V. I. L ê - n i n
1
1
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA LÊ NIN TRONG TÁC PHẨM “BÀN VỀ CÁI GỌI
LÀ VẤN ĐỀ THỊ TRƯỜNG” ĐỂ XÂY DỰNG ĐỒNG BỘ MỘT SỐ LOẠI THỊ
TRƯỜNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở
VIỆTNAM
MỞ ĐẦU
V.I.Lênin (1870-1924) nhà lý luận thiên tài, người lãnh đạo giai cấp vô sản và nhân dân
lao động toàn thế giới, người tiếp tục bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại
mới.V.I. Lê Nin sinh ở Ximbiếc. Năm 17 tuổi sau khi tốt nghiệp trung học,V.I. Lênin vào
học khoa luật trường đại học Can dan. Nhưng tháng 12 năm đó, ông bị bắt và chịu lưu đày
đi Côcuxơkinô, một làng thuộc tỉnh Candan, do đã tích cực tham gia vào nhóm sinh viên
chống chế độ. Tại đây, V.I.Lênin làm quen với tư tưởng dân chủ cách mạng Nga, nhất là tư
tưởng của N. G. Tsecsnwse Tập thứ nhất gồm có những tác phẩm của V. I. Lê-nin viết
trong những năm 1893 - 1894, vào thời kỳ đầu đời hoạt động cách mạng của Người.
Tác phẩm "Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường", mà V. I. Lê-nin đã viết vào
mùa thu năm 1893, là mẫu mực về sự vận dụng sáng tạo lý luận kinh tế của
C.Mác vào việc nghiên cứu chế độ kinh tế ở Nga. Trên cơ sở hiểu biết sâu sắc bộ
"Tư bản" của Mác và vận dụng phương pháp biện chứng. Tác phẩm ra đời trong
bối cảnh vào những năm cuối của thế kỷ XI X, ngành công nghiệp ở các thành
phố lớn ở các nước tư bản ở Tây âu phát triển mạnh và bắt đầu xâm nhập vào
nước Nga, nước Nga được sếp vào một trong năm nước công nghiệp lớn ở
Châu âu theo đó phong trào công nhân Nga phát triển. Chủ nghĩa Mác bắt đầu
du nhập vào nước Nga, trong thời kỳ này cuộc cuộc đấu tranh của Lê Nin
( Đảng dân chủ) với các đảng phái khác ở Pháp, Đảng dân túy diễn ra gay gắt
họ cho rằng nước Nga không thể phát triển theo CNTB được, nước Nga không
có thị trường và đưa ra các luận điểm phủ nhận hai khu vực( SXTLSXSXTLTD).
Trong cuộc họp tại xanhpetécpua đề tài về vấn đề thị trường Lê nin đã có bài
phát biểu về vấn đề này và sau đó trong bài thuyết trình với Lê nin đã chỉ ra:
Không có thi trường đó là lý lẽ chủ yếu viện ra để bác bỏ khả năng áp dụng lý
luận của Mác vào nước Nga và LêNin đã chỉ ra những sai lầm của G.B.Cra-xin
và phái Dân túy và vận mệnh của CNTB ở Nga, xung quanh sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản ở nước Nga.
V. I. L ê - n i n
2
2
Nghiên cứu tác phẩm đặt ra câu hỏi cho người học vậy ở Việt Nam việc xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường như thế nào ? Do đó tác giả chọn chủ đề : Vận dụng tưởng của
Lê Nin trong tác phẩm “Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường” để xây dựng đồng bộ một số
loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng CNXH ở Việt Nam . Làm tiểu luận
của mình.
1.
NỘI DUNG
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam,
việc phát triển một hệ thống thị trường đầy đủ, đồng bộ có vai trò đặc biệt quan trọng và là
một yêu cầu khách quan. Trên thực tế, hệ thống thị trường với tư cách là tổng hoà những
quan hệ kinh tế khách quan, trong một chừng mực nhất định, đang tự nó phát triển dần dần
hoàn thiện, tuân thủ những quy luật, nguyên tắc, chuẩn mực thị trường. Mặt khác, thị
trường, hiểu theo nghĩa đầy đủ của từ này, không thể tự nó thực hiện mà phải thông qua
những thể chế mang tính chủ quan do Nhà nước tạo lập và triển khai. Với góc độ này, thị
trường đang trở thành cơ chế quan trọng để huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho
phát triển, đồng thời tạo cơ sở cho Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhận thức đượcc
vấn đề này, Đảng ta từ đầu thập niên 90 đã có quan điểm nhất quán nhằm từng bước hoàn
thiện hệ thống thị trường, tạo lập đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam. Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh : Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng
bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hớng XHCN, đặc biệt quan tâm đến các thị
trường quan trọng nhưng chưa có hoặc còn sơ khai như thị trường lao động, thị trường
chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ .
Sự quan tâm của Đảng ta đến việc tạo lập đồng bộ các loại thị trường là hoàn toàn xác
đáng. Trong điều kiện hiện nay, với yêu cầu chuyển đổi và hội nhập quốc tế, ở nước ta đòi
hỏi hệ thống thị trường phải phát triển đồng bộ, cho phép khai thác tất cả các tiềm năng
của đất nước để phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Theo hướng này, với từng loại
thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương và biện pháp cụ thể. Tuy nhiên,
một số thị trương vẫn còn sơ khai.
Như vậy, mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra là hình thành đồng bộ các loại thị
trường bao gồm: thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động
sản, thị trường khoa học công nghệ, thị trường vốn phải thông suốt cả nước và gắn với thị
trường thế giới mới chỉ đạt được ở mức rất khiêm tốn.
V. I. L ê - n i n
3
3
Tình hình đó đòi hỏi về mặt lí luận, cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ các yếu tố cấu
thành, vị trí, vai trò của các loại thị trường cơ bản và mối quan hệ tương tác giữa các loại
thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về mặt thực tiễn, phải có những
giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, hoàn thiện các loại thị trường, tạo điều kiện cho nền kinh
tế thị trường triển nhanh chóng và bền vững.Như ở trên đã đề cập, hệ thống thị trường bao
gồm các loại thị trường riêng biệt, độc lập tương đối và chúng có quan hệ hỗ trợ nhau.
1.1. Đặc điểm chủ yếu của một số loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN
1.1.1. Thị trường hàng hoá và dịch vụ
Thị trường hàng hoá và dịch vụ là bộ phận cơ bản của thị trường đầu ra của nền kinh
tế và có vai trò hết sức quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội. Theo nghĩa hẹp, thị
trường hàng hoá và dịch vụ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại hàng hoá và dịch
vụ. Mặt khác, khi nói đến thị trường hàng hoá và dịch vụ, chủ yếu là đề cập đến các loại
hàng hoá và dịch vụ là sản phẩm cuối cùng và phục vụ tiêu dùng. Thị trường hàng hoá và
dịch vụ bao gồm toàn bộ các quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ
thể tham gia thị trường.
Đặc trương cơ bản của thị trường hàng hoá và dịch vụ là sự đa dạng của các chủng
loại và hàng hoá trên thị trường, chủng loại các hàng hoá và dịch vụ đang ngày càng tăng
lên một cách không có giới hạn. Bên cạnh các loại hàng hoá truyền thống đã phát triển
những hàng hoá mới với những tính năng vượt trội.
Thị trường hàng hoá và dịch vụ mang tính cạnh tranh cao và phần lớn các thị trường
hàng hoá và dịch vụ có độ co giãn lớn và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi chính sách của Chính
phủ.
Thị trường hàng hoá có thể được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau nhiều chủng
loại hàng hoá, theo phương thức mua bán (bán buôn- bán lẻ), theo hình thức tổ chức (tập
trung, phi tập trung, qua mạng), theo phạm vi (địa phương- cả nước- quốc tế)…Điểm đặc
biệt là dù phân loại theo phương thức nào thì mối liên hệ giữa các thị trường là hết sức sâu
sắc. Mọi sự phân chia, cắt đoạn thị trường đều gây ảnh hưởng xấu và lan truyền đến toàn
bộ hệ thống thị trường.
Thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kỳ chuyển đổi hướng tới việc đảm bảo khả
năng tiếp cận của mọi tầng lớp xã hội đối với các dịch vụ và hàng hoá thiết yếu. Tình hình
này diễn ra thường xuyên và lâu dài sẽ làm sâu sắc hơn khoảng cách giầu nghèo, phân hoá
xã hội và dẫn đến bất ổn định.
Tóm lại, thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường là một thị trường hướng tới phát triển đa dạng, cạnh tranh liên kết chặt chẽ giữa các
V. I. L ê - n i n
4
4
khu vực trong nước và thế giới, giữa các thị trường hàng hoá và dịch vụ với nhau. Nhà
nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết và cung cấp các dịch vụ và hàng hoá công
cộng. Đồng thời, Nhà nước đảm bảo khả năng tiếp cận của mọi tầng lớp xã hội đối với các
dịch vụ hàng hoá thiết yếu.
1.1.2. Thị trường lao động
Thị trường lao động là một trong những loại thị trường cơ bản và có vị trí quan trọng
trong hệ thống các loại thị trường. Quá trình hình thành cũng như sự vận động của thị
trường lao động có những đặc điểm riêng biệt.
Xét từ góc độ vĩ mô, thị trường lao động cũng như các loại thị trường khác, tuân thủ
theo những quy luật của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh
tranh. Điểm khác biệt lớn nhất ở đây là do tính đặc biệt của hàng hoá sức lao động. Con
người là chủ thể của hàng hoá sức lao động, vì vậy, việc cung ứng sức lao động phụ thuộc
vào những đặc điểm về tâm lý, kinh tế, xã hội của ngời lao động. Đối với hầu hết các loại
thị trường khác thì cầu phụ thuộc vào con người với những đặc điểm của họ, nhưng đối với
thị trường lao động thì con người lại có ảnh hưởng quyết định tới cung. Chính vì vậy, khi
giá cả sức lao động quyết định tới tác động của các yếu tố của môi trờng kinh tế-xã hội và
pháp luật. Còn cầu về lao động được hình thành bởi các đối tượng có nhu cầu sử dụng lao
động trong xã hội, trong đó các doanh nghiệp có vai trò quan trọng nhất. Vì vậy, có thể
nhận thấy rằng, điều kiện tiên quyết cho một thị trường phát triển là nó phải được tồn tại và
bảo đảm trong một môi trờng pháp lý thuận lợi. Môi trường pháp lý phải tạo điều kiện cho
cả cung (người lao động) và cầu (người sử dụng lao động) có quyền tự do phát triển và tự
trao đổi. Quan hệ cung- cầu cũng được điều chỉnh bằng một hệ thống các văn bản về hợp
đồng lao động.
1.1.3. Thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản là lĩnh vực trao đổi hàng hoá bất động sản. Thị trường bất
động sản có thể hiểu theo nghĩa rộng là mọi hoạt động kinh tế diễn ra quanh việc mua bán
bất động sản, cũng có thể hiểu theo nghĩa hẹp, là những trung tâm, địa điểm, diễn ra các
hoạt động mua bán bất động sản.
Do bất động sản là một hàng hoá đặc biệt, nên thị trường bất động sản hoạt động theo
quy luật đặc thù khác biệt với các loại thị trường khác. Bất động sản là những tài sản
không di dời được, khác với các tài sản dễ di dời. Tính chất không di dời của bất động sản
là do chúng gắn chặt với đất đai hoặc chính là đất đai. Nếu tách khỏi đất đai thì bất động
sản không thể tồn tại được hoặc không còn là bất động sản nữa.
Đất đai là một tài nguyên quốc gia đặc biệt và không một quốc gia nào trên thế giới
lại không đảm bảo cho quyền can thiệp tối cao của Chính phủ vào việc sử dụng đất đai dù
V. I. L ê - n i n
5
5
cho hình thức và mức độ can thiệp có khác nhau. Ngay cả khi quyền sở hữu tư nhân đối
với đất đai được đảm bảo ở mức cao nhất thì chủ đất vẫn tuân thủ theo quy định của Chính
phủ về quy hoạch hay mục đích sử dụng miếng đất đó. Nhà nước có quyền sử dụng đất vào
các công trình phúc lợi và công cộng xã hội (có đền bù chủ sở hữu). Để đảm bảo thực hiện
các quyền của mình thì Nhà nước phải có quy hoạch rõ ràng, dài hạn và thông báo một
cách rộng rãi, cũng như có chính sách đền bù hợp lý.
Vấn đề ở đây là xác định và đảm bảo quyền sở hữu đất đai (hay quyền sử dụng đất)
của ngời chủ sở hữu. Sự xác lập rõ ràng và an toàn cao về các quyền đối với đất đai có thể
làm gia tăng đầu tư, năng suất và thu nhập. Nếu quyền đối với đất đai đợc đảm bảo thì một
thị trường đất đai có thể hoạt động cho phép chuyển giao tài sản từ một ngời chủ (hoặc một
ngời có quyền sử dụng) tới một ngời khác kéo theo đầu tư và công nghệ.
Giá trị của đất đai không ngừng thay đổi, phụ thuộc rất lớn vào những đầu tư về hạ
tầng (do Chính phủ thực hiện) hay những quy hoạch phát triển kinh tế. Do vậy, mức giá
của thị trường bất động sản phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế và bản thân chúng
lại có tác động ngược trở lại. Giá đất càng cao làm tăng chi phí sản xuất và giảm sức cạnh
tranh. Khi kinh tế tại khu vực nào càng phát triển thì giá trị đất đai của khu vực đó cũng
tăng lên nhanh chóng.
Tuy nhiên, trong bất kì hình thức nào thì Nhà nước vẫn giữ quyền tối cao đối với việc
sử dụng bất động sản thuộc phạm vi lãnh thổ quốc gia trong những trờng hợp cần thiết.
Tóm lại: thị trường bất động sản trong nền kinh tế thị trường thời kì chuyển đổi cũng
như trong nền kinh tế thị trường hiện đại là thị trường chuyển nhượng mua bán quyền sở
hữu hoặc quyền sử dụng bất động sản. Vấn đề cơ bản là các quyền đó phải được xác định
rõ ràng, được đảm bảo tôn trọng và chuyển nhượng dễ dàng với chi phí hợp lí.Thông tin
trên thị trường phải luôn được cung cấp một cách công khai và bình đẳng. Nhà nước luôn
có quyền cao nhất đối với sử dụng bất động sản trên phạm vi lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên,
Nhà nước phải có một quy hoạch thống nhất, dài hạn và tôn trọng lợi ích của các chủ sở
hữu ( hay sử dụng) bất động sản.
1.1.4.Thị trường khoa học- công nghệ
Thị trường khoa học và công nghệ là một thuật ngữ chung để chỉ một bộ phận của thị
trường liên quan đến các hoạt động mua-bán, trao đổi một loại hàng hoá đặc biệt là sản
phẩm của hoạt động khoa học và công nghệ.
Hoạt động khoa học và công nghệ là loại hoạt động có đặc thù riêng, liên quan tới
hoạt động trí óc mà trong kinh tế chính trị học, lao động này được gọi là lao động trừu
tượng với “công cụ lao động” chủ yếu là bộ não con người với khả năng tư duy của nhà
khoa học công nghệ. Vì thế, đầu tư cho nghiên cứu thường mang tính dài hạn, có nhiều rủi
V. I. L ê - n i n
6
6
ro và đòi hỏi khắt khe về nguồn nhân lực. Tuy nhiên, khi sản phẩm khoa học và công nghệ
được tung ra thị trường thì rất dễ bị sao chép, do đó đòi hỏi một thể chế mạnh mẽ nhằm
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Thị trường khoa học và công nghệ còn bị chi phối sâu sắc bởi chiến lược phát triển
khoa học công nghệ của một quốc gia.
Thị trường khoa học và công nghệ có thể tách thành 2 bộ phận cơ bản. Thứ nhất là
thị trường cho các hoạt động nghiên cứu và thứ hai là các thị trường cho các hoạt động
triển khai ứng dụng. Các hoạt động trong bộ phận thứ nhất thường ít mang tính thị trường
hơn, đặc biệt là đối với những nghiên cứu đem lại tác dụng xã hội to lớn. Các hoạt động
nghiên cứu có thể theo đơn đặt hàng của Nhà nước, do các doanh nghiệp lớn đầu tư trên cơ
sở nhu cầu của thị trường hoặc do cá nhân tự tiến hành. Vấn đề mấu chốt trong thị trường
này là Nhà nước nên đầu tư như thế nào và vào lĩnh vực gì. Nhà nước chỉ nên tập trung tài
trợ cho những hoạt động nghiên cứu có khả năng tạo ra những công nghệ và sản phẩm có
tính công cộng cao, hỗ trợ một phần đối với hoạt động nghiên cứu cơ bản của các doanh
nghiệp tạo động lực khuyến khích đầu tư nghiên cứu.
Một đặc điểm nữa là thị trường khoa học công nghệ không có tính hiện diện cao
( dưới các hình thức như trung tâm giao dịch, hội trợ, triển lãm…) mà chủ yếu là được thực
hiện thông qua hoạt động của các doanh nghiệp và tổ chức trong nền kinh tế. Hơn nữa, rất
khó có được sự phát triển nhảy vọt trong khoa học và công nghệ bởi nó đòi hỏi một quá
trình lâu dài. Trong bối cảnh tốc độ phát triển và tăng trưởng của công nghệ nhanh chưa
từng có như hiện nay, vai trò chủ yếu của chính phủ là hỗ trợ, khuyến khích và định hướng
phát triển khoa học và công nghệ.
1.2. Xây dựng đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
1.2.1. Tiêu thức xác định tính đồng bộ của các loại thị trường trong nền kinh tế
Nội dung trên đã đề cập, hệ thống thị trường bao gồm các loại thị trường riêng biệt,
độc lập tương đối và chúng có quan hệ hỗ trợ nhau. ở các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển từ lâu đời và được xác lập một cách tuần tự, không có sự đảo lộn. Đối với các
nền kinh tế chuyển đổi, trong đó có Việt Nam, khi xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từ một môi trường thể chế kế hoạch hoá tập trung, sự đồng bộ thị
trường vừa là một đòi hỏi khách quan, vừa là một thách thức. Tiêu thức nhìn nhận, đánh
giá tính đồng bộ của các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, là cần tập trung vào mối quan hệ giữa các loại thị trường, trước hết là một số thị
trường cơ bản. Do vậy, tính đồng bộ được phân tích trên một số nội dung sau:
Một là: Về thể loại
V. I. L ê - n i n
7
7
Về lý thuyết, có thể hiểu rằng sự đồng bộ về thể loại là sự hình thành, hoạt động và
hoàn thiện của tất cả các loại thị trường ở quy mô và trình độ tương đương nhau. Tuy
nhiên, trên thực tế, không có bất kỳ nền kinh tế nào đạt được sự đồng bộ tuyệt đối. Hơn
nữa, lịch sử vận hành và phát triển nền kinh tế thị trường cho thấy, sự đồng bộ có thể được
đảm bảo khi một thị trường cơ bản nhất tồn tại và hoạt động bên cạnh những thị trường
đang phát triển và các thị trường mới manh nha hình thành. Sự đồng bộ còn được thể hiện
ở khả năng tác động tương hỗ nhau giữa các loại, hay các nhóm thị trường có quan hệ mật
thiết với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, thị trường này phát triển làm cơ sở cho thị
trường khác hình thành và đi vào hoạt động. Ví dụ, thị trường bán lẻ phát triển tất yếu đòi
hỏi một thị trường bán buôn khác hình thành; hoặc thị trường hàng hoá phát triển đến một
chừng mực nhất định cũng đặt ra yêu cầu
hoàn thiện thị trường yếu tố sản xuất...
Hai là: Về trình độ phát triển
Cũng như sự đồng bộ về thể loại, đồng bộ về trình độ phát triển không có nghĩa là tất
cả các thị trường có cùng trình độ phát triển mà là sự phù hợp về trình độ giữa các loại thị
trường trong nền kinh tế. Nếu một thị trường nào đó phát triển quá cao trong khi các thị
trường khác còn non yếu, chưa hình thành hay mới manh nha hình thành sẽ là một bất cập,
ảnh hưởng đến sự phát triển chung. Như vậy, sự tương thích về trình độ phát triển của các
loại thị trường đang dần hoàn thiện mới là sự đồng bộ cần thiết và cũng là mục tiêu xây
dựng đồng bộ về trình độ trong nền kinh tế thị trường.
Ba là: Về môi trường pháp lý
Sự đồng bộ các loại thị trường không thể không tính đến môi trường pháp lý. Để có
một môi trường pháp lý hỗ trợ, thúc đẩy sự đồng bộ của các loại cần phải nghiên cứu toàn
bộ môi trường pháp lý của các loại thị trường riêng biệt, tìm ra những bất cập, chồng chéo,
cản trở, mâu thuẫn ảnh hưởng tới đồng bộ các loại thị trường.
Tiêu thức nhìn nhận sự đồng bộ các loại thị trường về môi trường pháp lý cần đợc thể
hiện trên một số nội dung sau:
- Mức độ gia nhập và rút khỏi thị trường.
- Mức độ tự do lưu chuyển của hàng hoá và chủ thể trên thị trường
- Mức độ đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể.
Bốn là: Về mục ích phát triển thị trường.
Sự đồng bộ của các loại thị trường cần được xác định theo mục đích phát triển của
mỗi loại thị trường và của hệ thống thị trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, các loại thị trường cần phát triển theo một hướng thống nhất, phục vụ có
hiệu quả sự phát triển chung.
8
V. I. L ê - n i n
8
1.2.2. Nguyên tắc xây dựng đồng bộ các loại thị trường
Để xây dựng đồng bộ các loại thị trường, những nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ là :
- Nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật : cạnh tranh là nguyên tắc cơ bản
nhất của kinh tế thị trường, là cơ sở phân phối nguồn lực xã hội. Độc quyền loại trừ cạnh
tranh, xâm hại lợi ích hoặc của ngời mua, hoặc của người bán và làm giảm hiệu quả xã hội.
Để kinh tế thị trường hoạt động và phát huy hiệu quả, cần phát huy tác dụng của cạnh tranh
và kiểm soát độc quyền, độc quyền làm méo mó các loại thị trường trong nền kinh tế, kìm
hãm hay thúc đẩy sự phát triển của một số loại thị trờng không theo quy luật phát triển
chung. Nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật không chỉ là nguyên tắc cơ bản của
nền kinh tế thị trường mà còn là cơ sở tạo lập sự đồng bộ của các thị trường trong nền kinh
tế.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch : là cơ sở khắc phục độ lệch pha và tính tương
thích của sự đồng bộ các loại thị trường. Nguyên tắc này còn là cơ sở để đánh giá tính
đồng bộ giữa các loại thị trường để tìm cách khắc phục. Công khai, minh bạch bao gồm
những thông tin cơ bản về các bên tham gia thị trường, là sự công khai về tài chính, về thu
nhập, đảm bảo sự tin tưởng của các bên tham gia vào thị trường.
- Pháp luật về sở hữu phải rõ ràng : pháp luật về sở hữu tài sản là cơ sở cho các hoạt
động của nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng là cơ sở tạo lập đồng bộ các loại thị
trường. Sở hữu về những tài sản nhà đất đai, tài nguyên... phải được xác định rất rõ ràng,
cụ thể, tránh sự lạm dụng cũng như tác động làm méo mó các loại thị trường. Sở hữu Nhà
nước khi đa vào kinh doanh, tham gia thị trường cần xác định chủ sở hữu đích thực, đại
diện chủ sở hữu và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu đối với nhà nước, nhất là trên các
lĩnh vực đất đai, tài nguyên, hầm mỏ... Có như vậy các loại thị trường mới phát triển đồng
bộ và lành mạnh, nhất là thị trường đất đai - bất động sản.
- Thực hiện nghiêm túc pháp luật về hợp đồng : trong nền kinh tế thị trường, các chủ
thể đều hoạt động bình đẳng trước pháp luật, các hoạt động giao dịch thực hiện qua các
hợp đồng. Hợp đồng là hình thức pháp lý nhằm ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền
lợi của các bên liên quan.Việc ký kết các hợp đồng cần thực hiện trên nguyên tắc công
khai, tự nguyện, không chịu các sức ép kinh tế.Việc thực hiện hợp đồng đã ký kết cần tuân
thủ nghiêm túc, việc xử lý các tranh chấp cần thực hiện đúng pháp luật.
- Các cơ quan thực thi pháp luật phải công minh : pháp luật tạo thành hành lang pháp
lý cần thiết nhằm bảo vệ các bên tham gia. Cơ quan bảo vệ pháp luật cần đứng trung lập
trước các nhóm lợi ích, không thiên vị ai. Pháp luật cần chặt chẽ, rõ ràng, nhất quán trong
cả nước, tránh tình trạng mỗi nơi hiểu và vận dụng pháp luật một cách khác nhau. Pháp
V. I. L ê - n i n
9
9
luật đồng bộ, thông suốt là cơ sở pháp lý quan trọng hình thành và phát triển các loại thị
trường trong mọi nền kinh tế thị trường.
- Vai trò của Nhà nước : Để tạo lập sự đồng bộ và đảm bảo hoạt động hiệu quả của
các loại thị trường, Nhà nước, với tư cách là cơ quan quản lý, không tham gia kinh doanh,
không bị tác động của lợi ích thị trường hay nhóm nhất định. Nhà nước vừa phải đảm bảo
lợi ích lâu dài cho nhân dân, vừa phải hỗ trợ thị trường phát triển. Thị trường chỉ tạo được
sự đồng bộ khi có vai trò của Nhà nước với mức độ phù hợp.
1.2.3. Việt Nam cần vận dụng linh hoạt lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và học tập
kinh nghiêm của các nước trong xây dựng nền kinh tế thị trường.
Từ thực tiễn tạo lập các điều kiện, môi trường, xây dựng và phát triển đồng bộ các thị
trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc, có thể rút
ra một số bài học đối với Việt Nam.
Thứ nhất: Phát triển và hoàn thiện hệ thống thị trường là yêu cầu khách quan của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết phải là nền kinh tế hàng
hoá vận động theo những quy luật của thị trường, với những đặc trưng cơ bản và được cấu
trúc bởi hệ thống các loại thị trường. Do đó, phát triển đồng bộ hệ thống thị trường, trước
hết là các thị trường cơ bản, quan trọng là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội.
Thực tiễn quá trình xây dựng và phát triển hệ thống thị trường ở Trung Quốc cho
thấy, xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường bộ phận là điều kiện, tiền đề phát triển
đồng bộ hệ thống thị trường cũng như điều kiện cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thứ hai: Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường chỉ là điều
kiện cần cho quá trình hình thành và phát triển các loại thị trường. Để thị trường tiếp tục
phát triển và hoàn thiện, tất yếu phải có vai trò của Nhà nước. Kinh nghiệm Trung Quốc
cho thấy, vai trò Nhà nước trong việc tạo lập và phát triển các loại thị trường thể hiện trên
một số nội dung sau:
+Tạo lập môi trường pháp lý cho hệ thống thị trường hoạt động bằng cải cách toàn diện
hệ thống luật pháp, cơ chế vận hành...
+Tạo lập môi trường kinh tế với nội dung trung tâm phát huy vai trò cạnh tranh, hạn
chế và kiểm soát chặt chẽ độc quyền.
+Từng bước thực hiện cơ chế giá cả, tôn trọng quy luật thị trường.
Thứ ba: Kết hợp kinh nghiệm quốc tế với thực tiễn đất nước .
V. I. L ê - n i n
10
10
Phần lớn các loại thị trường ở Việt Nam là những thị trường mới, sự vận hành của
chúng rất cần đến kinh nghiệm của các nước phát triển. Tuy nhiên, các thị trường này lại
hình thành và phát triển trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang
kinh tế thị trường, với những yếu tố và bối cảnh cha từng diễn ra. Do vậy, vận dụng kinh
nghiệm cần phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước.
Thứ tư : Xây dựng đồng bộ hệ thống thị trường với lộ trình và bước đi phù hợp
Xác định những thị trường cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa bao gồm: thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường vốn, thị trường đất đai- bất động
sản, thị trường khoa học công nghệ. Các thị trường có đặc trưng, quy luật vận động riêng
nhưng có tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển và hỗ trợ thúc đẩy các
thị trường khác hình thành, vì vậy trước hết cần xâydựng và phát triển đồng bộ các thị
trường cơ bản, trọng yếu.
2. Quan điểm và giải pháp tiếp tục tạo lập đồng bộ một số loại thị trường
ở Việt Nam.
2.1. Quan điểm chung
Thứ nhất: cần có nhận thức đúng đắn về phát triển thị trường định hướng XHCN phù
hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện nước ta hiện nay và những năm tới, tính định hướng XHCN trước
hết là nhanh chóng giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh,
bền vững, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Nền kinh tế thị trường chỉ có thể là hiện thực nếu có đầy đủ một hệ thống thị trường
phát triển. Tính định hướng XHCN của hệ thống thị trường ở nước ta là ở chỗ làm sao phát
triển thị trường theo định hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từng loại thị
trường cũng như toàn bộ hệ thống thị trường ở nước ta phải được phát triển để đáp ứng yêu
cầu giải phóng lực lượng sản xuất của Việt Nam đồng thời hội nhập đầy đủ với thị trường
thế giới. Sự vận hành của từng loại thị trường cũng như toàn bộ hệ thống thị trường ở nước
ta phải tuân theo quy luật của nền kinh tế thị trường hiện đại trong điều kiện của Việt Nam
và xu hướng hội nhập của nền kinh tế thị trường hiện đại của thế giới. Sự phát triển của hệ
thống thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nớc ta cũng không thể
tách biệt với tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại. Do đó, việc làm chậm tiến
trình phát triển của thị trường hiện đại, làm méo mó thị trường là vi phạm quy luật phát
triển của hệ thống thị trường hiện đại và đó chính là nguy cơ dẫn đến tụt hậu xa với các
V. I. L ê - n i n
11
11
nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy, cần có nhận thức đúng đắn về phát triển hệ thống
thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Thứ hai, tạo lập điều kiện và sự phát triển đồng bộ các loại thị trường có tính chất
động, luôn thay đổi theo trình độ phát triển của nền kinh tế.
Theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ xã hội hoá sản xuất ngày
càng cao sẽ xuất hiện ngày càng nhiều loại thị trường khác nhau. Vì vậy, khi nền kinh tế thị
trường đạt đến trình độ cao như các nước phát triển, sự đồng bộ thị trường đòi hỏi ở sự
tương xứng về quy mô và trình độ phát triển của các loại thị trường. Hơn thế nữa, sự đồng
bộ trong thị trường còn thể hiện ở sự phát triển thị trường ở tất cả các ngành kinh tế công
nghiệp, dịch vụ, ở các khu vực thành thị, nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tính
đồng bộ đòi hỏi thị trường hoá tất cả các ngành, khu vực, vùng miền của nền kinh tế.
Ngày nay, trong điều kiện hội nhập, sự phát triển đồng bộ của các loại thị trường còn
được thể hiện ở chỗ, thị trường phát triển không những trên phạm vi cả nước, mà còn trên
phạm vi quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, với trình độ phát triển còn thấp kém của nền kinh
tế thì việc đầu tiên đảm bảo cho sự đồng bộ các loại thị trường là phải làm sao cho có đủ
những loại thị trường để cho nền kinh tế vận hành được theo quy luật của nền kinh tế thị
trường.
Quá trình đổi mới ở nước ta đã tạo điều kiện hình thành và phát triển các loại thị
trường. Các chính sách về phát triển kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế làm cho việc hình thành hệ thống thị trường như là một tất yếu khách quan. Các
loại thị trường và vận hành theo nguyên tắc thị trường sẽ thúc đẩy sự hình thành ngày càng
đầy đủ và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường. Về mặt thể chế kinh tế, chính là sự phát triển
về quy mô, trình độ, loại hình của hệ thống các loại thị trường là biểu hiện của kết quả đổi
mới.Vì vậy, một trong những yêu cầu khách quan của đổi mới ở nước ta là phải tạo môi
truờng thể chế cho các thị trường, trước hết là các thị trường cơ bản như thị trường hàng
hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường
khoa học- công nghệ được hình thành và vận động theo nguyên tắc của thị trường.
Thị trường không thể phát triển nếu thiếu một hệ thống cơ sở hạ tầng nhất định. Cơ sở
hạ tầng: đường xá, giao thông vận tải, điện nước, bưu chính viễn thông... như là huyết
mạch vật chất của hệ thống thị trường. Trình độ phát
triển kinh tế- xã hội mà cơ sở hạ tầng là điều kiện vật chất cơ bản.
Thị trường phát triển ở trình độ nào cũng phải tuân thủ các quy luật tự thân của nó.
Tính cạnh tranh trong hoạt động của thị trường đòi hỏi một hệ thống pháp luật công khai,
minh bạch và thống nhất.
V. I. L ê - n i n
12
12
Thị trường không thể phát triển đồng bộ và ở trình độ cao nếu thiếu một hệ thống
pháp luật minh bạch, rõ ràng, cụ thể, thống nhất như là một điều kiện không thể thiếu để
phát triển thị trường đồng bộ.
Thứ ba: cần có chiến lược phát triển thị trường định hướng XHCN theo hướng hiện
đại, rút ngắn thời gian, nhanh chóng tạo lập các điều kiện để có một hệ thống thị trường
đồng bộ.
Quá trình đổi mới hơn 20 năm qua ở nước ta đã đặt nền móng cho sự hình thành và
phát triển một số loại thị trường. Tuy nhiên, các loại thị trường ở nước ta nhìn chung còn
sơ khai và chưa đồng bộ. Yêu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh và hội nhập kinh tế quốc tế
đặt ra đòi hỏi cấp bách phải nhanh chóng phát triển đồng bộ hệ thống thị trường. Đây cũng
là yếu tố then chốt để hình thành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2010, cơ bản hình thành thể chế kinh tế thị trường ở
nước ta, cần thiết phải xây dựng chiến lược phát triển thị trường theo hướng rút ngắn.
Trong điều kiện ngày nay, chúng ta không thể phát triển thị trường từng bước, tuần tự mất
hàng trăm năm mà phải có cơ chế, chính sách đi tắt, đón đầu, rút ngắn thời gian. ở đây,
Nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo lập các điều kiện để thúc đẩy sự
phát triển nhanh chóng của hệ thống thị trường.
Công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta đi từ đổi mới tư duy đến đổi mới chính sách với
các chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển theo cơ chế mới. Giai đoạn tiếp theo với
tiến trình CNH- HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế đang là thách thức đối với dân tộc ta. Giai
đoạn này cần phải triển khai chiến lược phát triển với cơ chế, chính sách pháp luật đồng bộ
minh bạch theo hướng đẩy nhanh tiến trình phát triển để đa đất nước ta đến năm 2020 cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiên đại. Muốn đạt được mục tiêu đó, cần
đẩy nhanh tiến trình hội nhập, phát triển thị trường mà vai trò của nhân dân, của người tiêu
dùng là động lực cho sự phát triển trước mắt và lâu dài. Tôn vinh kinh tế dân doanh,
khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, hướng các thành phần kinh tế vào xây
dựng và phát triển thị trường định hướng XHCN. Đó là mục tiêu trước mắt và lâu dài của
nước ta.
2.2. Quan điểm phát triển đồng bộ một số loại thị trường ở nước ta
Trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trờng
định hướng XHCN ở nớc ta, các loại thị trường đang từng bước được hình thành. Các loại
thị trường ở nước ta mới hình thành sơ khai còn nhiều yếu tố tiềm ẩn đan xen chủ quan,
khách quan. Thị trường chưa được hình thành một cách đồng bộ xét về tổng thể hệ thống
các loại thị trường cũng như các yếu tố trong từng loại thị trường.
V. I. L ê - n i n
13
13
ở nước ta một số loại thị trường như hàng hoá và dịch vụ thông thường như ăn uống,
khách sạn, du lịch, hàng tiêu dùng đã phát triển nhanh chóng và phát huy được hiệu quả
trong cơ chế thị trường. Trong khi đó, một số loại thị trường còn rất sơ khai hoặc cha hình
thành một cách đầy đủ và bị biến dạng. Có thị trường bị bóp méo, hoạt động “ngầm” mà
Nhà nước chưa kiểm soát được. Vì vậy, hiện nay việc xây dựng và phát triển đồng bộ hệ
thống thị trường ở nước ta đang song hành diễn ra 2 quá trình: một là, tạo lập các thị
trường cơ bản phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại và hai là, hình thành và phát
triển đồng bộ các yếu tố trong từng loại thị trường.
- Đồng bộ về thể loại
- Đồng bộ về trình độ phát triển
- Đồng bộ về môi trờng pháp lý
- Đồng bộ về mục đích và xu thế phát triển
Sự phát triển đồng bộ hệ thống thị trường ở nước ta hiện nay trong những năm tới tất
yếu phải bao hàm các nội dung trên. ở đây tập trung nhấn mạnh 2 yếu tố then chốt về sự
đồng bộ hệ thống thị trường ở nước ta hiện nay là:
* Một là, hình thành đồng bộ các loại thị trường phù hợp với thể chế kinh tế thị
trường hiện đại, bao gồm các loại thị trường cơ bản nh thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị
trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công
nghệ... Nhiều loại thị trường còn sơ khai, mới bắt đầu được hình thành. Vì vậy, việc tạo lập
một hệ thống thị trường đồng bộ bao gồm các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta bao gồm 3 yêu cầu sau:
- Đồng bộ về các điều kiện để xây dựng và phát triển hệ thống thị trường hoàn chỉnh.
Các điều kiện cơ bản đó là:
+ Xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý, thể chế kinh tế để thị trường hoạt
động trong một hành lang rõ ràng, minh bạch.
+ Đào tạo nguồn nhân lực để tổ chức, quản lý, vận hành thị trường
+ Thúc đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
+ Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực và hiệu quả của bộ máy Nhà nước trong việc tổ
chức, quản lý thị trường
- Đồng bộ về trình độ phát triển. Giữa các thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau trong một hệ thống thị trường thống nhất, hoàn chỉnh. Vì vậy, các loại thị trường phải
có sự tương thích về trình độ phát triển. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, sự đồng bộ về các loại
thị trường và đồng bộ về trình độ phát triển của các loại thị trường cần xét trong trạng thái
động. Nghĩa là không phải tất cả các loại thị trường đều nhất loạt hình thành và phát triển
với trình độ, quy mô và phạm vi nhau. Một thị trường nào đó có thể hình thành và phát
V. I. L ê - n i n
14
14
triển trước, tạo điều kiện cho các thị trường khác phát triển. ở nước ta hiện nay, thị trường
hàng hoá và dịch vụ cần được phát triển trước một bước, đặc biệt là khu vực nông thôn.
Thị trường hàng hoá và dịch vụ phát triển sẽ tạo nền tảng vật chất và thể chế để phát triển
thị trường tài chính và thị trường lao động. Trên cơ sở đó, thị trường bất động sản, khoa
học - công nghệ cũng sẽ từng bước hình thành một hệ thống thị trường đồng bộ.
Việc phát triển và hoàn thiện các loại thị trường để hình thành thể chế kinh tế thị trường
là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của nền kinh tế nước ta. Điều đó là phù hợp
với chủ trương mà Đại hội Đảng lần thứ IX đã đề ra.
* Hai là, xây dựng và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong từng loại thị
trường.
Một số loại thị trường ở nước ta mới bắt đầu hình thành, còn rất sơ khai là do thiếu
nhiều yếu tố thị trường. Như vậy, vấn đề cốt lõi ở đây là cần xác định rõ các yếu tố của
từng loại thị trường. Mức độ phát triển của từng loại thị trường là tuỳ thuộc vào tính đồng
bộ của các yếu tố trong thị trường đó. Để hình thành một thị trường mới, cần tạo điều kiện
cho các yếu tố của thị trường đó hình thành và từng bước đồng bộ.
Chẳng hạn, để phát triển thị trường lao động, trước hết phải coi sức lao động là hàng
hoá và được tự do trao đổi trên thị trường, các vấn đề về phía giá cả sức lao động, quan hệ
chủ- thợ, lao động làm thuê, vấn đề bóc lột hay không bóc lột... cần đợc xác định rõ. Trong
đó, giá cả sức lao động (tiền lương, tiền công) là do thị trường xác định.
Tương tự như vậy, các yếu tố của thị trường bất động sản cũng phải được tạo lập một
cách đồng bộ. ở nước ta, hình thành và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong khi
đó, đất đai - theo Hiến pháp năm 1992, lại thuộc sở hữu toàn dân và cha được chính thức
thừa nhận là hàng hoá. Tuy nhiên, trong thực tế, thị trường bất động sản đã hình thành. Do
chưa đợc chính thức thừa nhận là hàng hoá nên ở nước ta đã hình thành một thị trường “
ngầm” về bất động sản và thị trường này đã bị méo mó. Theo số liệu của Tổng cục Địa
chính, Nhà nước chỉ kiểm soát đợc 30% thị trường đất đai- bất động sản, còn 70% là mua
bán trao tay, thoả thuận trực tiếp giữa người mua và người bán và nằm ngoài tầm kiểm soát
của Nhà nước. Kết quả là Nhà nước không kiểm soát được sự hoạt động của thị trường
này.
Thị trường “ ngầm” này là nhân tố trực tiếp gây xáo trộn, rối loạn cho sự phát triển
bền vững kinh tế- xã hội, tạo nên những cơn “sốt” trong thị trường bất động sản làm thất
thoát nguồn thu của ngân sách Nhà nước, tạo môi truờng làm giàu phi pháp cho một số tổ
chức, cá nhân trong xã hội.
Muốn có một thị trường bất động sản phát triển lành mạnh thì trước hết các yếu tố
của thị trường này như đất đai chẳng hạn, phải là hàng hoá. Như vậy, ở đâu và lúc nào đất
V. I. L ê - n i n
15
15
đai chưa trở thành hàng hoá thì ở đó, lúc đó chưa có thể có thị trường bất động sản theo
đúng nghĩa của nó.
ở nước ta, theo hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai năm 2003 thì đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Do vậy, ở nước ta chưa chính thức thừa
nhận hoạt động mua bán đất đai. Rõ ràng là thị trường bất động sản ở nước ta chưa có một
cơ sở pháp lý và điều kiện cần thiết để hoạt động công khai, minh bạch. Như vậy, vấn đề
cơ bản là cần xác định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng về đất đai, coi đất đai cũng là
một loại hàng hoá được trao đổi trên thị trường.
Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, ở nước ta đã tồn tài nhiều quan hệ mua bán
(chuyển giao) công nghệ giữa cá nhân, tổ chức nghiên cứu với người sản xuất và doanh
nghiệp nhưng còn mang tính cục bộ, tự phát và trong phạm vi hẹp, không có cơ quan quản
lý thống nhất, cha hình thành mạng lưới giao dịch, liên kết giữa người mua và người bán.
Hiện vẫn còn thiếu một hệ thống pháp luật và hệ thống tổ chức quản lý để có thể hình
thành thị trường khoa học và công nghệ.
2.3. Một số giải pháp để tạo lập đồng bộ thị trường
Để xây dựng đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam cần thực hiện rất nhiều giải
pháp
Thứ nhất, xác lập quyền tự do tham gia thị trường của các chủ thể kinh tế và quyền
đó phải được pháp luật bảo hộ đủ mức cần thiết.
Để làm được điều này, về phía chủ thể cung, tạo môi trường, điều kiện cho tự do sản
xuất kinh doanh, từng bước đa dạng hoá sở hữu với sự tham gia của các thành phần kinh
tế. Bảo đảm tự do hành nghề theo quy định của pháp luật, tự do hoá lưu thông hàng hoá, tự
do hoá lãi suất có kiểm soát vĩ mô. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được
quyết định phương án kinh doanh đầu tư... thúc đẩy phát triển hàng hoá. Về phía chủ thể
cầu, phải đảm bảo thực sự quyền và lợi ích người mua, coi các chủ thể cầu ( người mua)
thực sự như một phía đối tác trong quan hệ thị trường.
Thứ hai, thể chế hoá chủ trương tạo lập đồng bộ thị trường thành các luật, chính
sách, Nghị định cụ thể. Luật hoá các quan hệ trên thị trường, nhất là các quan hệ giao dịch
kinh tế.
Đây là điều kiện quan trọng trong việc tạo sự ổn định, phát triển lâu dài cũng nhau
tạo niềm tin của các chủ thể tham gia thị trường trong một nền kinh tế thị trường hiện đại.
Giải pháp thể chế hoá trên thực chất là giải pháp tổng thể, cả gói, bao gồm rất nhiều giải
pháp nhỏ hơn. Hay nói một cách khác việc cụ thể hoá các chủ trương, đờng lối thành các
văn bản pháp quy để tạo điều kịên và khung khổ pháp lý cho các thị trường ra đời. Ví dụ,
thị trường giao dịch thương mại điện tử, thị trường bất động sản không thể trở thành công
V. I. L ê - n i n
16
16
khai nếu không có quy định pháp lý đảm bảo các quyền sử dụng đất, thị trường giao dịch
bán buôn nông sản không thể hoạt động bình thường nếu thiếu quy định về phương thức
giao dịch qua sàn...
Thứ ba, phối hợp chặt chẽ với việc hoạch định và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô.
Trên thực tế, khi thực hiện giải quyết phát triển thị trường bắt buộc phải lồng ghép,
đan xen với chính sách kinh tế vĩ mô. Ví dụ, phát triển thị trường vốn tất yếu đòi hỏi phải
có chính sách tiền tệ và chính sách tài chính hỗ trợ thực hiện, phát triển thị trường bất
động sản tất yếu đòi hỏi chính sách đất đai và chính sách phát triển các vùng...
Thứ tư, Nhà nước tập trung tác động vào các thị trường thông qua việc xác lập thể
chế và các biện pháp hỗ trợ.
Nhà nước kích thích gián tiếp, thông qua đó tác động đến cung- cầu trong mỗi loại
thị trường cũng nh toàn bộ hệ thống thị trường, trên cơ sở đó có những điều chỉnh thích
hợp tuỳ đặc điểm và trong từng thời kỳ khác nhau. Các chiến lược, quy hoạch tổng thể, các
chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế từng vùng, từng ngành, cũng như trong toàn bộ nền
kinh tế phải xuất phát từ thị trường, lấy thị trường làm tiêu chuẩn, thước đo thực thi chính
sách, tránh tình trạng quy hoạch chủ quan, duy ý chí gây thiệt hại to lớn đến nền kinh tế.
Thứ năm, từng bước minh bạch hoá thị trường, bắt buộc các bên tham gia các giao
dịch trên thị trường phải tôn trọng lẫn nhau, cạnh tranh bình đẳng. Đồng thời, Nhà nước
tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát để duy trì kỷ cương thị trường, loại bỏ những
chủ thể gây rối loạn thị trường.
Thứ sáu, đối với những vùng, miền thị trường chưa phát triển, cần có những biện
pháp hỗ trợ nhằm tạo lập thúc đẩy sự phát triển ở những nơi này.
Bằng nhiều biện pháp như xây dựng chợ, đường giao thông, xây dựng các trung tâm
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi... ở những trung tâm kinh tế- nơi thị trường
đã phát triển- cần đầu tư chiều sâu, tiếp tục hoàn thiện những yếu tố còn lại nhằm xây dựng
thị trường ở trình độ cao...Với các loại thị trường mới manh nha hình thành hoặc còn sơ
khai, Nhà nước tạo môi trường, điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy phát triển. Các thị
trường đã tương đối phát triển, một mặt cần tiếp tục hoàn thiện những yếu tố cần thiết, mặt
khác cần tạo sự liên kết, hỗ trợ, thúc đẩy nhau cùng phát triển và hỗ trợ các thị trường sơ
khai.
Thứ bảy, tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý và các
doanh nhân góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và hoàn thiện yếu tố chủ thể thị
trường.
V. I. L ê - n i n
17
17
Thứ tám, tổ chức lại bộ máy Nhà nước có chức năng tạo lập, hỗ trợ và quản lý thị
trường, thực hiện đúng và hiệu quả chức năng quản lý Nhà nước. Để tổ chức lại bộ máy
theo hướng này, một mặt cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ cho các cơ quan liên quan,
mặt khác, tích cực thực hiện cải cách hành chính, đặc biệt là lĩnh vực thủ tục, khắc phục
tình trạng quá nhiều văn bản thủ tục, thể chế và những mâu thuẫn trong các văn bản có liên
quan, hạn chế thẩm quyền ban hành thể chế ở một số cơ quan nhất định với sự phân cấp cụ
thể, xây dựng khung thể chế đầy đủ các bộ phận của nền kinh tế, khắc phục tình trạng có
bộ phận thể chế quá nhiều, bộ phận khác lại quá ít và sự mâu thuẫn giữa các bộ phận với
nhau.
Như vậy, trên đây là 8 giải pháp cơ bản trong quá trình xây đồng bộ các loại thị
trường, trong giai đoạn hiện nay, sẽ phải triển khai hàng loạt các biện pháp trong từng loại
thị trường cụ thể.
3. KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường là sự phát triển tất yếu của nước ta và trên thế giới. Việt Nam từ
nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình đổi mới tư duy, quan điểm, hệ thống chính sách và
luật pháp ở nước ta. Qua hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã, đang hình thành nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thị trường
quốc tế, một số loại thị trường cơ bản đã hình thành. Trong đó, các loại thị trường nh thị
trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa
học và công nghệ là những thị trường cơ bản nhất, là nền tảng của hệ thống thị trường ở
nước ta. Tuy nhiên, sự phát triển của một số loại thị trường ở nước ta mới chỉ bắt đầu, còn
sơ khai, các yếu tố chưa được tạo lập đồng bộ, trình độ phát triển của các loại thị trường
còn khác biệt quá lớn.Vì vậy, tạo lập và phát triển đồng bộ các loại thị trường là một yêu
cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phát triển
hệ thống thị trường đồng bộ không chỉ là mục tiêu mà còn là phương thức thúc đẩy tăng
truởng kinh tế-xã hội. Là bộ phận then chốt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, phát triển đồng bộ là cơ sở để tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, thu hút
đầu tư và các nguồn lực để đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá, tạo điều kiện gắn kết
các hoạt động kinh tế giữa các ngành, các vùng, giữa nông thôn và thành thi ,thúc đẩy hội
nhập kinh tế, quốc tế. Xây và phát triển đồng bộ thị trường trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ mới mẻ, vì vậy cần có quá trình thử nghiệm, có
V. I. L ê - n i n
18
18
tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời, để có thể tạo lập và phát triển một hệ thống thị trường
đồng bộ về mọi mặt và tiến kịp với sự phát triển của thị trường thế giới.
Đồng thời trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh đối với
âm mưu thủ đoạn tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch, những biểu hiện sai trái,
nhận thức không đúng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam,
xuyên tạc chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng,
luật pháp của nhà nước .