” 1..
Chủ nghĩa tư bản đã nhào nặn thế giới theo hình ảnh của nó. Nhưng chủ
nghĩa tư bản chỉ thay thế hình thức sở hữu tư nhân này bằng hình thức sở
hữu tư nhân khác, thay hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác,
còn bản thân sự tư hữu và bóc lột thì không bị thủ tiêu.
Vì vậy, cùng với sự phát triển của công nghiệp, giai cấp vô sản phát
triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Vì không có tư liệu sản xuất,
người công nhân phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để đổi lấy tư
liệu sinh hoạt, duy trì cuộc sống của mình. Sự giàu có của tư bản tăng lên bao
nhiêu thì sự tha hóa của lao động, sự nghèo khổ của công nhân cũng tăng lên
bấy nhiêu. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, nó
còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công
nhân hiện đại, những người vô sản” 2. Mâu thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản
ngày càng gay gắt, quyết liệt đã dẫn tới những cuộc đấu tranh của giai cấp vô
sản chống lại giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, tiêu biểu cho các cuộc đấu
tranh ấy là phong trào đấu tranh của công nhân Xiledi (Đức), Liông (Pháp) và
phong trào hiến chương Anh ở nửa đầu thế kỷ XIX. Các cuộc đấu tranh đó
của giai cấp công nhân biểu thị: họ là lực lượng xã hội mới bước lên vũ đài
chính trị, nó cũng chứng minh chủ nghĩa tư bản không phải là xã hội "tuyệt

1C.Mác,Ăngghen toàn tập, NXB CTQG, ST. Hà nội 1995. Tập 4. tr.601.
2 Sđd. tr.605


6

6

đỉnh", mà chỉ là một xã hội quá độ của loài người tiến lên một xã hội cao hơn
không có tư hữu và đối kháng giai cấp - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Song cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở giai đoạn này còn mang tính
tự phát, dừng lại ở mục tiêu kinh tế trước mắt, thiếu một lý luận tiền phong soi
đường và không được tổ chức chặt chẽ. Mác - Ăngghen đã gắn mình với cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản, đồng thời vừa tích cực nghiên cứu lý luận với mục
đích sáng tạo ra hệ thống lý luận mới, dẫn đường cho phong trào cách mạng vô
sản và đó cũng là chính quá trình hai ông sáng tạo ra học thuyết cách mạng, đáp
ứng sự đòi hỏi của phong trào cách mạng của giai cấp vô sản. Vì vậy, tư tưởng
cách mạng trong tuyên ngôn "không dựa trên những ý kiến, những nguyên lý do
một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra". "Những nguyên lý ấy
chính là biểu hiện khái quát của những điều kiện thực tại, của một cuộc đấu tranh
giai cấp hiện có, của một phong trào lịch sử đang diễn ra trước mắt chúng ta".
Tuyên ngôn ra đời đã đưa phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác, từ
tự nó lên vì nó. “Hiện nay đã đến lúc những người cộng sản phải công khai trình
bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình, và phải có
một tuyên ngôn của đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng
ma cộng sản”3. Tuyên ngôn đã xâm nhập, dẫn dắt phong trào công nhân tuân thủ
lôgíc "lý luận xâm nhập vào quần chúng, biến thành lực lượng vật chất". Vì,
Tuyên ngôn là cương lĩnh chính trị vạch thời đại. Nó tuyên bố, sự ra đời của xã
hội mới sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản một cách hợp quy luật. Nó chỉ ra động lực,
lực lượng, phương pháp và những điều kiện để giai cấp vô sản đấu tranh không

chỉ để giải phóng mình mà còn giải phóng nhân loại.
Chỉ có những người kém hiểu biết, hoặc cố tình xuyên tạc mới cho tư
tưởng chính của Tuyên ngôn chỉ là tư tưởng về đấu tranh giai cấp. Chính Tuyên
3

Sđd. tr.595.


7

7

ngôn "biểu hiện sáng ngời của thế giới quan duy vật" trong việc trình bày ngắn
gọn, sảng sủa, sâu sắc những quan điểm của chủ nghĩa duy vật vào phân tích,
mổ xẻ xã hội tư bản, đưa ra những luận điểm hết sức quan trọng về giai cấp,
đấu tranh giai cấp, mâu thuẫn giữa LLSX phát triển với QHSX tư bản đã trở
thành xiềng xích, mối quan hệ TTXH – YTXH, CSHT – KTTT.... Tuyên ngôn
chứng minh tính tất yếu diệt vong của xã hội tư bản và sự tất yếu ra đời của xã
hội cộng sản chủ nghĩa "sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp
vô sản là tất yếu như nhau"4.
Vì vậy, tư tưởng chỉ đạo của Tuyên ngôn, như Ăngghen đã viết trong lời
tựa cho bản tiếng Đức, xuất bản năm 1883 là: "Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của
Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ
cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của
của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó, (từ khi chế độ
công hữu ruộng đất nguyên thuỷ tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử các cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giữa những người bị bóc lột và những người đi bóc lột,
giữa những giai cấp bị trị và giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát
triển xã hội của họ. Nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà
giai cấp bị bóc lột, bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải

phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa,
nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột,
ách áp bức, khỏi sự phân chia giai cấp và những cuộc đấu tranh giai cấp - tư
tưởng chủ chốt ấy và hoàn toàn tuyệt đối là của Mác".
Đây là quan điểm giai cấp của giai cấp vô sản, là chủ nghĩa nhân đạo hiện
thực. Trong lịch sử tư tưởng loài người, khó có tác phẩm nào sánh đựơc với
Tuyên ngôn về tầm ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu rộng đối với quần chúng nhân dân
4

Sđd. tr.613.


8

8

chống áp bức bóc lột. Nhưng ở thế kỷ XIX, điều kiện khách quan, chủ quan chưa
chín muồi. Vai trò của Tuyên ngôn là chuẩn bị cho giai cấp vô sản về mặt ý thức
tư tưởng, qua đó tổ chức công nhân thành giai cấp cách mạng.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Phong trào của giai cấp vô sản phát triển thành cao trào
cách mạng trên toàn thế giới. Nhiệm vụ lật đổ giai cấp tư sản, giành chính quyền
đặt ra trực tiếp đối với giai cấp vô sản.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công là thắng lợi vĩ đại nhất
của tư tưởng "Tuyên ngôn Đảng cộng sản". Tiếp sau đó là sự xuất hiện một loạt
nước XHCN ở Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên, Mông
Cổ đã chứng minh sức sống vĩ đại của Tuyên ngôn.
Như vậy, sau hơn một thế kỷ từ khi Tuyên ngôn ra đời (bóng ma ám
ảnh Châu Âu), lý tưởng cộng sản đã lôi cuốn hàng trăm triệu người, trở
thành hiện thực sinh động. Thực tế lịch sử đó bác bỏ tư tưởng cho Tuyên

ngôn là một ảo tưởng.
Gần 160 năm kể từ khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời và cùng với
bản Tuyên ngôn bất hủ này là sự lớn mạnh không ngừng của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế đi theo con đường của lý luận Mác xít. Loài người tiến
bộ với chủ nghĩa Mác, hướng tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản, thực hiện khát vọng nghìn đời là giải phóng dân tộc, giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Trước Chủ nghĩa Mác, nhiều học thuyết về
“chủ nghĩa xã hội” không tưởng lần lượt ra đời, như: “chủ nghĩa xã hội phong
kiến”, “chủ nghĩa xã hội thầy tu”, “chủ nghĩa xã hội chân chính”, “chủ nghĩa xã
hội tư sản”. Mặc dù các nhà sáng lập là những nhà có ý thức bảo vệ lợi ích của
giai cấp công nhân, lý luận của các ông đã có giá trị cung cấp một số tài liệu có
giá trị để soi sáng ý thức của giai cấp công nhân, song lịch sử càng phát triển thì


9

9

giá trị của chủ nghĩa xã hội không tưởng càng giảm bớt do bị hạn định bởi thế
giới quan, do điều kiện lịch sử quy định, hơn nữa “tôn phái môn đồ của họ sáng
lập ra luôn luôn là phản động”5. Chỉ đến giữa thế kỷ XIX, khi những điều kiện
khách quan và chủ quan chín muồi, bằng trí tuệ và thiên tài của C.Mác, chủ
nghĩa cộng sản mới có những luận cứ khoa học và cách mạng. Có thể khẳng
định, chủ nghĩa cộng sản là một thành tựu trí tuệ văn minh của loài người, là sự
kế tục những nỗ lực tìm giải pháp giải phóng loài người.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và
cách mạng vô sản, V.Lênin đã lãnh đạo cách mạng Nga tiến hành thành công
cuộc cách mạng tháng Mười năm 1917 vĩ đại, mở ra thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Gần ba thập kỷ sau đó, trong điều kiện phải đối phó
với thù trong giặc ngoài, trong khi chính quyền cách mạng còn trứng nước, Liên

Xô - Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã phát triển thành một
cường quốc hùng mạnh, là lực lượng quyết định thắng lợi trong chiến tranh xóa
bỏ chủ nghĩa phát xít quốc tế, cứu loài người khỏi thảm họa diệt chủng. Thắng
lợi đó đã tạo điều kiện thuận lợi để hình thành một hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa và thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, phong
trào đấu tranh của các lực lượng dân chủ trên thế giới, tạo đà cho sự phát triển
của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Những thực tế hiển nhiên đó không một thế lực
nào có thể phủ nhận, đánh đồng thành quả của chủ nghĩa xã hội với những tội ác
tàn bạo, thảm họa diệt chủng của chủ nghĩa phát xít gây ra cho thế giới trong
những năm bốn mươi của thế kỷ XX.
Tất yếu khách quan của lịch sử nhân loại là đi lên một xã hội công bằng,
nhân đạo. Nhưng lịch sử không phải là con đường thẳng tắp. Con đường cách
mạng là quanh co, có lúc cao trào, có lúc thoái trào, có lúc phải đứng trước
5

Sđd. tr.642.


10

10

những trở lực tưởng chừng không thể vượt qua, thành quả giành được như
"ngàn cân treo sợi tóc". Mỗi lần gặp và vượt qua khó khăn, Tuyên ngôn càng
được nhận thức, vận dụng đúng đắn hơn, tác động của Tuyên ngôn càng to lớn,
sâu sắc hơn.
Từ năm 1848 đến những năm 80 của thế kỷ XX, tuy cách mạng gặp nhiều
khó khăn, nhưng nhìn chung đây là giai đoạn Tuyên ngôn giành thắng lợi to lớn.
Song có một bước ngoặt mà lịch sử chưa từng biết đến đã xảy ra. Từ cuối thập
kỷ 80 của thế kỷ XX đến nay, CNXH lâm vào khủng hoảng. Sự sụp đổ của Liên

Xô và các nước XHCN Đông Âu diễn ra quá bất ngờ, thực tế đã đặt Tuyên ngôn
trước một vấn đề: suốt hơn 130 năm, Tuyên ngôn chưa gặp khó khăn nào đến
thế, vậy Tuyên ngôn có vượt qua nổi thử thách nghiệt ngã này không?
Nếu lịch sử mở đường đi thì tất yếu không gì ngăn cản được, tất yếu
"Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" sẽ vuợt qua thử thách. CNXH đã sụp đổ một
mảng lớn hoàn toàn không đồng nghĩa với tư tưởng của Tuyên ngôn sụp đổ.
Biện chứng lô gíc mà lịch sử cho thấy, không bao giờ có sự trùng khít giữa lý
luận và hiện thực. Lịch sử CNXH hiện thực cả thành tựu và sai lầm, thắng lợi và
khủng hoảng, đứng vững và sụp đổ đã chứng minh tính đúng đắn, giá trị bền
vững của Tuyên ngôn. Lịch sử hơn 100 năm qua đã chỉ ra rằng: ở đâu, lúc nào
nguyên lý của Tuyên ngôn được các Đảng cộng sản, những người cộng sản nhận
thức, vận dụng sáng tạo, phù hợp thì nơi đó cách mạng vượt qua thử thách, tiến
lên. Trái lại ở đâu những người cộng sản hiểu, vận dụng sai, hoặc giáo điều, xét
lại thì cách mạng gặp khó khăn, trắc trở, chịu tổn thất, thậm chí thất bại. Trong
lời tựa viết cho lần xuất bản năm 1872 bằng tiếng Đức, Ph.Ăngghen viết: "Mặc
dù hoàn cảnh đã thay đổi nhiều trong 25 năm qua, nhưng cho đến nay, xét về đại
thể, những nguyên lí tổng quát trong Tuyên ngôn vẫn hoàn toàn đúng". Tuy


11

11

nhiên Mác-Ăngghen nói ngay: "Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng
những nguyên lí đó phải tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử đương thời".
Lịch sử nhân loại đã chứng minh: không có một chế độ xã hội nào ra đời
suôn sẻ, không trải qua thăng trầm, chòng chành, giành đi, giật lại giữa lực lượng
cách mạng và phản cách mạng, giữa tiến bộ và lạc hậu. Vì lịch sử không phải là
con đường thẳng. Ngay chủ nghĩa tư bản xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến
ngay từ thế kỉ XIV nhưng phải trải qua gần 300 năm sau nó mới đi tới thắng lợi

triệt để, vững chắc hoàn chỉnh.
CNTB đã vậy, CNXH còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Vì CNXH khác
về chất so với các xã hội trước đây, nó cao hơn CNTB về mọi phương diện. Vì
vậy, CNXH không thể nhận thức một lần, không thể làm một lần là xong. Lí luận
về cách mạng XHCN phải không ngừng được bổ xung hoàn chỉnh, tổng kết từ
trong thành công và sai lầm thất bại.
Giá trị của Tuyên ngôn không phải là cung cấp mọi vấn đề có sẵn cho
thực tiễn cách mạng hôm nay, mà nó khái quát xu hướng vận động khách quan,
chỉ ra nhiệm vụ lịch sử từng bước phải làm để giải phóng xã hội loài người khỏi
mọi sự tha hoá. Vì vậy xét về bản chất tư tưởng của Tuyên ngôn vẫn giữ nguyên
giá trị. Song có một số điểm cụ thể của Tuyên ngôn không còn phù hợp. Vì vào
giai đoạn lịch sử giữa thế kỉ XIX không thể thấy đuợc rõ ràng sự phát triển của
CNTB như vào cuối thế kỉ thứ XX, đầu thế kỷ XXI. Nhưng phương pháp nghiên
cứu xã hội tư bản thì không có phương pháp nào thay thế được.
So với thời kỳ Mác sống, chủ nghĩa tư bản ngày nay, các mâu thuẫn cơ bản
của nó tiếp tục phát triển gay gắt, sự phân hoá giàu nghèo, tư bản và lao động tiếp
tục gay gắt, các mâu thuẫn khác như: mâu thuẫn giữa các trung tâm tư bản lớn,
giữa các nước giàu với các nước nghèo phát triển gay gắt. Các nước tư bản lớn
vừa cạnh tranh nhau quyết liệt vừa thoả hiệp để áp đặt sự thống trị thế giới. Chủ


12

12

nghĩa tư bản hiện đại thường tự hào là người "giàu nhất, mạnh nhất, tốt nhất"
nhưng hoàn toàn bất lực trước những vấn đề toàn cầu. Vì xét cho cùng, những vấn
đề toàn cầu là do lòng tham không có giới hạn của chủ nghĩa tư bản hiện đại gây
nên. Điều này, trong Tuyên ngôn, Mác và Ăngghen đã viết: "Giai cấp tư sản đã
làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính chất thế giới....

Những công nghiệp dân tộc cũ bị tiêu diệt và ngày càng bị tiêu diệt. Những ngành
công nghiệp dân tộc bị thay thế bởi những ngành công nghiệp mới... những ngành
công nghiệp không dùng nguyên liệu bản xứ mà dùng những nguyên liệu được
đưa từ miền xa xôi nhất đến và sản phẩm làm ra không những tiêu thụ ngay trong
xứ mà còn được tiêu thụ ở tất cả các nơi trên trái đất nữa. Thay cho tình trạng cô
lập trước kia của các địa phương và dân tộc vốn tự cung, tự cấp ta thấy phát triển
các quan hệ phổ biến giữa các dân tộc. Mà sản xuất vật chất đã như thế thì sản
xuất tinh thần cũng không kém. Những thành quả tinh thần của một dân tộc trở
thành tài sản chung của các dân tộc.... Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và
làm cho các phương tiện giao thông vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản... buộc tất cả
các dân tộc phải thực hành phương thức sản xuất tư sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt,
nó buộc tất cả các dân tộc phải du nhập cái gọi là văn minh, nghĩa là phải trở
thành tư sản. Nói tóm lại, nó tạo ra một thế giới theo hình dạng của nó"6. Đây thực
sự là một nhận định thiên tài, một tiên đoán xuyên thế kỷ mà giờ đây đường lối
đổi mới, cải cách của các nước XHCN đã minh chứng cho điều đó của Mác Ăngghen viết trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản.
Như vậy, quốc tế hoá sản xuất và đời sống càng làm cho CNTB trở thành
vật chướng ngại trong sự phát triển không chỉ ở các nước tư bản mà còn đối với
nền văn hoá, văn minh của nhân loại. Chính quá trình quốc tế hoá đã làm cho

6

Sđd. tr.601-602.


13

13

mâu thuẫn giai cấp, dân tộc trở thành phổ biến, sâu sắc, gay gắt trên toàn thế giới
ngay cả trong hình thức vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình.

Hiện nay, giai cấp tư sản - CNTB đang có sự ổn định tương đối nào đó,
còn có khả năng áp dụng những biện pháp làm dịu mâu thuẫn giai cấp, song mâu
thuẫn không thể điều hoà, nó phải thông qua đấu tranh để giải quyết. Vì thế cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng mạnh hơn. Giai cấp công nhân luôn
quyết đấu tranh bảo vệ quyền dân chủ, họ đã giành được qua hàng thế kỷ đấu
tranh chống bóc lột của giai cấp tư sản. Các hình thức đấu tranh cũng đã thay đổi
nhiều và do quy luật phát triển không đều về kinh tế, chính trị của chủ nghĩa tư
bản, ai dám cả quyết rằng không thể nổi lên các cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động ở khâu yếu nào đó trong sợi dây chuyền của CNTB, dẫn
tới xoá bỏ CNTB, thiết lập chuyên chính vô sản.
Vì vậy, kết luận của Tuyên ngôn là: sự thất bại của CNTB và sự thắng
lợi của chủ nghĩa cộng sản là tất yếu như nhau. Sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Và vì vậy,
cũng phải nhìn nhận đúng thực tiễn lịch sử, từ những năm cuối của thế kỷ
XX, phong trào cộng sản quốc tế rơi vào thoái trào sau khi mô hình chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Song đó không phải là sai lầm
của Chủ nghĩa Mác Lênin, không phải sự sai lầm ở những những tư tưởng
trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Trên thực tế, một số nước xã hội
chủ nghĩa vẫn tồn tại và phát triển. Những người cộng sản vẫn kiên định và
tìm mọi cách hoàn thiện, bổ sung cho con đường đi tới. Tại một loạt nước ở
châu Mỹ La tinh, phong trào cánh tả đang phát triển mạnh trở thành các
chính đảng cầm quyền và mục tiêu phát triển là gắn lợi ích của nhân dân
lao động với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.


14

14
Gần 160 năm đã trôi qua nhưng Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đối với


cách mạng Việt Nam đã, đang và sẽ còn giữ nguyên ý nghĩa đặc biệt.
Năm 1848, Tuyên ngôn ra đời, Mác - Ăngghen viết: "Vì luôn luôn bị thúc
ép bởi những nơi tiêu thụ mới, giai cấp tư sản xâm lấn khắp toàn cầu". 10 năm
sau, năm 1858 Pháp nổ phát đại bác đầu tiên xâm lược Việt Nam vào Đà Nẵng.
Sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, câu hỏi đặt ra với những người yêu
nước Việt Nam là: vì sao Pháp xâm lược, vì sao nước ta trở thành thuộc địa của
Pháp, tại sao các phong trào yêu nước lần lượt thất bại, cứu nước và giải phóng
dân tộc phải đi theo con đường nào?
Hồ Chủ Tịch đã đi tới tận sào huyệt của CNTB tìm ra câu trả lời trên đây:
"Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác - con
đường cách mạng vô sản".
Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc tư tưởng của Tuyên ngôn về quan hệ giữa
giai cấp vô sản và dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc phải trên quan điểm giai
cấp; xoá bỏ áp bức dân tộc phải trên cơ sở xoá bỏ chế độ người bóc lột người.
Hồ Chủ Tịch hiểu sâu sắc rằng: Tuyên ngôn chưa có điều kiện đi sâu vấn đề
giải phóng thuộc địa vì khi đó CNTB chưa phát triển đến đỉnh cao của nó là
chủ nghĩa đế quốc.
Vấn đề cách mạng thuộc địa phải đến thời kỳ Lênin mới có thực tiễn làm
sáng tỏ. Song Lênin cũng chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề giải phóng
dân tộc thuộc địa, quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc. Hồ
Chí Minh đã kế thừa, phát triển tư tưởng của Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử
mới. Người kết luận: "muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác - con đường cách mạng vô sản". Đi xa hơn, Người còn nhận
định hết sức thiên tài: "Cách mạng thuộc địa phải và có thể chủ động tiến lên
giành thắng lợi; chẳng những không bị động chờ thắng lợi cách mạng vô sản


15

15


chính quốc; mà bằng cuộc đấu tranh của mình, cách mạng thuộc địa có thể góp
phần của mình hỗ trợ tích cực cho các cuộc cách mạng ở các nước tư bản". Kết
luận trên đây của Hồ Chí Minh thể hiện tư tưởng biện chứng của Chủ nghĩa Mác
Lênin và của Tuyên ngôn.
Vũ trang bằng học thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, những người cộng sản Việt Nam tháng 8 năm 1945 đã lãnh đạo nhân dân
giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, đưa đất nước đi vào kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu,
bị áp bức, bóc lột, bị thực dân, phát xít đầy đọa, Việt Nam ngày nay đã trở thành
một quốc gia độc lập, đang thay da, đổi thịt từng ngày.
Sau hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước; tăng trưởng kinh tế khá
nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo được củng cố và tăng cường,
sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên nhiều lần, vị thế của nước ta
trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Những thành tựu to lớn đó
chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đảng ta cũng đã
tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm về việc vận dụng đúng đắn, sáng tạo
lý luận Mác xít vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Những thành tựu đó là bằng chứng sống động của chủ nghĩa xã hội hiện
thực, khẳng định con đường đi lên của đất nước, phấn đấu vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thành tựu của Việt Nam hơn nửa
thế kỷ xây dựng chủ nghĩa xã hội và đặc biệt là của hơn hai mươi năm đổi mới


16


16

vừa qua càng khẳng định một sự thật sống động trong tư tưởng “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”, việc Việt Nam lựa chọn lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng
Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động và con đường phát triển chủ nghĩa
xã hội là hoàn toàn đúng đắn.
Sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn tới có nhiều thời cơ thuận lợi, song
cũng không ít nguy cơ, thách thức khó lường, song có thể nói cùng với chủ nghĩa
Mác – Lênin thì những tư tưởng của Tuyên ngôn luôn là bó đuốc soi đường cho
cách mạng Việt Nam. Trong Tổng kết công tác tưởng trong 20 năm tiến hành đổi
mới đất nước, Đảng ta đã xác định hệ thống các bài học kinh nghiệm, trong đó
bài học kinh nghiệm đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là: Trong quá trình đổi mới
phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng Chủ
nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác xít,
mà một trong những nội dung đó là những tư tưởng của Tuyên ngôn Đảng cộng
sản, lấy đó làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Đổi mới không phải là phủ định những thành tựu của chủ nghĩa xã hội,
những thành tựu và cách làm trước đây của những người cộng sản quốc tế và
trong nước, mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì
hiểu sai, làm sai, hoặc những gì trước kia đúng nay không còn phù hợp. Xây
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay là một
sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường đi hợp
quy luật để có một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, nhân dân có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc. Sự nghiệp đó đòi hỏi, chúng ta càng phải kiên định với
những lý luận căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh mà
một trong những nội dung đó là tư tưởng trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng



17

17

sản”. Tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất nước: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là thể hiện tư tưởng của Tuyên ngôn trong điều kiện mới.
Tư tưởng của Tuyên ngôn Đảng cộng sản là bất diệt. Tư tưởng đó đã,
đang và sẽ tiếp tục soi sáng cho con đường cách mạng nước ta bước vào thời kỳ
mới - đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.



×