Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC - LÊNIN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TRONG TÁC PHẨM KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG THỜI ĐẠI CCVS - Ý NGHĨA ĐỐI VỚI NHẬN THỨC VỀ TKQĐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.62 KB, 21 trang )

V.I.LÊNIN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ TRONG TÁC PHẨM “KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG
THỜI ĐẠI CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN”. Ý NGHĨA
ĐỐI VỚI VIỆC NHẬN THỨC CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
* Tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”
của V.I. Lê-nin là một bài báo trình bày ngắn gọn những tư tưởng chủ yếu của
một cuốn sách ( Lênin bỏ dở không kịp viết) đăng trên báo Sự thật 7.11.1919,
nhân kỷ niệm 2 năm chính quyền Xô viết ra đời. Đặc điểm lịch sử nổi bật
nước Nga sau 2 năm ra đời và tồn tại của chính quyền Xô viết cũng là 2 năm
đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một trong những thời kỳ
nghiêm trọng nhất đối với nhà nước Xô viết. Nội chiến và chiến tranh can
thiệp của nước ngoài gay gắt (cuộc đấu tranh chống thù trong giặc ngoài
quyết liệt phức tạp). Nền kinh tế hoang tàn kiệt quệ. Lênin đã lãnh đạo Đảng
và nhà nước Xô viết lãnh đạo sự nghiệp phòng thủ đất nước, bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ chính quyền Xô viết, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, đồng thời quan tâm đến
việt tổng kết kịp thời những kinh nghiệm đầu tiên của quần chúng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
* Tác phẩm: " Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản"
gồm lời mở đầu và 5 phần.
- Lời mở đầu: Đây là tư tưởng chính yếu nhất của một cuốn sách đang
sơ thảo. Với một mục đích nho nhỏ: nêu vấn đề và đưa ra những nét chính để
các đồng chí cộng sản ở các nước thảo luận (tư tưởng chính của 2 chương
trong 4 chương chủ yếu của cuốn sách):
- Phần 1: Thời kỳ qúa độ và bản chất của nó.
- Phần 2: Kết cấu kinh tế- xã hội của thời kỳ quá độ và nhiệm vụ chủ
yếu của nhà nước chuyên chính vô sản.
- Phần 3: Tình hình sản xuất và phân phối lương thực: Những con số
nói lên đặc điểm kinh tế- giai cấp chủ yếu của nước Nga trong thời kỳ quá độ.



2

- Phần 4: Đấu tranh xoá bỏ sự khác biệt giai cấp và chính sách của nhà
nước chuyên chính vô sản.
- Phần 5: Kết cấu giai cấp- xã hội và nhiệm vụ cơ bản của chuyên chính
vô sản. Sự khác nhau giữa dân chủ nghĩa vô sản và chủ nghĩa tư sản. ý nghĩa
lịch sử của chuyên chính vô sản
* Tư tưởng cơ bản của tác phẩm:
- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn 2 năm đầu của chính quyền Xô viết.
Làm nổi bật thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của chuyên chính vô sản
- Đưa ra luận điểm về bản chất của thời ký quá độ, về cơ cấu kinh tếgiai cấp của thời kỳ quá độ
- Những nội dung mới, hình thức mới của đấu tranh giai cấp trong thời
kỳ quá độ. Những chính sách cụ thể của nhà nước chuyên chính vô sản trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Thông qua nghiên cứu, tác giả bóc tách nội dung chủ yếu của tác phẩm
xung quanh lý luận về thời kỳ quá độ, rút ra ý nghĩa phương pháp luận đối với
việc nhận thức chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ trong giai đoạn hiện nay.
NỘI DUNG
I. V.I.LÊNIN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN VỀ THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ TRONG TÁC PHẨM “KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ
TRONG THỜI ĐẠI CHUYÊN CHÍNH VÔ SẢN”
1. Bằng phương pháp tiếp cận biện chứng duy vật vận dụng vào
lĩnh vực xã hội, Lênin đã luận giải tính tất yếu, đặc trưng, những mâu
thuẫn và bản chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội
Trong lịch sử tư tưởng của triết học, trong nhiều tác phẩm “Phê phán
cương lĩnh Gô ta”, “Nội chiến ở Pháp”... Mác là người đầu tiên trình bày tư
tưởng về thời kỳ quá độ, tiên đoán những nét bản chất nhất của thời kỳ quá
độ, theo Mác: đây là thời kỳ phải trải qua nhiều cuộc đấu tranh lâu dài, trải


2

2


3

qua một loạt quá trình lịch sử là hoàn toàn biến đổi cả về hoàn cảnh và con
người (tư tưởngtrong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”).
Bằng quan điểm duy vật lịch sử, Lênin đã trung thành với những tư
tưởng của Mác về thời kỳ quá độ và phát triển những tư tưởng ấy trong một
giai đoạn mới của cách mạng, làm cho những vấn đề lý luận về thời kỳ quá độ
không chỉ là quá độ về chính trị, mà trước hết và chủ yếu là quá độ về kinh tế.
Lênin đã nghiên cứu toàn diện thời kỳ quá độ với tính cách là một thời kỳ lịch
sử mở đầu hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa. Những tư tưởng này được
trình bày cụ thể trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”. Trong tác phẩm
này, Lênin nghiên cứu thời kỳ quá độ trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Xô viết.
Về tính tất yếu của thời kỳ quá độ, Lênin viết: “Không thể nghi ngờ gì
được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản có một thời kỳ nhất
định”1, đây chính là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh
vực. Lênin đã phê phán một cách sâu sắc các tư tưởng cơ hội, phản động, xét
lại trong quốc tế 2: phủ nhận thời kỳ quá độ, mà bản chất là phủ nhận những
cơ sở kinh tế và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ: “Tuy nhiên, tất cả
những lập luận về bước chuyển sang chủ nghĩa xã hội mà chúng ta nghe thấy
ở cửa miệng những đại biểu hiện đại của phái dân chủ tiểu tư sản (tất cả
những đại biểu của Quốc tế II, kể cả những người như Mácđônan,
Giănglôngghê, Cauxky và Phriđrich Átlơ mặc dầu mang cái nhãn hiệu giả
danh xã hội chủ nghĩa nhưng cũng vẫn cứ là những đại biểu hiện đại của phái

dân chủ tiểu tư sản), đều tỏ ra là đã hoàn toàn quên mất chân lý hết sức hiển
nhiên đó”2. Lênin luận giải nguyên nhân sâu sa của sự từ bỏ lý luận về thời kỳ
quá độ đó là do “bản chất vốn chán ghét đấu tranh giai cấp” của phái dân chủ
tiểu tư sản, họ mơ tưởng rằng có thể không cần phải đấu tranh giai cấp “cố
gắng tìm cách xoa dịu, dàn hoà, làm cho cuộc đấu tranh bớt gay gắt. Cho nên
những người dân chủ này, hoặc là họ từ chối dứt khoát không thừa nhận cả
1 V.I.Lê nin. Toàn tập, tập 39. Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva. 1977. Tr.309.
2 Sđd. Tr.310.

3

3


4

một giai đoạn lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, hoặc
là họ cho rằng nhiệm vụ của họ là nghĩ ra những kế hoạch điều hoà hai lực
lượng chiến đấu, chứ không phải là lãnh đạo cuộc đấu tranh của một trong hai
lực lượng ấy”3.
Quá trình luận giải bản chất, cơ sở kinh tế, giai cấp, đấu tranh giai cấp,
Lênin khẳng định “Tính tất yếu của một thời đại lịch sử mang những đặc
điểm của một thời kỳ quá độ tự nó cũng đã là hiển nhiên rồi”4.
Về đặc trưng của thời kỳ quá độ: Dựa trên tính tất yếu của thời kỳ quá
độ, Lênin khẳng định đặc trưng bản chất của thời kỳ quá độ bao gồm hai kết
cấu kinh tế - xã hội: chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội “Thời kỳ đó không
thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của của cả hai kết cấu
kinh tế - xã hội ấy”.
Về những mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ: Đó là mâu thuẫn
giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô

sản. Những đặc trưng và những mâu thuẫn cơ bản quy định bản chất của thời
kỳ quá độ: “Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu
tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát
sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa
bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh những vẫn còn rất non
yếu”5. Cơ sở kinh tế xã hội của thời kỳ quá độ quy định bản chất của thời kỳ
này là giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư
bản.
2. Luận giải về bản chất của thời kỳ quá độ, phương pháp tiếp cận
của Lênin là đi từ cơ sở kinh tế của thời kỳ này, tư tưởng then chốt: Thời
kỳ quá độ bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau
Trước đây, trong tác phẩm: "Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản”,
Lênin đã phân tích và chỉ ra cơ sở kinh tế của thời kỳ quá độ bao gồm cả
3 Sđd. Tr.310.
4 Sđd. Tr.310.
5 Sđd. Tr.309.

4

4


5

những mảnh của chủ nghĩa tư bản lẫn những mảnh của chủ nghĩa xã hội. Đến
tác phẩm này, một lần nữa Lênin khẳng định: thời kỳ quá độ, bao gồm 2 kết
cấu kinh tế cơ bản: “Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm
hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy” 6, hai kết cấu kinh tế xã
hội đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đây là một đặc điểm cơ bản
và phổ biến của tất cả các nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ cơ sở phân tích

nền kinh tế nhiều thành phần trong điều kiện nước Nga, ở tác phẩm" Bệnh ấu
trĩ tả khuynh và tính tiểu tư sản”, Lênin chỉ ra ở nước Nga có 5 thành phần
kinh tế: thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế chủ nghĩa tư
bản nhà nước, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế sản xuất
hàng hoá nhỏ, thành phần kinh tế nông dân gia trưởng.
Trong tác phẩm này, Lênin tiếp tục phân tích nền kinh tế của thời kỳ quá
độ, vạch rõ 3 thành phần kinh tế cơ bản, nhất thiết phải có đối với tất cả các nước:
“Những hình thức cơ bản của nền kinh tế xã hội là chủ nghĩa tư bản, tiểu sản
xuất hàng hoá, chủ nghĩa cộng sản”7. Từ sự phân tích các thành phần kinh tế
cơ bản, Lênin khẳng định cuộc đấu tranh kinh tế trong thời kỳ quá độ chính là
cuộc đấu tranh của kinh tế xã hội chủ nghĩa với kinh tế phi xã hội chủ nghĩa:
“Nền kinh tế của Nga, ở thời đại chuyên chính vô sản, chỉ là cuộc đấu tranh
của những bước đầu của lao động liên hợp theo nguyên tắc cộng sản chủ
nghĩa - trong phạm vi một quốc gia rộng lớn - chống lại nền tiểu sản xuất
hàng hoá và chống lại chủ nghĩa tư bản đang còn được duy trì cũng như đang
được phục hồi trên cơ sở nền tiểu sản xuất”8.
3. Cùng với sự phân tích kết cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ, Lênin
đã phân tích kết cấu xã hội - giai cấp của thời kỳ quá độ và luận giải tính tất
yếu, nhiệm vụ của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
Về kết cấu giai cấp: Những hình thức cơ bản của nền kinh tế quy định
những giai cấp của xã hội Nga. Tương ứng với các thành phần kinh tế là 3 lực
6 Sđd. Tr.309.
7 Sđd. Tr.310.
8 Sđd. Tr.311.

5

5



6

lượng cơ bản: giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản (nhất là nông dân), giai cấp vô sản
.
Các giai cấp tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu lịch sử, nhưng
quan hệ của các giai cấp đã thay đổi, Lênin viết: “Trong thời đại chuyên
chính vô sản, các giai cấp vẫn tồn tại, nhưng bộ mặt của mỗi một giai cấp đều
thay đổi, quan hệ qua lại giữa các giai cấp cũng biến đổi”9.
Giai cấp tư sản: “Giai cấp của bọn bóc lột, tức là giai cấp của bọn địa
chủ và tư bản đã không biến mất và không thể nào biến mất ngay lập tức dưới
thời chuyên chính vô sản. Bọn bóc lột đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu
diệt”10. Nguyên nhân làm cho giai cấp của bọn bóc lột, tức là địa chủ, tư bản
không biến mất “Chúng vẫn còn có một cơ sở quốc tế, tức là bọn tư bản quốc
tế, mà chúng là một chi nhánh, chúng vẫn còn có một phần tư liệu sản xuất,
vẫn còn có tiền, vẫn còn có những mối liên hệ hết sức rộng rãi”11.
Giai cấp vô sản từ địa vị nô lệ bước lên vũ đài chính trị nắm chính
quyền “Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản là một giai cấp bị áp
bức, một giai cấp bị tước đoạt mất một quyền sở hữu tư liệu sản xuất, là giai
cấp duy nhất trực tiếp và hoàn toàn đối lập với giai cấp tư sản và do đó, là giai
cấp duy nhất có khả năng làm cách mạng đến cùng. Sau khi đã lật đổ giai cấp
tư sản và giành được chính quyền, giai cấp vô sản đã trở thành giai cấp thống
trị, nó nắm chính quyền nhà nước, nó sử dụng những tư liệu sản xuất đã được
xã hội hoá, nó lãnh đạo các phần tử và các giai cấp dao động, trung gian, nó
trấn áp sức phản kháng ngày càng tăng của bọn bóc lột” 12, “Giai cấp vô sản không phải giai cấp vô sản nói chung, không phải giai cấp abstracto, mà là
giai cấp vô sản ở thế kỷ XX sau chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Sự phân liệt
với bọn lớp trên là không tránh khỏi”13.

9 Sđd. Tr.318.
10Sđd. Tr.319.
11 Sđd. Tr.319.

12 Sđd. Tr.319.
13 Sđd. Tr.517.

6

6


7

Đối với giai cấp nông dân, Lênin đã phân tích sâu sắc sự tồn tại và phát
triển, sự phân hoá của giai cấp nông dân trong thời kỳ quá độ. “Nông dân,
cũng như mọi giai cấp tiểu tư sản nói chung, vẫn giữ một địa vị đứng giữa,
một địa vị trung gian”14. Về tính hai mặt của nông dân: “Một mặt họ là một số
quần chúng lao động khá đông đảo (vô cùng đông đảo trong nước Nga chậm
tiến) đoàn kết với nhau vì lợi ích chung của những người lao động là giải
thoát khỏi bọn địa chủ và tư bản” 15; “Mặt khác, họ là những tiểu chủ riêng lẻ,
tiểu tư hữu và tiểu thương. Địa vị kinh tế như thế tất nhiên sẽ làm cho họ dao
động, ngả nghiêng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”16.
Từ cơ cấu xã hội - giai cấp, Lênin đã luận giải tính tất yếu đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ quá độ.
Lênin viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt dưới thời chuyên
chính vô sản, nó chỉ diễn biến ra dưới những hình thức khác mà thôi” 17. Tính
tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân
cụ thể. Trước hết, do chủ nghĩa tư bản tăng cường chống phá về mọi mặt:
“Chính vì chúng đã thất bại nên sự phản kháng của chúng ngày càng tăng lên,
gấp trăm, gấp ngàn lần. ““Nghệ thuật” quản lý nhà nước, quân đội, kinh tế tạo
cho chúng một ưu thế sâu và rất lớn, khiến cho tác dụng của chúng vô cùng to
lớn hơn”18. “Sở dĩ giai cấp tư sản toàn thế giới đã lồng lộn lên và điên cuồng
chống chủ nghĩa Bôn sê vích, tổ chức những cuộc xâm lược quân sự, những âm

mưu ... để chống lại những người Bôn sê vích, chính là vì chúng thừa hiểu rằng
chúng ta nhất định sẽ thắng lợi trong cải tạo nền kinh tế xã hội, trừ phi chúng ta
sẽ bị lực lượng quân sự đè bẹp. Song, chúng đã không đè bẹp được chung ta
bởi phương pháp đó”19. Còn đối với giai cấp vô sản “nó trấn áp sức phản kháng
ngày càng tăng của bọn bóc lột”20, “Muốn xoá bỏ giai cấp trước hết cần phải
đánh đổ bọn địa chủ và bọn tư bản. Phần nhiệm vụ đó, chúng ta đã hoàn thành
14 Sđd. Tr.319.
15 Sđd. Tr.319, 320.
16 Sđd. Tr.320.
17 Sđd. Tr.318.
18 Sđd. Tr.319.
19 Sđd. Tr.313.
20 Sđd. Tr.319.

7

7


8

rồi, nhưng đây mới chỉ là một phần, và hơn nữa cũng không phải là phần khó
khăn nhất”21. Vì vậy “Chủ nghĩa xã hội chính là sự xoá bỏ giai cấp”.
Về nhiệm vụ của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, Lênin
khẳng định giai cấp vô sản không chỉ dùng công cụ là chính quyền mà còn
phải dùng ngay chính những tư liệu sản xuất để tiến hành cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản, đồng thời giai cấp công nhân phải lãnh đạo các phần tử
dao động, trung gian để tiến hành đấu tranh giai cấp: “Sau khi đã lật đổ giai
cấp tư sản, giai cấp vô sản đã trở thành giai cấp thống trị: nó nắm chính quyền
nhà nước, nó sử dụng những tư liệu sản xuất đã được xã hội hoá, nó lãnh đạo

các phần tử và các giai cấp dao động, trung gian, nó trấn áp sự phản kháng
ngày càng tăng của bọn bóc lột. Tất cả những cái đó là nhiệm vụ đặc biệt của
đấu tranh giai cấp, những nhiệm vụ mà trước kia giai cấp vô sản không đề ra
và không thể nào đề ra được”22.
Do đó, cuộc đấu tranh giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản trở nên vô cùng
ác liệt (nói đến cách mạng phải hiểu điều đó, nếu không hiểu... chỉ là ảo tưởng cải
lương). Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ với hình thức
mới. Một hình thức biểu hiện là đấu tranh chống bọn buôn lâụ, đầu cơ lương thực.
Tác động lãnh đạo giai cấp tiểu tư sản cũng là một hình thức đấu tranh đặc biệt.
4. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, chuyên
chính vô sản là tiếp tục cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn mới;
chuyên chính vô sản sẽ trở nên vô ích khi không còn các giai cấp, chuyên
chính vô sản là đặc thù trong thời kỳ quá độ
Trong tác phẩm “Bàn về chuyên chính vô sản” được viết vào tháng 9,
tháng 10 năm 1919, Lênin đã đề cập một số vấn đề liên quan đến chuyên
chính vô sản. Lênin khẳng định “Chuyên chính vô sản là sự tiếp tục cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản dưới những hình thức mới. Đó là điểm then
chốt, mà người ta đã không hiểu được”, “Trong điều kiện chuyên chính vô
sản, những hình thức đấu tranh của giai cấp vô sản không thể giống như trước
21 Sđd. Tr.315.
22 Sđd. Tr.319

8

8


9

được. Năm nhiệm vụ mới (chủ yếu nhất) và respective 5 hình thức mới” 23:

trấn áp sự kháng cự của bọn bóc lột, nội chiến, “trung lập hoá” giai cấp tiểu tư
sản. sử dụng giai cấp tư sản, bồi dưỡng tinh thần kỷ luật mới.
Trong tác phẩm này, Lênin tiếp tục đề cập đến một số nội dung của
chuyên chính vô sản. Về nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, Lênin khẳng
định: Muốn xoá bỏ giai cấp, trước hết cần phải đánh đổ bọn địa chủ và bọn tư
bản. Phần nhiệm vụ đó, chúng ta đã hoàn thành rồi, nhưng đấy mới chỉ là một
phần, và hơn nữa cũng không phải là phần khó khăn nhất; tiếp theo phải xoá
bỏ sự khác nhau giữa công nhân và nông dân. Những nhiệm vụ đó chỉ có thể
hoàn thành thông qua việc cải tạo toàn bộ kinh tế xã hội, chuyển từ nền kinh
tế hàng hoá nhỏ, cá nhân, riêng lẻ sang nền kinh tế tập thể rộng lớn.Vì vậy,
cần phải thực hiện chuyên chính vô sản để làm tốt các chức năng chủ yếu.
Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng: đánh đổ tư bản không có nghĩa là
chúng ta phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản, mà cần phải kế thừa những
thành tựu của xã hội đó, phải sử dụng những chuyên gia tư sản: “Chuyên gia”.
Không những phải trấn áp sự kháng cự của họ, không những phải “trung lập
hoá” họ mà còn phải thu nạp họ làm việc, bắt họ phải phục vụ cho giai cấp vô
sản”24. Theo tư tưởng của Lênin thì: không có sự chỉ đạo của các chuyên gia
am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì chúng ta không
thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước
tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao
hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở những kết quả mà chủ
nghĩa tư bản đã đạt được. Đề cập đến cơ sở khách quan quy định tính lịch sử
của chuyên chính vô sản cần phải xuất phát từ sự tồn tại các giai cấp: “Vì các
giai cấp vẫn tồn tại và sẽ tồn tại trong suốt thời đại chuyên chính vô sản.
Chuyên chính sẽ trở nên vô ích, khi các giai cấp không còn nữa. Các giai cấp
sẽ không biến mất, nếu không có chuyên chính vô sản”25.

23 Sđd. Tr.298.
24 Sđd. Tr.300.
25 Sđd. Tr.318.


9

9


10

Một đặc trưng khác của chuyên chính vô sản: Chuyên chính vô sản là
sự xóa bỏ nền dân chủ tư sản và thiết lập nền dân chủ vô sản. Lênin vạch trần
thực chất của dân chủ tư sản: dân chủ chung chung, hình thức, dân chủ cho
giai cấp bóc lột; quan niệm có thể kinh qua con đường dân chủ nói chung để
tiến tới chủ nghĩa xã hội - đó là những quan niệm "trừu tượng về dân chủ",
lừa bịp che dấu bản chất giai cấp tư sản. Lênin vạch trần bản chất giai cấp của
dân chủ tư sản về: bình đẳng, tự do chính trị, quan điểm theo đa số, bằng cách
biểu quyết (thực chất quyết định bằng tiền bạc, tư bản, tư hữu) - lừa bịp người
lao động bằng cái bình đẳng hình thức trong khi vẫn giữ nguyên gông, ách,
chế độ tư hữu, đó chính là thực chất dân chủ tư sản. Để phân biệt các nền dân
chủ, cần phải trả lời các câu hỏi: “tự do thoát khỏi sự áp bức của giai cấp nào?
bình đẳng của giai cấp nào với giai cấp nào? dân chủ trên cơ sở quyền tư hữu
hay trên cơ sở cuộc đấu tranh để thủ tiêu quyền tư hữu” 26. Do đó, giai cấp vô
sản muốn thực hiện dân chủ vô sản thì phải quyết định bằng đấu tranh giai
cấp, phải xoá bỏ tư bản, xoá bỏ bóc lột và những điều kiện thực tế của dân
chủ tư sản chung chung, hình thức.
Để thực hiện chuyên chính vô sản và đảm bảo thắng lợi cho cuộc đấu
tranh giai cấp, cần phải liên minh công nông. Liên minh công nông là động
lực để thực hiện chuyên chính vô sản. Trong cách mạng vô sản, cả hai giai
cấp vô sản và nông dân đã được giải phóng khỏi quan hệ tư hữu, giải phóng
khỏi ách áp bức bóc lột. Đó là một bước tiến chưa từng có trong lịch sử .
Chuyên chính vô sản đã đem lại lợi ích cho giai cấp nông dân. Họ được chia

ruộng đất, được cải thiện về đời sống vật chất, được tự do thật sự . Từ trước
đến nay, họ đều có kẻ thù chung với giai cấp vô sản (bọn tư bản, địa chủ, con
buôn, đầu cơ...) họ có cùng nguyện vọng chống áp bức bóc lột. Liên minh
công nông là tất yếu, đây là liên minh của hai giai cấp lao động có cùng lợi
ích chung, có cùng kẻ thù chung. Liên minh công nông là tiếp tục đấu tranh
giai cấp trong thời kỳ quá độ.

26 Sđd. Tr.321.

10

10


11

Lênin khẳng định người nông dân lao động “một người có đủ tư cách là
đồng chí của người công nhân xã hội chủ nghĩa, người bạn đồng minh chắc
chắn nhất và người anh em ruột thịt của công nhân xã hội chủ nghĩa trong
cuộc đấu tranh chống ách tư bản” 27, và “Hàng bao thế kỷ người nông dân lao
động đã nuôi dưỡng cho mình chí căm thù và lòng oán ghét đối với những kẻ
áp bức bóc lột đó, và “sự nuôi dưỡng” do đời sống thực tế đem lại ấy buộc
nông dân phải tìm cách liên minh với công nhân chống lại bọn tư bản, bọn
đầu cơ, bọn con buôn”28.
Tuy nhiên, trong thực hiện liên minh công nông, giai cấp công nhân
cần phải nhận thức đầy đủ tính chất hai mặt của giai cấp nông dân. Cần phải
chú ý phân biệt các tầng lớp của giai cấp nông dân “Giai cấp vô sản phải phân
biệt và phân định rõ ranh giới giữa người nông dân lao động với người nông
dân tư hữu, giữa người nông dân lao động với người nông dân con buôn, giữa
người nông dân cần lao với người nông dân đầu cơ....” 29. Cần phải phân định

sự hai mặt của giai cấp nông dân, vì đối với giai cấp nông dân, trong cuộc đấu
tranh giai cấp thì “trong số những người đó, có những kẻ nhảy từ bên này
sang bên kia, những kẻ dao động, đổi chiều chuyển hướng, lưỡng lự ...”30.
Trên đây là một số nội dung chủ yếu về thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh
tế – xã hội, giai cấp , đấu tranh giai cấp và về chuyên chính vô sản trong tác
phẩm “Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản” của Lê nin. Tác
phẩm đã trang bị cho giai cấp vô sản, nhân dân thế giới nói chung, Đảng Bôn
sê vích và nhân dân Nga Xô viết nói riêng phương pháp luận nhận thức tình
hình thực tiễn đấu tranh những năm đầu của thời kỳ quá độ, những vấn đề
nóng hổi, cấp bách cần giải quyết. Trên cơ sở đó để đề ra đường lối chính
sách trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát triển lý luận
chủ nghĩa Mác về thời kỳ quá độ, giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ, đồng thời đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa cơ
27 Sđd. Tr.317.
28 Sđd. Tr.317.
29 Sđd. Tr.517.
30 Sđd. Tr.320.

11

11


12

hội, xét lại. Ngày nay, tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị đối với các nước xã
hội chủ nghĩa, nhất là các vấn đề lý luận và thực tiễn về tính tất yếu, đặc
trưng, bản chất; về cơ cấu kinh tế - xã hội, giai cấp; đấu tranh giai cấp và xây
dựng nền chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ...
II. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆC NHẬN THỨC CHỦ NGHĨA XÃ

HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Từ nghiên cứu nội dung tác phẩm, chúng ta nhận thức sâu sắc
hơn về sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trong những
thập niên cuối của thế kỷ XX, trên cơ sở đó khẳng định: lý luận về chủ
nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ sẽ vẫn là nền tảng tư tưởng cho Đảng
cộng sản và giai cấp công nhân thế giới
Bằng phương pháp biện chứng duy vật, cần khẳng định: biện chứng
lôgíc mà lịch sử cho thấy, không bao giờ có sự trùng khít giữa lý luận và hiện
thực. Lịch sử CNXH hiện thực cả thành tựu và sai lầm, thắng lợi và khủng
hoảng, đứng vững và sụp đổ đã chứng minh tính đúng đắn, giá trị bền vững
của nội dung tác phẩm “Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”.
Thực tiễn lịch sử gần 100 năm qua, kể từ khi tác phẩm “Kinh tế chính trị
trong thời đại chuyên chính vô sản” ra đời đã chỉ ra rằng: ở đâu, lúc nào các
Đảng cộng sản, những người cộng sản nhận thức, vận dụng sáng tạo, phù hợp
lý luận về thời kỳ quá độ thì ở đó sẽ thu được những thắng lợi to lớn về xây
dựng và phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ, về giải quyết cơ sở kinh tế xã
hội giai cấp, về đấu tranh giai cấp và về chuyên chính vô sản. Trái lại, ở đâu
những người cộng sản hiểu, vận dụng sai, hoặc chủ quan, nóng vội, giáo điều,
xét lại thì cách mạng gặp khó khăn, trắc trở, chịu tổn thất, thậm chí thất bại.
Trong tác phẩm, Lênin đã cảnh báo những người cộng sản “Bước quá độ này
tất nhiên là rất dài. Dùng những biện pháp lập pháp hay hành chính hấp tấp và
không thận trọng thì chỉ làm cho bước quá độ kéo dài thêm và chỉ thêm khó
khăn cho nó mà thôi”31. Sự chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn của những
người cộng sản trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX ở Đông Âu và Liên
31 Sđd. Tr.316.

12

12



13

chính là một trong những nguyên nhân làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực
trên phạm vi toàn thế giới sụp đổ.
Tuy vậy, sự thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên xô,
Đông Âu đòi hỏi những người cộng sản phải quay trở về với chủ nghĩa duy
vật lịch sử: trong lịch sử nhân loại không có một chế độ xã hội nào ra đời
suôn sẻ, không trải qua thăng trầm, chòng chành, giành đi, giật lại giữa lực
lượng cách mạng và phản cách mạng, giữa tiến bộ và lạc hậu. Lịch sử phát
triển không phải là con đường thẳng, tiến lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua
một giai đoạn dài, đó chính là thời kỳ quá độ gay go, phức tạp. Ngay chủ
nghĩa tư bản xuất hiện trong lòng xã hội phong kiến ngay từ thế kỉ XIV nhưng
phải trải qua gần 300 năm sau nó mới đi tới thắng lợi triệt để, vững chắc, hoàn
chỉnh. Chủ nghĩa tư bản đã vậy, chủ nghĩa xã hội còn khó khăn, phức tạp hơn
nhiều. Vì chủ nghĩa xã hội khác về chất so với các xã hội trước đây, nó cao
hơn chủ nghĩa tư bản về mọi phương diện. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội, thời kỳ
quá độ không thể nhận thức một lần, không thể làm một lần là xong. Lí luận
về cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, về thời kỳ quá độ nói riêng phải
không ngừng được bổ xung hoàn chỉnh, tổng kết từ trong thành công và sai
lầm thất bại.
Bản chất lý luận Mác - Lênin nói chung và về thời kỳ quá độ nói riêng
là cách mạng và sáng tạo. Từ thực tiễn luôn vận động và biến đổi không
ngừng, lý luận về thời kỳ quá độ được nuôi sống và cần phải được không
ngừng phát triển, đi đến những khái quát mới, ngày càng phong phú hơn, có
thể đi đến cả sự phủ định những kết luận cũ nếu những kết luận đó không còn
phù hợp với thực tiễn mới. Chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, nóng vội; lề thói
kinh viện, sự sơ cứng trong tư duy lý luận là trái với bản chất cách mạng và
sáng tạo của lý luận Mác - Lênin, làm cho nó cùn mòn và khô héo đi.
2. Cùng với quá trình nhận thức sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã

hội, nhận thức lại lý luận về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, chúng ta

13

13


14

phải kiên quyết chống lại sự công kích của hệ thống lý luận khoa học giả
hiệu, mưu toan bóp méo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc, là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh ác liệt giữa cái
mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Biện chứng trong sự phát triển cho
phép nhận thức vấn đề này một cách khoa học. Những sai lầm từ sự dập
khuôn, máy móc mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu vào việc
xây dựng thời kỳ quá độ ở các nước xã hội chủ nghĩa đòi hỏi những người
cộng sản phải nhìn nhận lại và vận dụng đúng hơn lý luận Mác xít về thời kỳ
quá độ chứ không phải là từ bỏ nó để đi theo con đường phản khoa học mà
các lý luận gia đang rêu rao thông qua hệ thống lý luận khoa học giả hiệu, để
rồi vô tình hay cố ý, những người cộng sản lại cùng chung “chiến hào” với
những kẻ cơ hội, thực dụng.
Bằng sự bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, bằng những quan điểm
khoa học và cách mạng, trong hàng loạt tác phẩm mà “Kinh tế chính trị trong
thời đại chuyên chính vô sản” là một ví dụ, Lênin cùng với Đảng Bôn sê vích
và nhân dân Nga đã đạt được những thành tựu to lớn, những thành tựu đó đã
trở thành “kỳ tích” trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng của
Lênin đã tạo ra những tầm nhìn mới cho Đảng Cộng sản và nhân dân các
nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Và cũng chính nhận thức lại những quan
điểm này, bằng sự nghiệp cải tổ, cải cách, đổi mới của mình, Trung Quốc và

Việt Nam đã, đang đạt được những thành tựu hết sức quan trọng về việc phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về việc thực hiện
những mục tiêu kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ. Những thành tựu này
càng khẳng định: Giá trị bền vững của học thuyết Mác - Lênin nói chung, lý
luận về thời kỳ quá độ nói riêng vẫn luôn luôn sống động trong thực tiễn.
Điều này bác bỏ hoàn toàn những quan điểm sai trái, giả hiệu của các trào lưu
tư tưởng phản động hiện nay. Với phương pháp kiên trì, khoa học, sáng tạo và
cách mạng, Lênin đã nêu một tấm gương sáng về việc kiên quyết đấu tranh

14

14


15

chống lại những quan điểm, tư tưởng cơ hội, thực dụng, xét lại của quốc tế II
và các trào lưu phản động thời kỳ bấy giờ.
3. Những nội dung được Lênin trình bày trong tác phẩm “Kinh tế
chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản” là cơ sở phương pháp luận
để chúng ta nhận thức hệ thống các quan điểm, đường lối của Đảng ta
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Lênin khẳng định trong tác phẩm: “...có thể là đối với một bài báo nhỏ,
thì làm như vậy cũng sẽ đạt được mục đích nho nhỏ là: nêu vấn đề và đưa ra
những nét chính để cho các đồng chí cộng sản ở các nước thảo luận” 32. Nhưng
bài báo đó, mặc dù dung lượng số trang viết ít, nhưng nội dung lại đặc biệt có
giá trị đối với Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo dân tộc tiến hành xây dựng
thời kỳ quá độ.
Được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh,
nước ta đã đạt được nhiều thành tựu hết sức quan trọng trong thời kỳ quá độ.

Tuy nhiên, lịch sử xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta cũng trải qua nhiều
bước thắng trầm. Sau thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta đã
mắc phải một số sai lầm, chủ quan, nóng vội trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
có thời kỳ chúng ta đã quan niệm là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên
chủ nghĩa xã hội, chậm chuyển đổi nền kinh tế từ giai đoạn thời chiến sang
giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những sai lầm chủ quan đó đã làm cho
nước ta rơi vào giai đoạn khủng hoảng toàn diện, trầm trọng trong những năm
bảy mươi, tám mươi của thế kỷ XX.
Nhận thức được những sai lầm đó, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tư
duy, cơ sở của sự đổi mới tư duy ấy là nhận thức lại triết học Mác xít, trong
đó có những nội dung chúng ta quay lại với những kinh điển gốc và Tư tưởng
Hồ Chí Minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ cần phải được
nhận thức bằng những quan điểm, hệ thống lý luận của Lênin trong thời kỳ
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên xô. Và như vậy, những nội dung trong tác
32Sđd. Tr.309

15

15


16

phẩm “Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản” càng có ý nghĩa
đặc biệt đối với Đảng ta trong việc hoạch định đường lối chiến lược, sách
lược của Đảng trong lãnh đạo cách mạng ở thời kỳ quá độ.
Bắt đầu từ sự nghiệp đổi mới đất nước năm 1986, đến Đại hội IX và Đại
hội X, nhận thức của Đảng về thời kỳ quá độ ngày càng rõ dần và những vấn
đề: tính tất yếu, bản chất của thời kỳ quá độ, về cơ sở kinh tế - xã hội, giai cấp,
về đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ được thể

hiện ngày càng cụ thể hơn. Bằng cách khảo sát thông qua hệ thống văn kiện
của Đảng, chúng ta sẽ rút ra được những nội dung xoay quanh vến đề này.
Về tính tất yếu, đặc trưng của thời kỳ quá độ: Báo cáo chính trị Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: hiện nay chúng ta đang ở trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc đề cập
như vậy là sự đánh giá đúng thực trạng tình hình xây dựng chủ nghĩa xã hội
của nước ta, đánh giá đúng trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta.
Để thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, chúng ta phải tập trung sức
phát triển lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần
kinh tế, huy động mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, không nên lấy mục tiêu xa để áp đặt, bắt thực tiễn phải
khuôn theo khi chưa có điều kiện.
Báo cáo chính trị Đại hội IX đã chỉ rõ “Con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta là sự phát triển quá độ chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế dộ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là
về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại”33. Đồng thời phải từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ
sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chống tư tưởng duy lực
lượng sản xuất, chủ nghĩa kỹ trị.
33 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG. Hà Nội. 2001.
Tr.84.

16

16


17


Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến
đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp khó khăn, phức
tạp, có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ
nghĩa xã hội và cái không phải là chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình
thức trung gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Về mô hình kinh tế tổng quát: Từ Đại hội VI đến Đại hội X của Đảng,
lý luận về mô hình kinh tế tổng quát của Đảng ta đã không ngừng được bổ
sung và hoàn thiện. Từ chủ trương cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế,
khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc
doanh giữ vai trò chỉ đạo (giai đoạn Đại hội VI), đến những năm qua, trong
văn kiện Đại hội IX: phát triển “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” là một sự phát triển dài về lý luận. Sự phát triển đó đã chứng tỏ chúng
ta ngày càng bám sát hơn tư tưởng của Lênin về nền kinh tế nhiều thành phần
trong tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”. Ở
Trung Quốc, cũng phải đến Đại hội Đảng lần thứ XIV (1992) mới nêu vấn đề
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Nội hàm của khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” thực chất vẫn là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhưng được diễn đạt gọn hơn, nói rõ được mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đây là bước phát triển mới trong
nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Nói kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao
cấp, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu bao cấp, nhưng đó cũng không phải
là kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải kinh tế
thị trường theo kiểu tư bản chủ nghĩa, và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế xã
hội chủ nghĩa, bởi vì như trên đã nói, chúng ta còn đang trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới,

vừa có vừa chưa có đầy đủ yếu tó xã hội chủ nghĩa.
17

17


18

Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Dự thảo văn kiện Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định nước ta có 3 chế độ sở hữu:
sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân; thể hiện dưới 4 hình thức cơ
bản: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp.
Tương ứng với 4 hình thức sở hữu cơ bản trên, nền kinh tế của nước ta có 4
thành phần kinh tế cơ bản là: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân và kinh tế hỗn hợp. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh
tế tập thể có vị trí ngày càng lớn trong nền kinh tế; kinh tế tư nhân có vai trò
rất quan trọng, là một động lực cho sự tăng trưởng nhanh và hiệu quả của nền
kinh tế, góp phần tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. Kinh tế hỗn hợp mà đặc
trưng là sở hữu cổ phần sẽ phát triển mạnh và ngày càng trở thành phổ biến
trong nền kinh tế.
Việc phân định các loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế là rất cần
thiết để làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế nói
chung, cho việc phát triển từng thành phần kinh tế nói riêng, khẳng định như
vậy không phải là để phân biệt đối xử mà là để có chính sách đúng đắn, giải
phóng mọi lực lượng sản xuất, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển phù hợp với
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về đấu tranh giai cấp và động lực để phát triển đất nước: Mặc dù,
trong những năm gần đây, chúng ta ít nói đến đấu tranh giai cấp, song xuyên
suốt trong các quan điểm, tư tưởng, đường lối, chiến lược, sách lược, phương
hướng cơ bản phát triển đất nước vẫn luôn bao hàm nội dung đấu tranh giai

cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đảng
ta thừa nhận hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ của nước ta vẫn còn tồn tại
một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Không thể xoá nhoà
ranh giới giữa các giai cấp, không thể phủ nhận đấu tranh giai cấp, cũng không
nên hiểu đấu tranh giai cấp là điều hoà lợi ích giữa các giai cấp. Cùng với
những biến đổi của kinh tế xã hội, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của
các giai cấp trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, nó khác thời kỳ cách mạng
dân tộc dân chủ, hay những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền.
18

18


19

Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối
quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác đấu
lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong
mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Cuộc đấu tranh giai cấp,
đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền
với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc
lột, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển. Đại hội IX của Đảng chỉ rõ “Nội dung chủ yếu của đáu tranh giai cấp
trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình
trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức,
bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tuởng, hành động tiêu
cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại âm mưu và hành động chống phá của

các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc”34
Về vấn đề xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản, xây dựng nền
chuyên chính vô sản được biểu hiện tập trung nhất trong việc xây dựng Nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Với những tư tưởng chỉ đạo của các Nghị
quyết Đại hội và Nghị quyết Trung ương, trong 20 năm đổi mới vừa qua, tuy
còn có những mặt yếu kém, nhưng nền chuyên chính vô sản, nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nước ta tiếp tục được xây dựng và không ngừng
hoàn thiện. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy và
ngày càng được mở rộng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, bất cứ
nhà nước nào cũng là nền chuyên chính của giai cấp thống trị, cũng thực hiện
các chức năng của nhà nước. Nhà nước ta cũng vậy, mang bản chất giai cấp
công nhân nhưng đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân
dân; nhà nước thực hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Từng
34 Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd. Tr. 86.

19

19


20

bước đi trong thời kỳ quá độ, chúng ta không ngừng xây dựng và hoàn thiện
nền chuyên chính vô sản, nhà nước chuyên chính vô sản để ngày càng phát
huy hơn nữa vai trò của nhà nước trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội...
Về vấn đề liên minh giai cấp, Báo cáo chính trị của Đảng khẳng định
“Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nhân và nông dân với trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp
hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và

nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” 35. Hai mặt đó không
mâu thuẫn nhau, trái lại, thống nhất biện chứng với nhau, rất tinh tế. Đảng ta
luôn coi việc giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân là truyền thống quý
báu của dân tộc, là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to
lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng này thấm sâu vào tất cả các văn
kiện và cũng là chủ đề của Đại hội IX, X của Đảng.
Có thể khẳng định rằng, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng
thời kỳ quá độ ở nước ta tuy còn có những yếu kém, khuyết điểm, nhưng
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đặc biệt quan trọng, những thành tựu
này gắn liền với lý luận của Mác, Ăng ghen, Lênin và những tư tưởng của Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ. Những thành tựu ấy là tài
sản vô giá, như đồng chí Giôdécadanêva, trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng
sản Bồ Đào Nha tại diễn đàn Đại hội IX của Đảng ta đã phát biểu: “Những
thành tựu trong việc cụ thể hoá một con đường thích hợp quá độ lên chủ
nghĩa xã hội không chỉ là tài sản vô giá của những người cộng sản Việt Nam,
mà còn là nguồn cảm hứng và tư tưởng đối với những người cộng sản và
cách mạng trên toàn thế giới”36.
KẾT LUẬN
Từ tất cả những điều trình bày ở trên, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định
rằng, những tư tưởng về thời kỳ quá độ mà Lênin đề cập trong tác phẩm
35 Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd. Tr. 86.
36 Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Tài liệu tham khảo phục vụ Nghị quyết ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX
của Đảng. NXB CTQG. Hà Nội. 2001. Tr 10,11.

20

20


21


“Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản” không chỉ có ý nghĩa
lịch sử to lớn mà trong thời đại đầy những biến động như hiện nay. Những nội
dung lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trong
tác phẩm này vẫn mãi giữ được vị trí xứng đáng mà nó đã giành được trong
lịch sử triết học nhân loại đồng thời là cơ sở lý luận to lớn để Đảng cộng sản
và phong trào công nhân các nước xã hội chủ nghĩa còn lại vận dụng tiến
hành thành công công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.

21

21



×