Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.93 KB, 23 trang )

1
M U
Lch s trit hc nhõn loi, tri qua quỏ trỡnh phỏt trin ó cú s phõn
vựng v phõn k lch s trit hc. Sự phân chia các vùng lịch sử triết học
ch yu da vo yu t điều kiện tự nhiên. Bi triết học là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do ú t tởng triết học ít nhiều phán
ánh và mang nột c thự của những điều kiện không gian, địa lý, tự nhiên.
Trong s phõn vựng lch s trit hc nhõn loi, ngời ta đã da vào phơng
vị mặt trời (Đông hoặc Tây) để phân chia vùng lịch sử triết học. Theo ú,
vựng lch s trit hc phng ụng ch phng mt tri mc, vựng lch
s trit hc phng Tõy ch phng mt tri ln.
Khi núi n lch s trit hc phng Tõy chỳng ta khụng th khụng
nhc n trit hc Hy Lp c i mt trong nhng cỏi nụi ca trit hc
nhõn loi. Trit hc Hy Lp c i l mt trong nhng im xut phỏt ca
lch s trit hc th gii. Vỡ vy, cho n ngy nay, nhng t tng trong
trit hc Hy Lp c i vn sỏng lờn ỏnh ho quang ca nhng trớ tu bỏch
khoa k diu, ca nhng kh nng t duy trit hc him thy nh Mỏc ó
núi: Ngi Hy Lp mói mói vn l bc thy ca chỳng ta. Trong trit
hc Hy Lp khụng ch cú ch ngha duy vt m cũn cú phộp bin chng t
phỏt, ngõy th l tin cho trit hc nhõn loi k tha v phỏt trin, nh
cao l trit hc Mỏc.
Vỡ vy, vic chn ti, nghiờn cu v lm rừ T tng bin chng
trong trit hc Hy Lp c i l rt cn thit ỏnh giỏ ỳng nhng úng
gúp to ln ca trit hc c i Hy Lp i vi lch s trit hc nhõn loi c
bit l lch s hỡnh thnh v phỏt trin ca phộp bin chng.


2
NỘI DUNG
I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TƯ
TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI


1. Điều kiện lịch sử hình thành tư tưởng biện chứng trong triết học
Hy Lạp cổ đại
Hy Lạp cổ đại trước đây là một vùng lãnh thổ rộng lớn bao gồm: Miền
Nam bán đảo Ban Căng thuộc châu Âu, vô số hòn đảo lớn, nhỏ trên biển
Egiê, vùng duyên hải ven biển của bán đảo Tiểu Á. Sự thuận lợi về thiên
nhiên, địa lý, những cuộc di dân ồ ạt từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VI trCN và
những cuộc chinh phạt thành công của Alếchxan vào cuối thế kỷ thứ IV trCN
đã tạo điều kiện cho Hy Lạp thời cổ đại nhanh chóng phát triển tất cả các lĩnh
vực, mở rộng bang giao, tiếp nhận nhiều giá trị văn hoá. Triết học Hy Lạp cổ
đại ra đời vào thế kỷ thứ VI trCN, trong bối cảnh diễn ra sự biến đổi lâu dài
và sâu sắc trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vực kinh tế: Đây là thời kỳ đánh dấu bước chuyển từ thời đại
đồ đồng sang đồ sắt làm cho lực lượng sản xuất rất phát triển. Cùng với đó sự
xuất hiện của tiền tệ đã làm cho thương mại và trao đổi hàng hóa được phát
triển rộng khắp và nhanh chóng. Để phát triển thương mại và thực hiện trao
đổi hàng hóa, người Hy Lạp đã đóng những chiến thuyền lớn để vượt biển
Địa Trung Hải đi khám phá những miền đất mới. Như vậy, công cụ bằng sắt
xuất hiện làm cho lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến thủ công nghiệp phát
triển tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp. Các nghề thủ công nghiệp phát triển
mạnh ở các thành phố lớn ở xã hội Hy Lạp cổ đại. Đây chính là yếu tố quan
trọng để người Hy Lạp thoát khỏi kinh tế tự nhiên và tham gia vào các quan
hệ vật chất của xã hội.
Trên lĩnh vực xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến các
quan hệ và tổ chức xã hội cũng thay đổi nhanh chóng. Trước đây, trong xã hội
cộng sản nguyên thủy, ở Hy Lạp cuộc sống của mỗi con người “ hòa tan” vào


3
cuộc sống cộng đồng, xã hội mang tính cộng đồng cao, của cải trong xã hội
đều là của chung, thì giờ đây với sự phát triển của công cụ lao động làm cho

của cải trong xã hội có dư thừa dẫn đến xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, của cải chủ yếu tập trung trong tay một số cá nhân- chủ nô và như thế
chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ đã ra đời xác lập quyền sở hữu của chủ nô đối
với tư liệu sản xuất và người nô lệ. Chế độ tư hữu ra đời đã làm cho mỗi
người cần phải ý thức, suy nghĩ về bản thân mình và cần thiết phải có một
cách sống cho riêng mình phù hợp với hoàn cảnh xã hội mới. Con người giờ
đây không chỉ phải tuân theo những quan niệm của xã hội trước đây mà cần
phải phê phán những giá trị, chuẩn mực xã hội cũ và xây dựng cho mình một
thế giới quan mới. Chính những điều kiện và nhu cầu thực tiễn đó đã làm cho
triết học nói chung và tư tưởng biện chứng nói riêng ra đời ở Hy Lạp cổ đại.
Sự phát triển của sản xuất dẫn đến xã hội phân chia thành những giai cấp
có lợi ích đối lập nhau: giai cấp chủ nô giữ địa vị thống trị; giai cấp nô lệ chỉ
là “ công cụ biết nói”, là “ hàng hóa” đặt dưới sự thống trị hà khắc của giai
cấp chủ nô. Xã hội phân chia giai cấp dẫn đến có sự phân công lao động lần
thứ ba. Đó là phân công lao động trí óc và lao động chân tay làm cho trong xã
hội có một bộ phận chuyên nghiên cứu triết học – khoa học. Chính sự phân
chia giai cấp và phân chia lao động đã làm xuất hiện các tri thức triết học và
khoa học làm phá vỡ các ý thức hệ thần thoại và tôn giáo ngự trị trong thời kỳ
đó. Như Ăngghen trong “ Chống Đuyrinh” đã nhận xét: “Không có chế độ nô
lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp,
không có chế độ nô lệ thì không có đế quốc La Mã mà không có cái cơ sở là
nền văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì không có châu Âu hiện đại
được”.Vì vậy, ngay từ khi mới xuất hiện, tư tưởng triết học đã mang tính giai
cấp sâu sắc. Triết học là thế giới quan, phương pháp luận, hệ tư tưởng thống
trị của giai cấp chủ nô.
Trên lĩnh vực khoa học: Những tinh hoa về toán học, thiên văn học, địa
lý, hệ thống đo lường, lịch pháp,…đã xuất hiện do nhu cầu buôn bán, vượt


4

biển đến các nước phương Đông. Như phát kiến về toán học của Talét và
Pitago, hình học Ơclít, vật lý học của Ácsimét, phát minh ra lịch một năm
gồm 12 tháng với 365 ngày của Talét…đã tạo động lực to lớn cho triết học
nói chung và tư tưởng biện chứng nói riêng ở Hy Lạp cổ đại hình thành và
phát triển. Tuy nhiên, khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học
cũng đồng thời là nhà toán học, thiên văn học, vật lý học…Các tri thức khoa
học tự nhiên đều được trình bày trong các hệ thống triết học. Vì vậy, triết học
đầu tiên của Hy Lạp cổ đại đã gắn với thực tiễn và khoa học.
Trên lĩnh vực văn hóa và tôn giáo: Sự hình thành triết học Hy Lạp không
diễn ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di
sản tinh tuý của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại. Hy
Lạp cổ đại là đất nước của thi ca, thần thoại. Thần thoại không chỉ là nơi để
con người tưởng tượng, diễn giải về các hiện tượng thiên nhiên kỳ bí mà còn
là nơi thể hiện đời sống tâm linh, sự hình thành số phận cũng như muôn mặt
của đời sống thường ngày. Thần thoại là nơi đầu tiên để tư duy triết học ra đời
và từng bước triết học tách khỏi thần thoại, tự mình tư duy về tự nhiên, xã
hội, con người; về đạo đức, lẽ sống, chân lý, …Chính trong quá trình đó tư
duy biện chứng của con người được hình thành và phát triển.
Sự hình thành triết học nói chung và tư tưởng biện chứng của Hy Lạp cổ
đại nói riêng còn có sự liên hệ và ảnh hưởng nhất định của triết học phương
Đông cổ đại. Khoa học ở phương Đông đã có sự phát triển sớm hơn ở Hy Lạp
cổ đại. Vì vậy, các nhà khoa học – triết học của Hy Lạp cổ đại đã nhiều lần
đến một số nước phương Đông tìm hiểu, nghiên cứu và học tập. Những mầm
mống về triết học trong đó có tư tưởng biện chứng ở Phương Đông cổ đại đặc
biệt là tư tưởng triết học của các nhà triết học Ai Cập và Babilon có ảnh
hưởng tích cực đến sự hình thành, phát triển của triết học nói chung và tư
tưởng biện chứng của Hy Lạp cổ đại nói riêng.
Như vậy, có thể thấy rằng sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại nói
chung và tư tưởng biện chứng nói riêng là một tất yếu khách quan. Đó là kết



5
quả nội sinh của cả một dân tộc, một thời đại như Mác viết: “Các nhà triết học
không phải những cây nấm mọc trên đất. Họ là sản phẩm của thời đại mình,
dân tộc mình mà những tinh lực tinh tế nhất, quý giá nhất và khó nhìn thấy
nhất đã được suy tư trong các khái niệm triết học”.
2. Đặc điểm của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế
giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ
thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.
Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình - phương pháp tư duy về sự
vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập, tách rời, tĩnh tại và không
phát triển.
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phép biện chứng đã qua ba
giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của
nó: phép biện chứng tự phát, ngây thơ; phép biện chứng duy tâm; phép biện
chứng duy vật.
Phép biện chứng tự phát, ngây thơ thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả
phương Đông cổ đại và phương Tây cổ đại đã thấy các sự vật, hiện tượng của
vũ trụ sinh thành, biến hóa trong một dòng chảy và những sợi dây liên hệ vô
cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực
quan, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này được thể hiện
trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là
Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại,
các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan
trọng nhất của phép biện chứng. Tuy nhiên, theo họ biện chứng ở đây bắt đầu
từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép “ý
niệm tuyệt đối” nên biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức là biện
chứng duy tâm.



6
Phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể hiện trong
triết học do Mác và Ăngghen xây dựng, sau đó được Lênin phát triển. Mác và
Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong
phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách
là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn
bị nhất.
Ăngghen định nghĩa: “phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ
biến” và “là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự
phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”; Lênin viết:
“phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị
nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận
thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển
không ngừng”. Mác và Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng tạo những hạt
nhân hợp lý trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại mà trực tiếp là phép
biện chứng duy tâm của Hêghen và đặt nó trên nền tảng duy vật của
Phoiơbắc. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan
duy vật với phương pháp biện chứng.
Qua sự phân tích và khái quát về phép biện chứng và lịch sử phát triển
của nó chúng ta có thể nhận định rằng tư tưởng biện chứng trong triết học Hy
Lạp cổ đại ở giai đoạn đầu tiên và có đặc điểm tính tự phát, ngây thơ. Đó là
đặc điểm xuyên suốt trong tư tưởng biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại.
Tính tự phát vì các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu tự nhiên với mục
đích chủ yếu để vẽ ra bức tranh chung của thế giới và chỉ ra nguồn gốc của nó
chứ không chủ định nghiên cứu về phép biện chứng. Ngây thơ vì hầu hết các
tư tưởng biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều chủ yếu dựa vào
sự phỏng đoán, suy luận trên cơ sở của trực quan kinh nghiệm. Những phỏng
đoán, suy luận đó chưa được khoa học chứng minh và kiểm nghiệm. Khoa

học thời Hy Lạp cổ đại mặc dù đã có những thành tựu đáng kể nhưng vẫn là
chưa đủ, chưa phục vụ tích cực cho triết học. Cùng với yếu tố khoa học chưa


7
phát triển, những yếu tố về tâm linh và tôn giáo với những câu chuyện về thần
thoại chứa đựng tính chất thần bí vẫn ảnh hưởng tới sự phát triển của triết
học. Chính vì thế tư tưởng biện chứng trong các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
còn phảng phất yếu tố thần thoại.
Như vậy, có thể khẳng định tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ
đại mang tính tự phát, ngây thơ. Tính chất ngây thơ, tự phát do nhu cầu thực
tiễn nhận thức của con người, trình độ khoa học chưa phát triển và yếu tố thần
thoại trong xã hội Hy Lạp cổ đại quy định.


8
II. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI
1. Tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp qua một số đại biểu
tiêu biểu
Tư tưởng biện chứng được thể hiện ở nhiều nhà triết học trong triết học
Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, đề tài chủ yếu tập trung làm rõ tư tưởng biện
chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại qua một số đại biểu tiêu biểu sau:
a. Tư tưởng biện chứng trong triết học của Ta-lét (625-547 trCN)
Như chúng ta đã biết, thành tựu nổi bật và có ý nghĩa thế giới quan duy
vật của Talét là quan niệm duy vật về thế giới. Ông cho rằng bản nguyên đầu
tiên của thế giới là nước. Thế giới các sự vật được sinh ra từ nước rồi lại phân
hủy biến thành nước. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất ở nước. Bản
nguyên của vũ trụ là nước – vật chất tồn tại vĩnh viễn, mọi vật được tạo thành
từ nước luôn phân hủy, biến đổi không ngừng, có quá trình sinh ra và mất đi.

Như vậy, với quan niệm nước là yếu tố đầu tiên tạo ra thế giới các sự
vật, mọi sự vật lại phân hủy biến thành nước, Ta lét đã có cái nhìn biện chứng
tự phát, ngây thơ về sự vận động và biến đổi của thế giới mang tính vòng tròn
tuần hoàn mà nền tảng của nó là nước.
b. Tư tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít ( 530-470 trCN)
Theo đánh giá, nhận xét của các nhà triết học Mácxít, Hêraclít là người
sáng lập ra phép biện chứng, hơn nữa ông còn là người xây dựng phép biện
chứng trên lập trường duy vật. Tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclít
được thể hiện ở những nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, quan niệm của Hêraclít về bản nguyên đầu tiên của thế giới.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại có rất nhiều nhà triết học có tư tưởng duy vật
khi giải thích về bản nguyên đầu tiên của vũ trụ. Talét cho rằng bản nguyên
đầu tiên của thế giới là nước, A-na-xi-măng-đrơ cho rằng cơ sở đầu tiên sinh
ra vạn vật là A-pây-rôn, A-na-xi-men cho rằng không khí là nguồn gốc và bản
chất của mọi vật. Cũng giống như các nhà triết học tiền bối quy bản nguyên


9
đầu tiên của vũ trụ vào một dạng vật chất cụ thể, Hêraclít đã đứng trên lập
trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề bản nguyên đầu tiên của thế giới từ
một dạng vật chất cụ thể. Tuy nhiên, khác với các tiền bối, Hêraclít cho rằng
lửa là bản nguyên đầu tiên của vũ trụ, là cơ sở đầu tiên, duy nhất và phổ biến
của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Với quan niệm lửa là bản nguyên đầu tiên của vũ trụ, Hêraclít đã lấy lửa
để giải thích mọi sự biến đổi, chuyển hóa của mọi sự vật hiện tượng trong tự
nhiên. Ông nói: “ Tất cả đều được trao đổi với lửa và lửa trao đổi với tất cả
như vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”. Dưới sự tác động của lửa
đất trở thành nước, nước trở thành không khí…và ngược lại. Tùy theo mức độ
của lửa mà mọi vật có thể chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Như vậy, theo Hêraclít lửa là cơ sở duy nhất và phổ biến sinh ra mọi vật

trong thế giới không chỉ các sự vật vật chất mà cả những hiện tượng tinh thần,
kể cả linh hồn con người. Thế giới thống nhất ở lửa, lửa sinh ra mọi vật. Vũ
trụ không phải do một lực lượng siêu nhiên thần bí nào sáng tạo ra mà nó “
mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh viễn đang không ngừng bùng cháy và
tàn lụi”. Đánh giá quan niệm này của Hêrclít, Lênin đã nhận xét rằng đó là “
một sự trình bày rất hay những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng”.
Tuy nhiên, trong quan điểm về lửa là bản nguyên đầu tiên của vũ trụ và là
nguồn gốc sinh ra vạn vật, Hêrclít vẫn còn mang tính vật hoạt luận. Ông đã
không nhìn thấy có sự phát triển từ thấp đến cao trong cái “ dòng chảy” và sự
biến đổi phổ biến liên tục của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Thứ hai, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất-học thuyết về
“dòng chảy” của Hêraclít. Xuất phát từ quan niệm lửa là bản nguyên đầu tiên
của vũ trụ sinh ra mọi vật, thế giới thống nhất ở lửa nên Hêraclít khẳng định
vận động của vật chất chính là sự vận động của lửa, lửa là nguồn gốc của mọi
sự biến đổi trong thế giới. Ngọn lửa mà Hêraclít quan niệm là ngọn lửa “ đang
không ngừng bùng cháy và tàn lụi” nên ông cho rằng trong thế giới không có
sự vật, hiện tượng nào đứng im tuyệt đối, mà trái lại chúng đều trong trạng


10
thái vận động, biến đổi và chuyển hóa liên tục từ sự vật hiện tượng này sang
sự vật hiện tượng khác và ngược lại. Hêraclít nói: “ Nước sinh ra từ cái chết
của đất; không khí sinh ra từ cái chết của nước; lửa sinh ra từ cái chết của
không khí”.
Quan niệm về vận động – học thuyết về “dòng chảy” của Hêraclít được
nhân loại biết đến và làm cho tên tuổi của ông nổi tiếng bởi câu nói: “Chúng
ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Cũng chính mệnh đề này
của Hêraclít đã gây ra nhiều tranh luận, giải thích khác nhau về quan niệm
vận động – học thuyết dòng chảy của ông. Quan niệm vận động là phổ biến,
mọi vật đều vận động, biến đổi không ngừng của Hêraclít đã được học trò của

ông là Kratil kế thừa, phát triển theo hướng tuyệt đối hóa sự vận động, biến
đổi của sự vật. Kratil không nhìn thấy bên cạnh sự vận đông, biến đổi không
ngừng của sự vật còn có hiện tượng đứng im tương đối. Chính vì vậy, Kratil
cho rằng: “ Không cần phải nói không lội xuống một con sông hai lần” mà
phải nói “ không thể lội xuống con sông thậm chí một lần” có nghĩa là “chúng
ta không thể lội xuống được cùng một con sông”.
Theo Hêraclít vận động và đứng im là một thể thống nhất, chúng không
thể tồn tại thiếu nhau, chúng luôn tồn tại thông qua nhau. “ Chúng ta không
thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông” có nghĩa là dòng sông phải đúng là
dòng sông do vậy mà chúng ta mới có thể tắm và dòng sông đồng thời cũng
không phải là nó nên chúng ta không tắm được lần thứ hai. Dòng sông ở đây
là dòng sông luôn trôi đi, chảy đi, chảy là bản chất của tất cả các dòng sông.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong dòng sông không có gì ổn định.
Chính trong sự trôi đi, chảy đi, vận động, biến đổi liên tục ấy lại biểu hiện
tính ổn định, bất biến của dòng sông đó là chảy. Nhờ có chảy mới là sông.
Chính cái vận động, biến đổi lại biểu hiện cái ổn định nên sông mới chảy,
ngược lại, cái ổn định lại biểu hiện cái biến đổi, vận động. Đó là tư tưởng biện
chứng rất sâu sắc của Hêraclít.


11
Thứ ba, quan niệm về mâu thuẫn tồn tại phổ biến, sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Trong triết học Hy Lạp cổ đại A-na-xi-măng-đrơ
đã từng nói đến tư tưởng sư khai về sự đấu tranh của các mặt đối lập, sự phân
đôi thống nhất của các mặt đối lập. Tuy nhiên, Hêraclít là người nói đến sự
tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong các sự vật, hiện tượng, sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập sâu sắc hơn.
Hêraclít đã nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn
trong mọi sự vật, hiện tượng. Tư tưởng đó được thể hiện thông qua những
phỏng đoán của ông về vai trò của các mặt đối lập trong sự vận động, biến đổi

phổ biến của thế giới, về “ sự trao đổi của những mặt đối lập”, về sự tồn tại và
thống nhất của các mặt đối lập. Những tư tưởng đó được Hêraclít phát biểu
qua những câu châm ngôn hết sức độc đáo và sâu sắc: “ Cùng một cái ở trong
chúng ta sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này mà biến đổi, là
cái kia và ngược lại cái kia mà biến đổi là cái này”; “ Cái lạnh nóng lên, cái
nóng lạnh đi, cái ướt khô đi, cái khô ướt lại”; “ Bệnh tật làm cho sức khỏe quý
hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn,
mệt mỏi làm cho nghỉ ngơi dễ chịu hơn”.
Khẳng định tính thống nhất của thế giới là ngọn lửa vĩnh hằng, nguồn
gốc của vạn vật do lửa sinh ra, Hêraclít cho rằng thế giới hiện thực hay vũ trụ
đang tồn tại là cái duy nhất, đồng thời cũng là cái đa dạng. Với quan niệm này
đã đưa tư tưởng của Hêraclít đến một trình độ khái quát triết học cao và trừu
tượng về sự thống nhất của các mặt đối lập trong trong thế giới. Ông cho
rằng, mọi cái đồng nhất đều luôn tồn tại trong sự khác biệt và đó là cái hài
hòa của những cái vốn được coi là “ bất đồng”. Bởi "thiện và ác chỉ là một",
sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già trước sau cũng đều là một"; "Đối lập tạo
ra hài hòa, giống như cây cung và chiếc đàn sáu dây". “ Tất cả mọi sự vật
trong vũ trụ đều tồn tại trong thể thống nhất của cái phân chia được và cái
không phân chia được, cái toàn bộ và cái bộ phận, cái đồng nhất và cái không
đồng nhất, cái được sinh ra và cái không được sinh ra, cái toàn bộ và cái


12
không toàn bộ, cái quy tụ và cái phân tán, cái đồng và cái bất đồng...”. Khi
đánh giá về luận điểm này của Hêraclít, Lênin cho rằng: “ Phân đôi cái thống
nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của nó là thực chất của phép biện
chứng”.
Các mặt đối lập của sự vật, theo Hêraclít chúng luôn trao đổi với nhau
trong sự thống nhất, như lạnh trao đổi với nóng để nóng lên và ngược lại,
nóng trao đổi với lạnh để lạnh đi; ướt trao đổi với khô và khô trao đổi với ướt.

Trong mỗi con người Hêraclít cho rằng: sống và chết, trẻ và già, thức và ngủ,
tỉnh táo và mơ mộng... cũng luôn trao đổi với nhau. Khi các mặt đối lập cùng
tồn tại trong một sự vật chúng cũng luôn có mối liên hệ tác động, ràng buộc
lẫn nhau như: "bệnh tật khiến cho người ta thấy sức khoẻ quý hơn, cái ác làm
cho cái thiện trở nên cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn, cái mệt
mỏi làm cho việc nghỉ ngơi dễ chịu hơn". Tư tưởng đó được Hêraclít nêu ra
qua một ví dụ hết sức độc đáo: mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau giữa các mặt
đối lập "cũng giống như con nhện nằm ở giữa màng nhện, chỉ cần một con
ruồi đụng phải đường tơ nào đó thì con nhện ấy lập tức phát hiện và tiến tới
chỗ đó như thế là đụng đến đường tơ khiến cho nó đau đớn lắm không bằng.
Cũng giống như linh hồn, khi thân thể bị thương tổn ở một chỗ nào đó thì linh
hồn cũng tiến tới chỗ đó như thế là nó không chịu được nỗi đau đớn của thể
xác, và đó là bởi linh hồn có một mối liên hệ chặt chẽ với thân thể".
Với quan niệm về các mặt đối lập trong sự vật như đã trình bày, Hêraclít
cũng đồng thời nói đến "sự phân đôi của cái thống nhất" mà việc "nhận thức
các bộ phận mâu thuẫn của nó", cái làm nên bản chất, đặc trưng cơ bản nhất
trong tư tưởng biện chứng của ông, đã khiến cho nhiều nhà triết học đương
thời gọi triết học của Hêraclít là triết học “ tối nghĩa” và đặc biệt làm cho nhà
triết học Arixtốt luôn phải "nát óc" và đấu tranh chống lại.
Khẳng định các mặt đối lập vừa có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, vừa
có sự trao đổi, chuyển hóa lẫn nhau, Hêraclít cho rằng thế giới luôn tồn tại với
sự hoàn hảo và hài hòa vốn có của nó. Sự hoàn hảo, tính hài hòa của thế giới


13
là sự thống nhất nội tại, là sư hòa hợp, sự cân bằng của các mặt đối lập trong
các sự vật, hiện tượng. Chính sự thống nhất nội tại của các mặt đối lập đã tạo
ra cho mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ tính ổn định, xác định tồn tại thực
tế. Tuy nhiên, sự hài hòa, ổn định đó theo Hêraclít chỉ là tương đối. Bởi trong
vũ trụ không có cái gì là bất biến, là tuyệt đối, vĩnh viễn ngoại trừ sự vận

động. Tính hài hòa, ổn định của vũ trụ đều có thể bị phá vỡ bởi sự tranh giữa
các mặt đối lập là vốn có của nó. Thông qua sự đấu tranh, trao đối và chuyển
hóa giữa các mặt đối lập mà mọi sư vật, hiện tượng và cả vũ trụ có thể chuyển
hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là
cái nội tại, vốn có nằm trong sự hài hòa, là nguồn gốc của mọi sự vận động và
biến đổi, là cái tạo nên “dòng chảy" liên tục của vũ trụ. Ông viết: “Sự hài hòa
được tạo ra bởi cái chỉnh thể và cái chưa chỉnh thể (cái bộ phận), cái phù hợp
với nhau và cái không phù hợp với nhau, cái tích tụ và cái phân tán, cái hòa
điệu và cái không hòa điệu, và từ cái chỉnh thể (đối lập) sinh ra cái một và từ
cái một sinh ra cái chỉnh thể”.
Khi các mặt đối lập được hình thành và ngày một tăng lên “làm suy yếu”
sự hòa hợp, tính hài hòa, tính chính thể nội tại của sự vật. Đó là cuộc đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập càng mất đi sự phù hợp với nhau,
tạo ra sự đấu tranh giữa chúng. Trong sự đấu tranh đó khi có sự thắng lợi của
một mặt đối lập, cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập sẽ tạo ra một sự vật mới,
một chỉnh thể hòa hợp mới, chỉnh thể mới này lại tuân theo quy luật của
“dòng chảy" vĩnh hằng và biến đổi phổ biến để đến lượt mình, nó lại sinh ra
trong bản thân nó những sự khác biệt mới, những mặt đối lập mới và theo đó,
một cuộc đấu tranh mới giữa các mặt đối lập mới lại xuất hiện. Khẳng định sự
đấu tranh của các mặt đối lập là vĩnh hằng, Hêraclit còn cho rằng, đấu tranh là
nguồn gốc của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ và đó là một mặt trong "sự
sống" của mọi cái đang diễn ra. Mặt khác trong "sự sống” ấy là tính hòa hợp,
tính có trật tự, tính hài hòa. Một chỉnh thể thống nhất bao giờ cũng tồn tại với


14
các mặt đối lập của nó, giống như cái ác bao giờ cũng tồn tại với mặt đối lập
của nó là cái thiện, cái chết với mặt đối lập của nó là cái sống... và ngược lại.
Như vậy, Hêraclít cho rằng mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong mọi sự vật,
hiện tượng. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là tương đối tạo ra sự hài hòa,

ổn định, tồn tại thực của mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ. Đấu tranh giữa
các mặt đối lập là vĩnh viễn là nội tại vốn có, là nguồn gốc tìm ra chân lý và
sự phát triển.
Thứ tư, tư tưởng biện chứng trong quan niệm về logos và nhận thức của
Hêraclít. Logos theo tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là từ ngữ, là tư tưởng. Trong
triết học của Hêraclít, logos là phạm trù trung tâm trong triết học của ông.
Xuất phát từ quan niệm lửa là bản nguyên đầu tiên của vũ trụ, là cơ sở, nguồn
gốc sinh ra vạn vật trong thế giới, lửa sẽ phán xét tất cả nên Hêraclít cho rằng
“ ngọn lửa không ngừng cháy và tàn lụi” ấy có một quy luật nội tại vốn có của
nó đó chính là “ logos”. Logos trong quan niệm của Hêraclít là quy luật bất
biến, vĩnh hằng của vũ trụ: “ Logos là cái vĩnh viễn tồn tại…vạn vật ra đời
đều dựa vào logos của nó”. Vì vậy, Hêraclít luôn quan niệm rằng phương
châm nghiên cứu của mình không dừng lại ở sự thông thái, biết nhiều, mà
quan trọng hơn là phải biết đến logos của sự vật. Nhận thức và việc làm phải
tuân theo logos chứ “ không phải theo tôi, mà theo logos”.
Như vậy, theo Hêraclít logos là quy luật chung nhất và phổ biến nhất mà
mọi sự vật, hiện tượng và cả vũ trụ phải tuân theo. Logos là quy luật về sự
thống nhất(hài hòa) và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Trong quan điểm nhận thức, Hêraclít đã nêu lên khái niệm logos khách
quan và logos chủ quan. Logos khách quan là trật tự khách quan của mọi cái
đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy
nghĩ của con người. Sự thống nhất giữa logos khách quan và logos chủ quan
là cơ sở, tiền đề của nhận thức. Hêraclít cho rằng con người chỉ có thể nhận
thức được cái chung, cái phổ biến khi nhận thức được sự biểu hiện đa dạng,
cụ thể của nó thông qua các sự vật, hiện tượng đơn nhất, cá biệt. Để nhận thức


15
được cái đơn nhất, cá biệt đó phải bằng cách so sánh, đối chiếu nó với cái
chung, cái phổ biến. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới biểu hiện rất đa

dạng, đồng thời cũng đa dạng về các mối quan hệ. Để nhận thức được tính đa
dạng trong các mối quan hệ đó và nắm được quy luật phổ biến của thế giớilogos của vũ trụ thì chủ thể nhận thức trước tiên phải có năng lực quan sát.
Hêraclít cho rằng nhận thức phải bắt đầu từ cảm giác, không có cảm giác thì
không có bất cứ nhận thức nào. Ông nói: “ mắt, tai là người thầy tốt nhất,
nhưng mắt là nhân chứng chính xác hơn tai”. Hêraclít đã coi logos chủ quan
là đối tượng của nhận thức, coi trọng nhận thức cảm tính nhưng ông không
tuyệt đối hóa nó mà cho rằng trong quá trình nhận thức không được dừng lại
ở logos chủ quan, nhận thức cảm tính mà phải hướng tới nhận thức logos
khách quan của sự vật tức là nhận thức được bản chất, quy luật của sự vật.
Bởi theo ông “ thị giác thường bị lừa, bởi vì tự nhiên thích giấu mình”.
Những nội dung tư tưởng biện chứng của Hêraclít mặc dù chưa được
trình bày thành hệ thống nhưng rất độc đáo và khá sâu sắc. Vì thế, Mác –
Ăngghen đã đánh giá một cách rất khách quan giá trị quan trọng triết học của
Hêraclít, coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại.
c. Tư tưởng biện chứng trong triết học của Xôcrát( 469-399 trCN)
Xôcrát cho rằng triết học là sự nhận thức của con người về chính bản
thân mình nên tư tưởng biện chứng được thể hiện trong nhận thức luận và đạo
đức học. Ông nói: “ con người hãy nhận thức chính mình”.
Xôcrát là nhà hùng biện nổi tiếng trong các cuộc đàm thoại và tranh luận.
Ông phủ nhận ý kiến chủ quan của mỗi người là chân lý. Vì vậy, Xôcrát đã
nêu ra những nguyên tắc chung trong các cuộc đàm thoại để phát hiện ra chân
lý: phải có ngôn ngữ chung với những nội dung xác định mang tính khách
quan, nhờ đó khám phá ra chân lý đích thực mà ai cũng phải thừa nhận; ý
thức chủ quan của mỗi người trong đàm thoại về sự vật ngoài yếu tố chủ quan
phải có nội dung khách quan; tri thức chung mang tính phổ biến tổng quát đó


16
là chân lý khách quan thu được trong các cuộc đàm thoại mà ai cũng phải
thừa nhận.

Xôcrát cho rằng đạo đức và tri thức là một. Do đó người nào có tri thức
thì người đó có đạo đức. Bởi vì, có tri thức mới phân biệt được cái thiện, cái
ác, cái chính, cái tà. Cái thiện phổ biến, cái chung là cơ sở của đạo đức, là tiêu
chuẩn của đức hạnh. Muốn tuân theo cái thiện phổ biến thì phải nắm bắt được
nó, hiểu nó. Do đó phải có phương pháp. Đó là phương pháp tìm ra chân lý
thông qua các cuộc tranh luận, tọa đàm. Phương pháp này được gọi là
“phương pháp Xôcrát”. Phương pháp Xôcrát gồm bốn yếu tố:
Một là, mỉa mai: Đây là một thủ pháp phản biện bằng cách nêu lên
những câu hỏi sao cho người đối thoại tự mình thấy mâu thuẫn với ý kiến của
mình, từ đó thừa nhận sai lầm trong ý kiến đưa ra, thấy được sự “ ngu dốt”
thiếu cơ sở của mình. Những câu hỏi này thường là những câu hỏi mẹo mang
tính chất châm biếm dí dỏm, mỉa mai.
Hai là, đỡ đẻ: Đây là thủ pháp đi liền với thủ pháp mỉa mai và được thực
hiện sau khi tiến hành thủ pháp mỉa mai. Bởi vì, theo Xôcrát, sau khi đã làm
cho đối phương tranh luận thấy được cái sai của mình, thì cần phải giúp đỡ họ
tìm ra lối thoát bằng cách đạt tới tri thức đúng, từ bỏ tri thức sai.
Ba là, quy nạp: Quy nạp thủ pháp là từ những cái cụ thể khái quát lên
thành cái chung, có ý nghĩa phổ biến – nghĩa là từ những hành vi đạo đức cụ
thể, riêng lẻ phải phân tích, so sánh để tìm ra cái thiện phổ biến của mọi hành
vi đạo đức, phân biệt nó với cái ác, cái phi nghĩa.
Bốn là, xác định: Đây là thủ pháp nhằm chỉ ra những hành vi đạo đức
thuộc loại nào, chúng có quan hệ và phụ thuộc vào nhau như thế nào, nghĩa là
làm cho người đối thoại thấy cần phải làm thế nào cho đúng với cái thiện phổ
biến.
d. Tư tưởng biện chứng trong triết học Paltôn( 427-347 trCN)
Xuất phát từ quan niệm linh hồn con người đã chứa đựng dưới dạng
tiềm tàng mọi tri thức, Platon đưa ra luận điểm nhận thức là sự hồi tưởng mà


17

linh hồn đã có được trước đây nhưng rồi lại quên đi. Yếu tố quan trọng nhất
trong phương pháp hồi tưởng lại đó là nghệ thuật đàm thoại trực tiếp ( hỏiđáp) – nghệ thuật biện chứng, Platon gọi đó là phương pháp Đi-a-léc-tích.
Phương pháp này được Platon hiểu với khía cạnh:
Một là, phép biện chứng là khả năng đặt câu hỏi và giải đáp nó. Về thực
chất, Platon đã sử dụng phép biện chứng của Xôcrát trong các cuộc tranh luận
và đàm thoại.
Hai là, phép biện chứng là khả năng sử dụng và tiếp cận các khái niệm,
tổng hợp các ý kiến khác nhau trong tranh luận để đi đến ý tưởng thống nhất.
Như vậy, với cách hiểu về phép biện chứng ở hai khía cạnh trên, Platon
đã kế thừa quan niệm của Xôcrát cho rằng muốn hiểu được bản chất của sự
vật, hiện tượng phải định nghĩa được chúng thông qua các mức độ khái niệm.
Phương pháp Đi-a-léc-tích của Platon là phương pháp đối lập những khái
niệm theo từng cặp để nhận thức chân lý. Nhận thức chân lý(ý niệm) thông
qua những khái niệm đối lập và phương pháp đối chiếu những mặt đối lập.
Tuy nhiên, Platon đã coi biện chứng là tối cao trong mọi khoa học và tuyệt
đối hóa vai trò của phép biện chứng trong nhận thức khi ông đẩy nó đến mức
cực đoan coi đó là công cụ nhận thức về thế giới ý niệm, tách rời thế giới các
sự vật cảm tính.
Tìm hiểu tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại theo tiến
trình lịch sử qua một số đại biểu trên chúng ta có thể nhận định rằng: tư tưởng
biện chứng được hình thành mầm mống trong triết học của Talét, sau đó được
tiếp tục hình thành và phát triển ở triết học của Hêraclít, Xôcrát, Platon và
một số đại biểu khác trong triết học Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, có thể nói tư
tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại được thể hiện sâu sắc nhất
trong triết học của Hêraclít.
2. Những đóng góp của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp
cổ đại đối với sự phát triển của phép biện chứng


18

Lịch sử phát triển của phép biện chứng đã trải qua ba giai đoạn: phép
biện chứng tự phát, ngây thơ thời cổ đại; phép biện chứng duy tâm; phép biện
chứng duy vật. Qua tìm hiểu nội dung về tư tưởng biện chứng trong triết học
Hy Lạp cổ đại chúng ta có thể nhận định rằng tư tưởng biện chứng trong triết
học Hy Lạp cổ đại ở giai đoạn đầu tiên, giai đoạn sơ khai của phép biện
chứng, nó là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển về sau của phép biện chứng mà
đỉnh cao là phép biện chứng duy vật.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng, trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử triết
học nhân loại, với cách nhìn biện chứng về thế giới, trên phương diện thế giới
quan, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã gạt bỏ những ảnh hưởng tiêu cực của
thế giới quan thần thoại và tôn giáo để xây dựng một thế giới quan, một
phương pháp tư duy mới cho nhân loại đó là tư duy triết học mang tính biện
chứng. Tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại đã mở đầu cho sự
phát triển những tư tưởng biện chứng trong triết học phương Tây nói riêng và
triết học nhân loại nói chung. Những vấn đề về tư tưởng biện chứng trong
triết học Hy Lạp cổ đại đã đặt ra là những viên đá tảng tạo nền móng cho sự
phát triển của phép biện chứng trong triết học nhân loại.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là những người đã đặt cơ sở, nền móng
cho sự phát triển của triết học nói chung và phép biện chứng nói riêng trên lập
trường duy vật. Trên lập trường duy vật với phương pháp tư duy độc đáo của
cách nhìn biện chứng tự phát, ngây thơ về thế giới là một thể thống nhất. Các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã khẳng định thế giới thống nhất ở bản nguyên
đầu tiên là một dạng vật chất cụ thể. Đây chính là cơ sở để các nhà triết học
sau này nhìn nhận về thế giới như một chỉnh thể thống nhất ở tính vật chất
trên lập trường duy vật.
Mặc dù tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại chưa được
trình bày thành một hệ thống hoàn chỉnh, nhưng những tư tưởng đó là cơ sở
cho các nhà triết học sau kế thừa để xây dựng tư tưởng biện chứng của mình
như phép biện chứng duy tâm của Hêghen là sự kế thừa những tư tưởng biện



19
chứng tự phát, ngây thơ thời cổ đại trong đó có tư tưởng biện chứng Hy Lạp
cổ đại. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của tư tưởng biện chứng
trong triết học Hy Lạp cổ đại là tư tưởng biện chứng của Hêraclít, một trong
những đại biểu xuất sắc đã trình bày khá sâu sắc những nội dung tư tưởng của
phép biện chứng như: Quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất, mối
quan hệ giữa vận động và đứng im, tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của mâu
thuẫn, sự thống nhất(hài hòa) và đấu tranh giữa các mặt đối lập, học thuyết về
dòng chảy không ngừng…
Có thể nói rằng, tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại có
một vị trí, vai trò rất đáng trân trọng, nó là bước khởi đầu trong quá trình phát
triển của phép biện chứng mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng duy vật do
Mác- Ăngghen sáng lập. Vì vậy, mặc dù triết học Mác – Lênin nói chung và
phép biện chứng duy vật do Mác – Ăngghen sáng lập ra nói riêng là sự kế
thừa thẳng và trực tiếp phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của
Phoiơbắc trong triết học cổ điển Đức thì không có nghĩa là tư tưởng biện
chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại không có vai trò gì. Mà trái lại, tư tưởng
biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại với tính chất tự phát, ngây thơ
nhưng hết sức đặc sắc đó có vai trò là tiền đề, là những hòn đá tảng để Mác –
Ăngghen xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách mạng và khoa học.
Đánh giá về vai trò của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại đối
với lịch sử triết học nhân loại Ăngghen viết: “ Quan niệm về thế giới một
cách nguyên thủy, ngây thơ nhưng căn bản là đúng, ấy là quan niệm của nhà
triết học Hy Lạp thời cổ, và người đầu tiên diễn đạt được rõ ràng quan niệm
ấy là Hêrclít: mọi vật tồn tại, nhưng đồng thời không tồn tại, vì mọi vật đều
trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều luôn luôn ở trong quá
trình xuất hiện và biến đi”.
Bên cạnh những giá trị đóng góp cho sự phát triển của phép biện chứng,
tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại vẫn còn bộc lộ những hạn

chế không thể tránh khỏi. Do hạn chế của điều kiện lịch sử và khoa học nên tư


20
tưởng triết học mới chỉ dừng lại ở những tư tưởng sơ khai tự phát, ngây thơ.
Tư tưởng biện chứng chưa hình thành một cách có hệ thống, không nhất quán
thường được thể hiện qua cách nói mỉa mai, châm biếm, châm ngôn. Sự thống
nhất mới chỉ được quan niệm ở nguồn gốc chung của sự vật mà vẫn chưa thấy
được sự thống nhất giữa các sự vật và hiện tượng trong những mối liên hệ cụ
thể. Sự vận động cũng chỉ là sự vận động theo vòng tròn khép kín, đơn giản,
chưa tạo nên sự đa dạng và phong phú của các sự vật và hiện tượng theo
hướng phát triển đi lên.


21
KẾT LUẬN
Hy lạp cổ đại là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời
cổ đại, là thời kì phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Hy lạp cổ đại không
chỉ là một trung tâm kinh tế - xã hội mà còn là một trung tâm triết học của
nhân loại. Triết học Hy Lạp thời cổ đại rất phát triển với nhiều tư tưởng có giá
trị đối với sự phát triển của triết học nhân loại trong đó có tư tưởng biện
chứng. Tư tưởng biện chứng được hình thành trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã
hội, văn hóa, khoa học mà đặc biệt là khoa học tự nhiên ở Hy Lạp cổ đại với
những nhà triết học tiêu biểu đã đi vào lịch sử triết học của nhân loại như:
Talét, Hêrclít, Xôcrát, Platon,...Đặc điểm cơ bản của tư tưởng biện chứng
trong triết học Hy Lạp cổ đại là tính tự phát, ngây thơ. Mặc dù còn tồn tại
những hạn chế không tránh khỏi do điều kiện lịch sử và khoa học chưa phát
triển nhưng những tư tưởng biện chứng sơ khai trong triết học Hy Lạp cổ đại
có những đóng góp rất to lớn đối với sự phát triển của triết học nhân loại nói
chung và lịch sử hình thành, phát triển của phép biện chứng nói riêng, nó là

những hòn đá tảng để các nhà triết học xây dựng và phát triển phép biện
chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật của Mác – Ăngghen.


22
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
I.

ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ
ĐẶC

ĐIỂM

CỦA



TƯỞNG

BIỆN

CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ
1.

ĐẠI
Điều kiện lịch sử hình thành tư tưởng biện


II.

chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Đặc điểm của tư tưởng biện chứng trong triết
học Hy Lạp cổ đại
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG

1.

TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
Tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp

2.

qua một số đại biểu tiêu biểu
2.

Những đóng góp của tư tưởng biện chứng trong
triết học Hy Lạp cổ đại đối với sự phát triển
của phép biện chứng

KẾT
LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO


23
1. Lịch sử triết học, GS,TS. Nguyễn Hữu Vui, Nxb CTQG, HN.2004
2. Triết học hỏi và đáp, Trường Đại học quốc gia Lômônôxốp, GS. E.E

Nexmeyanov, Nxb Đà Nẵng.2002
3. Lịch sử triết học, PGS.Vũ Ngọc Pha, Nxb Thống Kê.2004
4. Giáo trình triết học ( dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành Triết học), Nxb Lý Luận Chính Trị.2006
5. Từ điển triết học giản yếu, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp,
HN.1987
6. Đại cương lịch sử triết học, Nxb Thống Kê. 1997



×