Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

BỘ CÂU HỎI NGÂN HÀNG 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (681.34 KB, 141 trang )

BỘ CÂU HỎI NGÂN HÀNG

Câu 1. Ngân hàng Nhà nước có quyền góp vốn mua cổ phần của tổ chức tín dụng
không?
Ngân hàng Nhà nước chỉ được quyền góp vồn mua cổ phần của tổ chức tín dụng
được kiểm soát đặc biệt (trừ tổ chức tín dụng do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ).
Kiểm soát đặc biệt là việc tổ chức tín dụng được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp
của Ngân hàng Nhà nước do có nguy cơ mất khả năng chi trả hoặc mất khả năng thanh
toán do quản lí, điều hành yếu kém.
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 quy định tại Khoản 12 Điều 4 với rất
nhiều biện pháp xử lí dành cho Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng vi phạm
nghiêm trọng quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; có nguy cơ ảnh hưởng đến
sự an toàn của hệ thống tài chính, trong đó có biện pháp “mua cổ phần của tổ chức tín
dụng”. Cũng theo quy định tại Điều 149 của luật này thì Ngân hàng Nhà nước có quyền
góp vốn mua cổ phần đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt nếu như tổ chức
tín dụng đó không thực hiện được các yêu cầu sau: “Ngân hàng Nhà nước có quyền yêu
cầu chủ sở hữu tăng vốn, xây dựng, thực hiện kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp
nhập, hợp nhất, mua lại đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, nếu chủ sở hữu
không có khả năng hoặc không thực hiện việc tăng vốn.” Khoản 2 Điều 149. Hoặc khi
Ngân hàng Nhà nước xác định số lỗ lũy kế của tổ chức tín dụng đã vượt quá giá trị thực
của vốn điều lệ và các quỹ của tổ chức tín dụng được kiển soát đặc biệt được ghi trong
báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất và việc chấm dứt hoạt động của tổ chức tín
dụng sẽ có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống tổ chức tín dụng theo Khoản 3 Điều
149.
Ngày 01 tháng 08 năm 2013 Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định
số 48/2013/QĐ-TTg về việc góp vốn mua cổ phần bắt buộc của tổ chức tín dụng được
kiểm soát đặc biệt. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ trực tiếp hoặc chỉ định tổ chức tín
dụng khác góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt theo các
quy định giống với quy định trong Luật các tổ chức tín dụng.
Căn cứ theo các quy định nêu trên thì chúng ta có thể thấy, Ngân hàng Nhà nước có
quyền góp vốn mua cổ phần của tổ chức tín dụng và việc góp vốn mua cổ phần của tổ


chức tín dụng chỉ khi nào tổ chức tín dụng đó lâm vào tình trạng pháp lý mà phải đặt dưới
sự kiểm soát đặt biệt của Ngân hàng Nhà nước, còn trong trương hợp khác thì Ngân hàng
Nhà nước không có quyền góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng. Vì việc góp vốn
mua cổ phần của Ngân hàng Nhà nước chỉ nhằm mục đích là đảm bảo an toàn cho hệ
thống tổ chức tín dụng mà về lâu dài là nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính của
đất nước.
Câu 2: Phân tích cơ chế vay vốn từ NHNN của TCTD.
Theo điều 99 luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định “NH thương mại được
vay vốn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn theo quy định của Luật NHNNVN”.
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có đảm bảo của NHNN nhằm cung ứng vốn ngắn
hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng bao


gồm các hoạt động: chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá, cho vay có đảm bảo
bằng các chứng từ có giá.
Hoạt động tín dụng của NHNN cho vay, theo hình thức này, thì NHNN cho các TCTD là
ngân hàng vay ngắn hạn, vay ngắn hạn theo hình thức tái cấp vốn của NHNN tại điều 11
Luật NHNN 2010.
“2. NHNN quy định và thực hiện việc tái cấp vốn cho TCTD theo các hình thức sau đây:
a)
Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá;
b)
Chiết khấu giấy tờ có giá;
c)
Các hình thức tái cấp vốn khác.”
Ngoài ra TCTD là ngân hàng trong trường hợp đặc biệt tạm thời mất khả năng thanh toán
có nguy cơ mất an toàn cho hệ thống các TCTD thì NHNN sẽ đứng ra cho vay.
Tái cấp vốn hình thành trên cơ chế NHNN cho các TCTD là ngân hàng vay trên cơ sở bù
đắp thiếu hụt trong thanh toán để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các TCTD để cung ứng
vốn cho khách hàng, tạo ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm soát của NHNN.

Khi nhu cầu của khách hàng cần vốn lên cao trong khi các TCTD thiếu tiền (với vai trò là
chủ thể duy nhất được quyền phát hành tiền và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia
NHNN không kinh doanh tiện tệ, không trực tiếp giao dịch với khách hàng mà phải thông
qua ngân hàng trung gian là các TCTD) thì TCTD là ngân hàng sẽ gửi yêu cầu lên
NHNN để vay, NHNN dựa vào hồ sơ tín dụng để cho TCTD vay.
NHNN cung ứng tiền cho TCTD khi dựa vào tình hình thực tế của đất nước. Nếu như
tình hình đất nước lạm phát lên cao thì NHNN sẽ điều chỉnh tăng lãi suất vay ngắn hạn
nhằm mục đích hạn chế lượng tiền lưu thông trên thị trường, đảm bảo có thể rút vốn về
khi cần thiết tạo tính linh hoạt để các ngân hàng huy động vốn thêm từ bên ngoài, nhanh
chóng thu nguồn vốn về để đảm bảo ổn định tỉ giá của kinh tế thị trường. Ngược lại, nếu
tình hình đất nước giảm lạm phát thì NHNN sẽ tiến hành giảm lãi suất vay ngắn hạn
nhằm mục đích phân bổ hợp lý số tiền lưu thông trên thị trường, kích thích kích cầu, nâng
cao tỷ giá, kích thích sử dụng tiền,… Như vậy, TCTD là ngân hàng có vai trò quan trọng
trong việc hoạch định các chính sách của NHNN.
Câu 3 : Phân tích địa vị pháp lý của Ngân hàng
1. Khái quát Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương
của nước CHXHCN Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; đồng thời, đây còn là ngân hàng phát hành
tiền, ngân hàng cuả các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Hoạt động ngân hàng nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tếxã hội theo định hướng XHCN. Ngân hàng nhà nước là một pháp nhân, có vốn pháp định
thuộc sở hữu nhà nước và có trụ sở chính tại thủ đô Hà nội ( Điều 1 Luật Ngân hàng nhà
nước Việt Nam 1997 (sửa đổi, bổ sung 2003).

Vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước VN là cơ quan của Chính phủ và là Ngân
hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam.

Đặc điểm:
- NHNNVN Cơ quan quản lý nhà nước. NHNNVN là cơ quan ngang bộ, trực thuộc

Chính Phủ, Thống đốc NHNNVN mang hàm Bộ trưởng. NHNNVN được tổ chức và hoạt


động theo những qui định tại các văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động
của Chính phủ. Qui trình bổ nhiệm, miễn nhiệm Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt
Nam theo các qui định pháp luật hiện hành trong Luật Tổ chức Quốc Hội và Luật tổ chức
Chính Phủ.
- NHNNVN quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Với tư cách
là cơ quan quản lý nhà nước, NHNNVN sử dụng các phương thức và công cụ quản lý
khi thực thi nhiệm vụ của mình,
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam là Ngân hàng trung ương. Đây là điểm khác biệt giữa
NHNNVN với các Bộ khác trong Chính Phủ. Ngân hàng nhà nước Việt Nam còn là một
Ngân hàng. Ngân hàng này thực hiện một số hoạt động ngân hàng đặc biệt, bao gồm:
hoạt động độc quyền phát hành tiền; cung ứng các dịch vụ tài chính, tiền tệ cho Chính
phủ và cho các tổ chức tín dụng.
- NHNNVN là một pháp nhân.
+ NHNNVN thuộc sở hữu nhà nước, do nhà nước thành lập.
+ NHNNVN có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Hệ thống ngân hàng được tổ chức theo mô hình
2 cấp.
+ NHNNVN có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, được nhà nước giao vốn, tài sản
để hoạt động. Diều 43 LNH quy định : vốn pháp định của NHNN do ngân sách nhà nước
cấp. mức vốn pháp định của ngân hàng do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Ngoài vốn
pháp định, NHNN còn được nhà nước giao các loại tài sản khác và được lập quỹ từ chênh
lệch thu chi nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
+ NHNN nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật.
2. Chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam:
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hai chức năng cơ bản
- Chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Chức năng là một Ngân hàng trung ương.
2.1. Chức năng quản lý nhà nước:

- Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Vì
hoạt động của ngân hàng NN có tác động mạnh mẽ đối với sự ổn định và phát triển của
nền kinh tế và đời sống xã hội.
- Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để trình Chính phủ.
(Điều 3 và điều 5 Luật ngân hàng).
+ cp xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia mức làm phát dự kiến hàng năm trình
quốc hội quyết định tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định lượng tiền
cung ứng bổ sung cho lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kì báo
cáo UBTVQH, quyết định các chính sách cụ thể khác và giải pháp thực hiện.
+ NHNN là cơ quan quản lý nhà nước chuyên nghành trực tiếp xấy dựng dự án chính
sách tiền tệ quốc gia để cp xem xét trình quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính
sách này.
- Xây dựng các dự án luật , pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng. Ban hành các văn bản qui phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng theo
thẩm quyền.
- Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động cho các tổ chức tín dụng (trừ trường hợp
do Thủ tướng Chính phủ quyết định); cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các
tổ chức khác. Quyết định giải thể, chia tách, hợp nhất các tổ chức tín dụng .
- Kiểm tra thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng, xử lý các vi phạm trong


lĩnh vực ngân hàng, tiền tệ, và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền.
- quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của chính phủ.
- chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế.
- Quản lý hoạt động ngoại hối và hoạt động kinh doanh vàng.
- Ký kết và tham gia các điều ước quốc tế về hoạt động ngân hàng và tiền tệ.
- Đại diện cho nhà nước CHXHCNVN tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong
trường hợp được Chủ tịch nước, Quốc hội ủy quyền.
-Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học công
nghệ ngân hàng.

2.2. Chức năng là một Ngân hàng trung ương.
- Tổ chức in đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay
thế và tiêu hủy tiền. . Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tiền giấy và tiền kim loại.
- Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho
nền kinh tế. Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của NHNN nhằm cung ứng
vốn ngắn hạn và các phương tiện thanh toán cho các ngân hàng. Tín dụng tái cấp vốn
được thực hiện dưới 3 hình thức:
+Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng;
+Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác;
+Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
- Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở.
- Kiểm soát dự trữ quốc tế; quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước.
- Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thnah toán, quản lý việc cung
ứng các phương tiện thanh toán.
- Làm đại lý và thực hiện các dịch vụ ngân hàng cho kho bạc nhà nước.
- Tổ chức hệ thống thông tin và làm các dịch vụ thông tin ngân hàng.
Câu 4: Phân tích chức năng của ngân hàng nhà nước?
Câu 5: Phát hành tiền là gì? Thẩm quyền phát hành tiền của NHNN?
Phát hành tiền là việc NHNN đưa thêm một lượng tiền vào lưu thông. Đây là nghiệp
vụ “nợ” của ngân hàng. Giữa chức năng phát hành tiền và hoạt động của ngân hàng này
có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi ngân hàng TW thấy cần vốn để thực hiện hoạt
động ngân hàng nhằm mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, ngân hàng TW có
thể phát hành tiền (nếu ngân hàng TW thuộc Chính phủ thì phải trong khuôn khổ mức
lượng tiền cung ứng hàng năm do Chính phủ phê duyệt). Do vậy, ngân hàng TW không
bao giờ bị phá sản và thẩm quyền phát hành tiền được coi như là một đặc quyền của ngân
hàng này.
Thẩm quyền phát hành tiền của NHNN?
Thẩm quyền phát hành tiền; thiết kế, in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành tiền vào
lưu thông, tiêu huỷ tiền; Xử lý tiền rách nát, hư hỏng; Thu hồi, thay thế tiền; phát hành

tiền mẫu, tiền lưu niệm của Ngân hàng Nhà nước được quy định cụ thể tại các Điều 17


đến Điều 20 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam như sau:
Điều 17. Phát hành tiền giấy, tiền kim loại
1. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, tiền kim loại của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán
hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Ngân hàng Nhà nước bảo đảm cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền giấy, tiền kim loại
cho nền kinh tế.
4. Tiền giấy, tiền kim loại phát hành vào lưu thông là tài sản "Nợ" đối với nền kinh tế và
được cân đối bằng tài sản "Có" của Ngân hàng Nhà nước.
Điều 18. Thiết kế, in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành tiền vào lưu thông, tiêu
huỷ tiền
1. Ngân hàng Nhà nước thiết kế mệnh giá, kích thước, trọng lượng, hình vẽ, hoa văn và
các đặc điểm khác của tiền trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2. Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc in, đúc, bảo quản, vận chuyển, phát hành
tiền vào lưu thông, tiêu huỷ tiền.
Điều 19. Xử lý tiền rách nát, hư hỏng
Ngân hàng Nhà nước quy định tiêu chuẩn phân loại tiền rách nát, hư hỏng; đổi, thu hồi
các loại tiền rách nát, hư hỏng do quá trình lưu thông; không đổi những đồng tiền rách
nát, hư hỏng do hành vi huỷ hoại.
Điều 20. Thu hồi, thay thế tiền
Ngân hàng Nhà nước thu hồi và rút khỏi lưu thông các loại tiền không còn thích hợp và
phát hành các loại tiền khác thay thế. Các loại tiền thu hồi được đổi lấy các loại tiền khác
với giá trị tương đương trong thời hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định. Sau thời hạn
thu hồi, các loại tiền thuộc diện thu hồi không còn giá trị lưu hành.
Điều 21. Tiền mẫu, tiền lưu niệm
Ngân hàng Nhà nước tổ chức thực hiện việc thiết kế, in, đúc, bán ở trong nước và nước

ngoài các loại tiền mẫu, tiền lưu niệm phục vụ cho mục đích sưu tập hoặc mục đích khác
theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
Câu 6: Phân biệt hoạt động của NHTW và tổ chức tín dụng
I, Hoạt động của NHTW
Dù NHTW thuộc mô hình tổ chức nào thì hoạt động của chúng đều có điểm giống nhau
về mục đích và nội hàm, bao gồm quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng và hoạt
động nhằm ổn định giá trị đồng nội tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và tăng
trưởng kinh tế, được thể hiện thông qua hoạt động: phát hành tiền; xây dựng và thực thi
CSTTQG; xây dựng và ban hành pháp luật theo thẩm quyền; cấp phép, thanh tra, giám
sát ngân hàng; hoạt động tín dụng, thanh toán và ngân quỹ; hoạt động ngoại hối và quản
lý ngoại hối; cung cấp thông tin và truyền thông. Các hoạt động trên đều có vai trò quan
trọng quyết định tới sự ổn định và an toàn của hệ thống ngân hàng trong một quốc gia.


Mức độ độc lập trong hoạt động của NHTW được xác định tùy thuộc vào mô hình tổ
chức của NHTW và trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở mỗi quốc gia.
Mức độ độc lập của NHTW trên thế giới được phân thành 4 cấp độ:
1Độc lập, tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động
2Độc lập, tự chủ trong xác lập chỉ tiêu hoạt động
3Độc lập, tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành
4Độc lập tự chủ hạn chế
Theo cấp độ thứ nhất thì NHTW có quyền quyết định CSTTQG, chế độ tỷ giá, mục tiêu
hoạt động. Đây là cấp độ tự chủ cao nhất mà NHTW có thể đạt được nhưng cũng khó
thực hiện nhất vì đòi hỏi NHTW phải có uy tín cao và năng lực thực thi tốt, có khả năng
dự báo chuẩn trên cơ sở các thống kê kinh tế – tài chính. Điển hình cho cấp độ này là
FED.
Trên thực tế, FED với quyền hạn mở rộng trong quyết định và thực thi CSTTQG đã áp
dụng một loạt các công cụ rất hữu hiệu để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ sau
khủng hoảng năm 2007. FED đã nới lỏng CSTTQG trong tháng 9/2007, sử dụng công cụ
lãi suất theo hướng cắt giảm 0,5% lãi suất cơ bản và hạ lãi suất chiết khấu, sau đó, vào

đầu năm 2008 mức lãi suất cơ bản lại giảm xuống 3,25%. Đến đầu tháng 12/2008, lãi
suất cơ bản chỉ còn ở mức 0-0,25% – mức thấp nhất trong lịch sử và vẫn đang được áp
dụng hiện nay. Ngoài ra, FED còn thực hiện hoạt động tín dụng cho các ngân hàng và thể
hiện vai trò là người cho vay cuối cùng cho hệ thống ngân hàng thông qua hạ thấp chênh
lệch giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay qua đêm (từ 1% xuống 0,25%), tăng kỳ
hạn cho vay qua cửa sổ chiết khấu lên 90 ngày, thành lập chương trình đấu giá kỳ hạn,
đấu giá tín dụng với kỳ hạn lên đến ba tháng cho các tổ chức nhận tiền gửi; xây dựng
chương trình cho vay chứng khoán kỳ hạn, cho phép các đại lý chứng khoán lớn vay trái
phiếu kho bạc từ FED bằng tài sản thế chấp kém thanh khoản. Có thể nói, FED đã sử
dụng rất “nhịp nhàng” các công cụ thị trường mở, lãi suất, tái cấp vốn, công cụ chiết khấu
để ổn định hệ thống ngân hàng, duy trì niềm tin của công chúng.
Ở cấp độ thứ hai, NHTW cũng được giao trách nhiệm quyết định CSTTQG, chế độ tỷ
giá, nhưng NHTW không được xác định mục tiêu hoạt động, mà Quốc hội sẽ quyết định
mục tiêu thông qua việc ban hành đạo luật cụ thể, trong đó có quy định về vấn đề này.
Sau đó, NHTW có quyền quyết định chỉ tiêu hoạt động cho mục tiêu đã được xác định và
quyết định việc sử dụng các công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Điển hình
cho cấp độ này là NHTW Nga và NHTW Châu Âu. Ví dụ, Điều 3 Luật NHTW của Liên
bang Nga quy định: “Mục tiêu của NHTW Nga là bảo đảm và bảo vệ sự ổn định của
đồng Rúp, phát triển và củng cố hệ thống ngân hàng của Liên bang Nga, bảo đảm sự ổn
định và phát triển của hệ thống thanh toán quốc gia. Lợi nhuận không phải là mục tiêu
hoạt động của NHTW Nga”. Hoặc, trong Điều lệ và tổ chức và hoạt động của NHTW
châu Âu có nêu: Mục tiêu hàng đầu của ngân hàng này là “duy trì sự ổn định giá cả”.
Ngân hàng châu Âu có quyền quyết định chỉ tiêu hoạt động.
Cấp độ độc lập thứ ba trao quyền cho Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu
CSTTQG sau khi thỏa thuận với NHTW. Sau khi quyết định được thông qua, NHTW có


trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể
toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTTQG một cách thích hợp. Điển hình
cho cấp độ độc lập này là Ngân hàng Dự trữ New Zealand.

Cấp độ độc lập thứ tư là cấp độ độc lập, tự chủ thấp nhất, theo đó Chính phủ quyết định
cả về mục tiêu và chỉ tiêu hoạt động và can thiệp mạnh vào quá trình sử dụng các công cụ
để thực thi CSTT quốc gia. Điển hình cho cấp độ này là NHTW ở Việt Nam trước khi
ban hành Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 2010 (Luật NHNN Việt Nam)
Thực tế cho thấy, dù thuộc cấp độ nào và mô hình nào đi chăng nữa thì NHTW trên thế
giới hiện nay đều có độ độc lập nhất định, tuy nhiên mức độ là không giống nhau, thể
hiện cụ thể ở ba lĩnh vực: hoạch định và thực thi CSTTQG; giám sát các tổ chức tín
dụng; quản trị, điều hành nội bộ.
II, Hoạt động của các tổ chức tín dụng
1. Hoạt động tín dụng bao gồm : hoạt động huy động vốn và hoạt động cấp tín dụng
a, Họat động huy động vốn.
Huy động vốn là một trong những nghiệp vụ kinh doanh quan trọng của các tổ chức tín
dụng thông qua các hình thức nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi chờ thanh toán của chủ tài
khoản, phát hành các giấy tờ có giá, vay vốn của các tổ chức tín dụng thông qua thị
trường liên ngân hàng, vay vốn cuả Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Huy động vốn bằng nhận tiền gửi:
Tiền gửi là số tiền khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi
hoặc không hưởng lãi và phải hoàn trả cho người gửi tiền. Loại hình tổ chức tín dụng là
ngân hàng sẽ được nhận tất cả các loại tiền gửi. Loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng
thông thường chỉ được phép nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên.
- Huy động vốn bằng cách phát hành các giấy tờ có giá:
Các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường
tiền tệ dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng thư tiền gửi, trong đó tổ chức tín dụng
cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.
Các loại giấy tờ có giá thông dụng mà ngân hàng các quốc gia thường hay sử dụng:Tín
phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu, hối phiếu tài chính, và các chứng thư tiền gửi khác. Các giấy
tờ có giá có thể vô danh, đích danh, theo lệnh.
-Huy động vốn bằng cách vay vốn giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường nội tệ liên
ngân hàng.

Trong quá trình hoạt động của mình các tổ chức tín dụng có lúc gặp khó khăn tạm thời
về vốn để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán cho khách hàng, hoặc khách hàng rút tiền
mặt các Tổ chức tín dụng có thể vay nóng lẫn nhau. Các khoản vay này là các khoản vay
ngắn hạn.
- Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam :


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng dưới hình thức tái cấp
vốn cho các TCTD là ngân hàng thương mại. Mục đích tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam: thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và trong một số trường hợp nhằm
phục hồi khả năng thanh tóan cho các ngân hàng thương mại.
b, Hoạt động cấp tín dụng.
Theo qui định, cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng
một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho
thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, bao thanh toán và các nghiệp vụ khác.
- Cho vay là một hình thức cấp tín dụng cho khách hàng của Tổ chức tín dụng thông qua
hình thức pháp lý là hợp đồng tín dụng.
- Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá là hình thức cấp tín dụng thông qua việc
mua thương phiếu các giấy tờ có giá này của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh
toán.
- Cho thuê tài chính là hình thức cấp tín dụng thông qua hoạt động thuê mua tài chính
giữa bên cho thuê tài chính là các tổ chức tín dụng (hoặc công ty cho thuê tài chính trực
thuộc tổ chức tín dụng là ngân hàng) với bên thuê là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử
dụng tài sản cố định. Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở
hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là TCTD với khách hàng thuê.
- Bảo lãnh ngân hàng: là hình thức cấp tín dụng trên cơ sở tổ chức tín dụng đứng ra bảo
lãnh cho bên được bảo lãnh theo quy định pháp luật về bảo lãnh ngân hàng. Đây là hình
thức cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên
nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo
lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết

với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền
đã được trả thay.
- Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng đối với những chủ thể có tài khoản tại tổ chức
tín dụng và có nhu cầu được tổ chức tín dụng bảo lãnh thanh toán trong các giao dịch
thương mại. Khi thực hiện bao thanh toán, ngân hàng sẽ phải chịu toàn bộ rủi ro khi bên
mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán khoản phải thu. Chỉ có
quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bên bán hàng trong trường hợp bên mua hàng từ
chối thanh toán khoản phải thu do bên bán giao hàng không đúng như thỏa thuận hoặc vì
một lý do khác không liên quan đến khả năng thanh toán của bên bán hàng.
2. Hoạt động cung ứng các dịch vụ thanh toàn, ngân quỹ
Cung cấp cho khách hàng các dịch vụ thanh toán là nghiệp vụ chỉ riêng của Tổ chức tín
dụng là ngân hàng. Tổ chức tín dụng là ngân hàng có quyền mở tài khoản tiền gửi (dùng
để thanh toán) cho khách hàng trong và ngoài nước để thực hiện các dịch vụ thanh toán.
Trên cơ sờ tài khoản của khách hàng được mở tại tổ chức tín dụng, ngân hàng tiến hành
các dịch vụ thanh toán bao gồm:
– Cung ứng các phương tiện thanh toán cho khách hàng (thẻ tín dụng, séc, ngân phiếu…)
– Tham gia hệ thống thanh toán trong nước, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước
cho khách hàng (chuyển khoản, thanh toán séc…)


– Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế và thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế khi
được Ngân hàng nhà nước cho phép (thư tín dụng…)
– Thực hiện các dịch vụ thu hộ chi hộ
– Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ
– Tổ chức tín dụng là ngân hàng có quyền thực hiện các hoạt động ngân quỹ bao gồm
những hoạt động liên quan đến thu, phát tiền mặt cho khách hàng.
Câu 7: Dự trữ bắt buộc là gì? Phân tích nội dung pháp luật về dự trữ bắt buộc?
1, khái niệm:
Dự trữ bắt buộc (DTBB) hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung
ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân

thủ để đảm bảo tính thanh khoản.
Số tiền dự trữ bắt buộc được gửi tại ngân hàng trung ương, không hưởng lãi, không được
dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số
tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán và đảm bảo sự ổn định của hệ
thống ngân hàng.
Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhưng không
được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng thương mại
phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt
buộc.
Trước đây, dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng
(TCTD) trước nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng và do đó hạn chế rủi ro thanh khoản
cho cả hệ thống. Tuy nhiên, theo thời gian ý nghĩa này giảm dần vì cho dù TCTD có duy
trì một mức dự trữ bắt buộc lớn bao nhiêu thì khi rủi ro thanh khoản xảy ra, mức dự trữ
này cũng không thể giúp TCTD chống đỡ được nguy cơ phá sản; Mặt khác, TCTD cũng
không thể duy trì một mức dự trữ bắt buộc quá lớn vì đặc điểm của dự trữ bắt buộc là ko
sinh lời, dự trữ bắt buộc càng cao thì lợi nhuận của TCTD càng giảm, điều này đi ngược
lại mục tiêu hoạt động vì lợi nhuận của TCTD. Bên cạnh đó, sự phát triển của công nghệ
ngân hàng luôn cho phép các TCTD có thể sử dụng đa dạng các hình thức bảo hiểm rủi ro
mà không cần phụ thuộc quá nhiều vào dự trữ tiền mặt. Chính vì vậy hiện nay các nước
thường duy trì một tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp.
Đây là một trong những công cụ của ngân hàng trung ương nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
2, Tác động của dự trữ bắt buộc:
- Dự trữ bắt buộc và tiềm năng tín dụng của các ngân hàng: Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay
đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng của mỗi ngân hàng. Với tổng số
nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng thấp thì phần chênh lệch còn
lại.
- vốn khả dụng của bản thân ngân hàng này càng cao, khả năng cho vay ra của ngân hàng
càng lớn và ngược lại. Bên cạnh đó, mỗi động tác cấp tín dụng cho một đối tượng nào
đó thông qua chuyển khoản của ngân hàng - hoạt động này mở ra một nguồn vốn mới cho

một ngân hàng kế tiếp, sự tiếp tục của quá trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ


thống ngân hàng làm cho tổng nguồn có thể cho vay của toàn hệ thống được nhân lên
nhiều lần so với số tiền gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là hệ số nhân tiền. Qua
đó cho thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của hệ
thống ngân hàng. Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng tín dụng, còn
thực sự nó có làm cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không lại phụ thuộc vào thái độ
sẵn sàng cấp tín dụng của các ngân hàng và nhu cầu tín dụng của nền kinh tế
- Dự trữ bắt buộc và lãi suất
Dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng hai cách:
Thứ nhất, do dự trữ bắt buộc có thể mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng cho nên lãi
suất thị trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên.
Thứ hai, khi dự trữ bắt buộc tăng lên thì lãi thu được từ hoạt động cho vay giảm xuống
làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng thương mại (NHTM). Điều này được các ngân
hàng khắc phục bằng cách điều chỉnh tăng lãi suất cho vay trên thị trường tín dụng.
- Dự trữ bắt buộc và khối lượng tiền cung ứng
Khối lượng tiền cung ứng thay đổi là kết quả tất yếu của việc thay đổi tiềm năng tín
dụng, thay đổi lãi suất trên thị trường, nó cũng là mục tiêu cuối cùng mà ngân hàng trung
ương (NHTƯ) muốn đạt được khi điều chỉnh dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ
được nâng lên nếu NHTƯ thực hiện việc thắt chặt tiền tệ, hướng đến mục tiêu kiểm
soát lạm phát và ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất, tạo thêm công ăn, việc làm cho người lao động thì NHTƯ sẽ hạ tỷ lệ dự trữ bắt
buộc.
1.3 Qui định pháp luật về dự trữ bắt buộc:
Những căn cứ cụ thể sau thường được sử dụng để đưa ra yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
- Tính chất kỳ hạn của mỗi loại tiền gửi - tùy vào tính chất kỳ hạn của tiền gửi mà nghĩa
vụ dự trữ bắt buộc khác nhau; thông thường kỳ hạn càng dài thì mức độ ổn định càng cao
và độ rủi ro thanh khoản càng thấp và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với loại tiền gửi
này thường thấp hơn so với loại tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn.

- Mức độ của các khoản nợ - quy mô của các nguồn tiền gửi. Thông thường quy mô của
các nguồn tiền gửi càng cao thì khả năng rủi ro càng cao và vì thế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
sẽ tỷ lệ thuận với quy mô nguồn tiền gửi.
- Loại tiền gửi khác nhau cũng chứa đựng khả năng an toàn thanh khoản khác
nhau nên NHTƯ có thể quy định tỷ lệ khác nhau cho tiền gửi của các đồng tiền khác
nhau .
Ở nước ta, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được phân chia tùy theo tính chất kỳ hạn, loại tiền
gửi và thông thường, loại tiền gửi kỳ hạn ngắn, tiền gửi bằng ngoại tệ phải duy trì một
tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hơn. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giữa
các ngân hàng cũng được quan tâm. Theo quy định tại Quyết định số 379/QĐ NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp
dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ) thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy định như sau:
Để khuyến khích một số NHTM cho vay nông nghiệp và nông thôn ngày 08/12/2010,
NHNN đã ban hành các thông báo số 457; 458; 459; 460; 461 về việc áp dụng tỷ lệ dự


trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng có tỷ trọng cho vay nông nghiệp và nông thôn
cao theo Thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010 của NHNN. Theo đó, Quỹ tín
dụng nhân dân Trung ương được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/20 so với tỷ lệ dự
trữ bắt buộc thông thường; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam,
NHTM cổ phần Quốc Tế Việt Nam, NHTM cổ phần Kiên Long, NHTM cổ phần Mê
Kông được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/5 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông
thường. Với quy định này NHNN đã bổ sung thêm một cơ sở mới cho việc xác định
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn tùy thuộc vào đối tượng đầu tư
của các NHTM.
Ở nước ta, để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng nhằm kiểm soát lạm phát, tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh khá mạnh vào năm 2007 (từ 5% lên 10%) và năm
2008 - khi tình hình dần bình ổn trở lại, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều giảm dần một
cách linh hoạt. Tuy nhiên, gần như suốt năm 2009 và 2010, kể cả những tháng đầu năm
2011 - lạm phát không còn là nỗi lo mà là thực tế đang phải đối mặt thì tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với VND vẫn không thay đổi.

Câu 8: So sánh luật Ngân hàng và các ngành luật khác
- Luật ngân hàng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động ngân hàng, các quan hệ về tổ
chức hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
+ Đối tượng điều chỉnh của Luật ngân hàng là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình nhà nước thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động ngân hàng trong
nền kinh tế.
Các quan hệ tổ chức và kinh doanh ngân hàng là các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động kinh doanh ngân hàng của các tổ chức tín dụng và
hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
+ Phương pháp điều chỉnh của Luật ngân hàng là phương pháp tác động bình đẳng, thỏa
thuận.
- Luật tài chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tập hợp
các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dựng các quỹ tiền tệ của các chủ thể thực
hiện hoạt động phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.
+ Đối tượng điều chỉnh của Luật tài chính là những quan hệ phát sinh gắn liền với việc
hình thành và quản lý, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ nhất định như: quỹ ngân sách nhà
nước, quỹ của doanh nghiệp, quỹ của doanh nghiệp bảo hiểm được biểu hiện dưới hình
thái tiền tệ.
+ Luật tài chính sử dụng hai phương pháp điều chỉnh là:
Phương pháp mệnh lệnh: thể hiện mối quan hệ bất bình đẳng giữa các chủ thể tham
gia trong quan hệ pháp luật tài chính, một bên nhân danh nhà nước có quyền ra lệnh buộc
chủ thể bên kia phải thực hiện những hành vi nhất định như trong quan hệ thu nộp thuế,
cấp phát kinh phí.
Phương pháp bình đẳng thỏa thuận: thể hiện các chủ thể tham gia trong quan hệ tài


chính bình đẳng về địa vị pháp lý. Sự bình đẳng thể hiện ở quyền và nghĩa vụ tài chính
mà các bên phải thực hiện hoặc trong trường hợp các bên không phải thực hiện nghĩa vụ

và thể hiện quyền tự quyết định trong khuôn khổ pháp luật của các chủ thể tham gia trong
quan hệ pháp luật tài chính như các quan hệ phát sinh trong quá trình phân phối nguồn tài
chính do các tổ chức kinh tế tạo ra trong quá trình hình thành, sử dụng quỹ tiền tệ của các
chủ thể khác nhau trong xã hội.
- luật thương mại là một ngành luật tư điển hình trong hệ thống pháp luật quốc gia điều
chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa các thương nhân
với các chủ thể khác hoặc giữa các chủ thể khác với nhau có liên quan đến hoạt động
thương mại, hoặc các hành vi thương mại.
+ Đối tượng điều chỉnh của pháp luật thương mại là các hành vi thương mại và áp dụng
đối với các chủ thể của quan hệ thương mại là các thương nhân.
+ Phương pháp điều chỉnh là phương pháp bình đẳng pháp lý là phương pháp điều chỉnh
đặc trong của luật tư. Những biện pháp và cách thức mà nhà nước sử dụng để tác động
lên các quan hệ tài sản giữa các thương nhân và những chủ thể khác khi thực hiện các
hành vi thương mại theo bản chất. Các thương nhân hoặc các chủ thể khác tham gia các
quan hệ thương mại đều là những thực thể độc lập, bình đẳng với nhau về tổ chức và tài
sản, không có quan hệ phụ thuộc trên dưới.
- Luật dân sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, bao gồm tổng thể các
quy phạm pháp luật dân sự do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản
và quan hệ nhân thân hoặc có liên quan đến tài sản của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể
khác.
+ Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự là những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân
trong quá trỉnh sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa nhằm
thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của các thành viên trong xã hội
+ Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự là những biện pháp, cách thức mà Nhà nước
tác động lên các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân là cho các quan hệ này phát sinh,
thay đổi, chấm dứt theo ý chí của Nhà nước.
Câu 9: Nêu các điều kiện được hưởng bảo hiểm tiền gửi. Khi TCTD phá sản, chế độ
bảo hiểm tiền gửi được giải quyết như thế nào.
+ Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân, bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp

tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt
động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.
+ Tổ chức tài chính vi mô phải tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với tiền gửi của cá nhân
bao gồm cả tiền gửi tự nguyện của khách hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi tiết kiệm bắt
buộc theo quy định của tổ chức tài chính vi mô.
+ Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành
lập và quy định chức năng, nhiệm vụ theo đề nghị của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.


+ Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo
đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí. Nguồn thu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi được
miễn nộp các loại thuế.
+ Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định tại Điều 4 của Nghị
định 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 hướng dẫn Luật bảo hiểm tiền gửi phải tham gia
bảo hiểm tiền gửi và niêm yết công khai bản sao Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi
tại trụ sở chính, chi nhánh và các điểm.giao dịch có nhận tiền gửi của cá nhân.
+ Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức
tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo
quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 19 của
Luật bảo hiểm tiền gửi.
+ Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải niêm yết công khai bản sao Chứng nhận tham
gia bảo hiểm tiền gửi tại tất cả các điểm giao dịch có nhận tiền gửi.
Hoạt động bảo hiểm tiền gửi phải công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của người được bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo
hiểm tiền gửi.
+ Phải nộp phí bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
4.2. Khi TCTD phá sản, chế độ bảo hiểm tiền gửi được giải quyết như sau:
+ Trả tiền bảo hiểm: Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng
hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín
dụng là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Trong
thời hạn 60 ngày, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm
tiền gửi có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi.
+ Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người
tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối đa bằng hạn
mức trả tiền bảo hiểm quy định tại Điều 24 của Luật bảo hiểm tiền gửi năm 2012. Số tiền
bảo hiểm được trả trong trường hợp nhiều người sở hữu chung tiền gửi được bảo hiểm
tiền gửi được quy định như sau:
Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của nhiều người
sở hữu chung tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi, tối
đa bằng hạn mức trả tiền bảo hiểm cho một người quy định tại Điều 24 của Luật bảo
hiểm tiền gửi năm 2012. Số tiền bảo hiểm được trả sẽ được chia theo thỏa thuận của các
đồng chủ sở hữu; trường hợp giữa các đồng chủ sở hữu không có thỏa thuận hoặc không
thỏa thuận được thì giải quyết theo quy định của pháp luật. Trường hợp một trong các
đồng chủ sở hữu có khoản tiền gửi khác được bảo hiểm tại cùng một tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi thì tổng số tiền bảo hiểm được trả cho một đồng chủ sở hữu không
vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm.


Trường hợp người được bảo hiểm tiền gửi có khoản nợ tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi thì số tiền gửi được bảo hiểm là số tiền còn lại sau khi trừ khoản nợ đó.
+ Về thủ tục trả tiền bảo hiểm( điều 26 luật bảo hiểm tiền gửi năm 2012): Trong thời hạn
10 ngày làm việc, kể từ thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm, tổ chức tham gia
bảo hiểm tiền gửi phải gửi hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Hồ sơ đề nghị trả tiền bảo hiểm bao gồm văn bản đề nghị trả tiền bảo hiểm, danh sách
người được bảo hiểm tiền gửi, số tiền gửi của từng người được bảo hiểm tiền gửi và số

tiền bảo hiểm đề nghị tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định tại khoản 1
Điều này, tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiến hành kiểm tra các chứng từ, sổ sách để xác định
số tiền chi trả.
Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày kết thúc kiểm tra theo quy định tại khoản 2
Điều này, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải có phương án trả tiền bảo hiểm cho người được
bảo hiểm tiền gửi; thông báo công khai về địa điểm, thời gian, phương thức trả tiền bảo
hiểm trên ba số liên tiếp của một tờ báo trung ương, một tờ báo địa phương nơi đặt trụ sở
chính, các chi nhánh của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và trên một báo điện tử của
Việt Nam; niêm yết danh sách người được trả tiền bảo hiểm tại địa điểm đã thông báo.
Khi nhận tiền bảo hiểm, người được bảo hiểm tiền gửi phải xuất trình các giấy tờ chứng
minh quyền sở hữu hợp pháp đối với các khoản tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham
gia bảo hiểm tiền gửi.Tổ chức bảo hiểm tiền gửi trực tiếp trả tiền bảo hiểm cho người
được bảo hiểm tiền gửi hoặc ủy quyền cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khác thực
hiện.
Sau thời hạn 10 năm, kể từ ngày tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thông báo lần thứ nhất về
việc trả tiền bảo hiểm, những khoản tiền bảo hiểm không có người nhận sẽ được xác lập
quyền sở hữu nhà nước và bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi, người có quyền sở hữu khoản tiền gửi được bảo hiểm sẽ không có quyền yêu cầu tổ
chức bảo hiểm tiền gửi trả số tiền bảo hiểm đó.
+ Xử lí số tiền gửi vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm: Số tiền gửi của người được bảo hiểm
tiền gửi bao gồm tiền gốc và tiền lãi vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm sẽ được giải
quyết trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định
của pháp luật.
+ Thu hồi số tiền bảo hiểm phải trả từ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi: Tổ chức bảo
hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với số tiền bảo
hiểm phải trả cho người được bảo hiểm tiền gửi, kể từ ngày trả tiền bảo hiểm theo thông
báo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Luật bảo hiểm tiền gửi 2012. Tổ chức bảo hiểm
tiền gửi được phân chia giá trị tài sản theo thứ tự như người gửi tiền và thu hồi số tiền
bảo hiểm phải trả trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi

theo quy định của pháp luật
Câu 10: Phân tích nội dung quản lý Nhà nước về ngoại hối
- Ngoại hối bao gồm :


Các loại ngoại tệ.
- Các phương tiện chi trả có giá trị bằng tiền nước ngoài.
- Các chứng khoán ghi bằng ngoại tệ.
- Các kim loại quý, đá quý di chuyển ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài chuyển
vào Việt Nam.
Việt Nam, Nghị định 63/1998/NĐ - CP ngày 17/08/1998 về quản lý ngoại hối thì
ngoại hối bao gồm:
- Tiền nước ngoài: tiền giấy, tiền kim loại.
- Công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài: séc, thẻ thanh toán, hối phiếu, chứng
chỉ tiền gửi Ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi bưu điện và các công cụ thanh toán khác.
- Các loại giấy tờ có giá bằng tiền nước ngoài như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
công ty, kỳ phiếu,cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác.
- Quyền rút vốn đặc biệt, đồng tiền chung Châu Âu, các đồng tiền khác dùng
trong thanh toán quốc tế và khu vực.
- Vàng tiêu chuẩn quốc tế. (Vàng tiêu chuẩn quốc tế là vàng khối, vàng thỏi, vàng
miếng, vàng lá có dấu kiểm định chất lượng và trọng lượng có mác hiệu của nhà sản xuất
vàng quốc tế hoặc của nhà sản xuất vàng trong nước được quốc tế công nhận. Vàng tiêu
chuẩn quốc tế có trọng lượng từ 1 kg trở lên, có nhãn hiệu của nhà sản xuất vàng được
hiệp hội vàng, Sở giao dịch vàng quốc tế công nhận).
- Đồng tiền đang lưu hành của nước CHXHCN Việt Nam trong trường hợp chuyển vào
và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt nam hoặc được sử dụng làm công cụ trong thanh toán
quốc tế
Hoạt động ngoại hối là hoạt động đầu tư, vay, cho vay, mua bán, bảo lãnh và các giao
dịch khác về ngoại hối.
Nghị định 63/1998/NĐCP quy định - Ngoại hối chỉ được lưu hành thông qua hệ thống

Ngân hàng, tổ chức và cá nhân được phép hoạt động ngoại hối.
Tư cách pháp lý: Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện
việc quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối.
- Điều 37 luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: toàn quyền quản lý hành chính
Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước về ngoại hối
* Xây dựng các dự án Luật. Pháp lệch về quản lý ngoại hối.
* Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối
* Kiểm soát ngoại hối của các tổ chức tín dụng
Quản lý ngoại hối bằng nghiệp vụ:
- Nhà nước giao cho Ngân hàng Trung ương dự trữ ngoại hối, nhằm thực hiện chính sách
hệ quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối Nhà nước.
- Hoạt động ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước thực hiện trên thị trường trong nước và
quốc tế. Điều 39 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997.
Các cơ quan quản lý Nhà nước về ngoại hối, thẩm quyền và đối tượng quản lý ngoại
hối.
a/ Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quản lý ngoại hối:


Điều 2 Nghị định 63/CP ngày 17/08/1998 về quản lý ngoại hối.
- Chính phủ: là cơ quan có thẩm quyền chung, chịu trách nhiệm trước quốc hội khi thực
hiện vai trò thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối trên toàn
lãnh thổ Việt Nam. (Hoạt động ngoại hối là các hoạt động đầu tư, vay, cho vay, bảo lãnh,
mua, bán và các giao dịch khác về ngoại hối).
Chính phủ phân cấp cho Ngân hàng Nhà nước và các bộ có liên quan khi thực hiện
hành vi quản lý Nhà nước về ngoại hối và hoạt động ngoại hối.
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan chức năng của Chính phủ, được Chính phủ
trao quyền trực tiếp tiến hành các hoạt động quản lý Nhà nước về ngoại hối trên lãnh thổ
Việt Nam, chịu trách nhiệm trước Chính phủ và quốc hội. Đồng thời trực tiếp tham gia
vào các giao dịch ngoại hối nhằm điều hành chính sách tiền tệ quốc gia (Điều 37,38 Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Ngân hàng Nhà nước thiết lập dự trử ngoại hối Nhà nước và thanh toán quốc tế. Mua
bán và thực hiện các giao dịch khác với các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp được
phép kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế. Sử dụng các mục đích khác khi được phép của
Thủ tướng Chính phủ.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố thuộc
trung ương có thẩm quyền quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn được pháp luật quy định.
Đối tượng quản lý Nhà nước về ngoại hối:
Điều 1 Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/08/1998 bao gồm:
- Các tổ chức, cá nhân Việt Nam có ngoại hối và hoạt động ngoại hối trên lãnh thổ Việt
nam hay ở nước ngoài.
- Các tổ chức cá nhân nước ngoài có ngoại hối và hoạt động ngoại hối tại Việt Nam.
Hai đặc điểm cơ bản để xác định đối tượng chịu sự quản lý Nhà nước về ngoại hối:
- Có sở hữu, quản lý, sử dụng ngoại hối hoặc có hoạt động ngoại hối.
- Diễn ra trên lãnh thổ Việt nam và ở nước ngoài(đối với cá nhân, tổ chức Việt Nam)hoặc
diễn ra tại Việt Nam (đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài).
Các chế độ quản lý Nhà nước về ngoại hối
Có hai loại ngoại hối: ngoại tệ và vàng tiêu chuẩn quốc tế.
Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/08/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối.
Việc quản lý Nhà nước đối với ngoại tệ được quy định như sau:(chương II,III,IV,V từ
điều 5 đến điều 30 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
Quy định về quản lý quý kim (Vàng tiêu chuẩn quốc tế) quy định tại chương VI từ
điều 31 đến điều 33.
Chế độ quản lý Nhà nước có thể phân làm hai bộ phận: chế độ quản lý Nhà nước về
ngoại tệ và chế độ quản lý Nhà nước về kim loại quý.
A. Chế độ quản lý Nhà nước về ngoại tệ:
Ngoại tệ là danh từ dùng để chỉ các loại tiền nước ngoài: ngoại tệ tiền mặt, tiền gửi
bằng ngoại tệ ở Ngân hàng, các giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ.
Phải kiểm soát thị trường ngoại tệ thông qua việc Nhà nước đứng ra tổ chức và điều hành



thị trường ngoại tệ thông qua việc ban hành luật lệ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện
các luật lệ đó.
B .Quyền sử dụng vàng tiêu chuẩn quốc tế của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp
được phép kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế.
Theo khoản 2, Điều 32 NĐ 63/1998/NĐ - CP được sử dụng vàng vào các mục đích sau:
- Mua, bán và thực hiện các giao dịch khác với Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín
dụng và doanh nghiệp được phép kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc tế.
- Sử dụng cho các mục đích khác khi được phép của Thủ tướng Chính Phủ.
Như vậy, Tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được phép kinh doanh vàng tiêu chuẩn quốc
tế chỉ có quyền giao dịch với nhau hoặc giao dịch với Ngân hàng Nhà nước mà không có
quyền giao dịch với các cá nhân tổ chức khác trong nền kinh tế.
Câu 11: Nghiệp vụ thị trường mở là gì, ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia?
I.
Nghiệp vụ thị trường mở
1.
Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là gì ? Mặc dù khái niệm TTM đã được chúng ta tiếp
cận từ thời kỳ đổi mới hoạt động ngân hàng cho đến nay. Để trả lời câu hỏi trên hãy tiếp
cận với một số quan điểm vể NVTTM như sau:
Theo quan điểm của nước Anh: “NVTTM là việc NHTW mua bán trái phiếu dài hạn của
Chính phủ trên thị trường trái phiếu có bảo đảm để làm tăng hoặc giảm mức cho vay của
ngân hàng. Khi mua trên thị trường mở, NHTW sẽ thanh toán cho các cá nhân và tổ chức
đã bán trái phiếu cho nó. NVTTM về chứng khoán ngắn hạn cũng được thực hiện trên thị
trường tín phiếu. Nơi mà NHTW bán và mua trái phiếu chính phủ và kỳ phiếu thương
mại để tác động đến lãi suất và duy trì sự ổn định của thị trường”.
Theo quan điểm của Mỹ: “ NVTTM là việc mua và bán các loại chứng khoán trên thị
trường tài chính được thực hiện bởi FED
“ Theo tài liệu ở trường đại học VICTORIA NEWREALAND: “ Một NVTTM xảy ra

khi NHTW thay đổi cơ số tiền tệ bằng việc mua hoặc bán chứng khoán trên thị trường
mở”
Theo các quan điểm trên thì TTM là thị trường giao dịch các loại chứng khoán ngắn hạn
và dài hạn. Tuỳ vào mỗi nước mà các loại chứng khoán được giao dịch là khác nhau về
loại hình và thời hạn đồng thời việc quyết định chủ thể tham gia rộng hơn gồm các tổ
chức tín dụng, tổ chức phi tín dụng, doanh nghiệp và cả cá nhân… Còn ở các nước
NVTTM còn chưa phát triển thì mới chỉ có các NVTTM và các tổ chức tín dụng khác
tham gia ( ví dụ ở Việt Nam). Tuỳ thuộc vào điều kiện hiện tại của mỗi nước mà chính
phủ sẽ quy định khác nhau về hàng hoá, chủ thể tham gia, quy chế hoạt động của TTM.
Chính sự khác nhau này sẽ quyết định khái niệm NVTTM ở mỗi nước.
Ví dụ: Đối với điều kiện hiện tại của Việt Nam
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành CSTT, TTM ở Việt Nam đã chính thức đi


vào hoạt động từ ngày 12/07/2000, đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều
hành CSTT của NHTW theo phương pháp gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu
thế phát triển nền kinh tế đất nước. Do vậy đây là công cụ rất mới cả về khái niệm và nội
dung hoạt động. Trong điều kiện của Việt Nam , NVTTM được hiểu như sau:
“NVTTM là nghiệp vụ NHTW thực hiện mua và bán ra các loại giấy tờ có giá ngắn hạn
nhằm thay đổi cơ số tiền tệ trên cơ sở đó tác động đến lượng tiền cung ứng và lãi suất
ngắn hạn” ( “Nghiệp vụ Ngân hàng Trung ưng - Đại học KTQD” )
Theo điều 8, quyết định số 85/200/QĐ -NHNN14 ngày 9/3/2000 của Thống Đốc ngân
hàng Nhà nước Việt Nam về ban hành quy chế NVTTM, có quy định giấy tờ có giá được
giao dịch gồm:
+ Tín phiếu kho Bạc
+ Tín phiếu NHTW
+ Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác do Thống Đốc NHNN quy định cụ thể trong từng
thời kỳ Quy định trên cho thấy trong từng thời kỳ cụ thể, các loại giấy tờ có giá được sử
dụng trong NVTTM ở nước ta có thể tăng thêm ngoài tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân
hàng nhưng vẫn là giấy tờ có giá ngắn hạn

. Tóm lại thì “ NVTTM là nghiệp vụ được thực hiện bởi NHTW mà nội dung cụ thể của
nó là mua vào và bán ra các loại chứng khoán – các loại chứng khoán này không bị giới
hạn về thời hạn trên TTM, thông qua đó NHTW tác động trực tiếp đến lượng tiền cung
ứng và gián tiếp tới lãi suất thị trường” Do tính chất thời hạn của công cụ sử dụng trong
NVTTM nên NVTTM không chỉ được thực hiện trên thị trường tiền tệ ( thị trường của
các công cụ tài chính ngắn hạn) mà còn được thực hiện trên cả thị trường vốn (thị trường
của các công cụ tài chính dài hạn) hay nói cách khác là được thực hiện thị trường tài
chính. Trong khái niệm này cũng không có thời hạn về chủ thể tham gia TTM là cá nhân
hay tổ chức. Vì bất kỳ đối tượng mà NHTW mua hoặc bán là ai thì NHTW vẫn thực hiện
được chính sách tiền tệ (CSTT) tác động đến cơ số tiền tệ làm tăng giảm lượng tiền cung
ứng trong nền kinh tế , mà cụ thể hoạt động của nó được hình trình bày ở phần tiếp theo.
2. Chủ thể tham gia NVTTM
2.1 Phạm vi thành viên tham gia NVTTM
Chủ thể tham gia NVTTM rất đa dạng và phong phú. Tuy vậy, cũng tuỳ thuộc vào quy
định riêng của mỗi nước mà các thành viên tham gia vào NVTTM là khác nhau. Thông
thường chủ thể tham gia bao gồm : NHTW, các tổ chức tín dụng, các tổ chức phi tín
dung, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân… nhưng không phải tất cả các chủ thể đều có
thể tham gia mà phải có những điều kiện cần thiết. Có 3 điều kiện để xem xét phạm vi
thành viên, đó là:
- Thứ nhất : NHTW muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng bao gồm cả tiền
mặt và tìên gửi , về mặt lý thuyết thành viên tham gia mua bán trong trường hợp này
được mở rộng không những chỉ gồm các tổ chức tín dụng mà còn cả các tổ chức khác,
thậm chí có thể cả các cá nhân miễn là họ có tiền mặt và tiền gửi.
- Thứ hai : nếu cơ sở pháp lý cho phép các tổ chức tín dụng hoạt động theo hướng đa
năng như hệ thống tổ chức tín dụng của Việt Nam hiện nay thì phạm vi thành viên tham


gia mở rộng đến tổ chức tín dụng là đủ .
- Thứ ba: khả năng chuyển tải của hệ thống thanh toán. nếu cá nhân không có séc hoặc
tiền trên tài khoản gửi tại NHTW thì không thể tham gia mua bán được trên thị trường

mở, nếu tổ chức tín dụng(TCTD) không có mạng kết nối với NHTW trong điều kiện giao
dịch trên mạng thì cũng không thể trở thành thành viên.
2.2. Điều kiện tham gia thị trường mở ở Việt Nam
Chủ thể tham gia nghiệp vụ TTM ở Việt Nam, được quy định như sau:
+ NHTW tham gia với tư cách vừa là người tổ chức vừa là người điều hành thị trường,
vừa là người trực tiếp mua bán trên thị trường .
+ Các thành viên khác là các TCTD được thành lập và hoạt động theo luật các TCTD
bao gồm : TCTD Nhà nước, TCTD cổ phần, TCTD hợp tác, TCTD phi ngân hàng, TCTD
nước ngoài được phép hoạt động ở Việt Nam.
Theo điều 5, quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 9/3/2000 thì thành viên tham gia
TTM phải có các điều kiện sau:
- Có tài khoản tiền gửi tại NHTW
- Có nối mạng máy tính với NHTW
- Có tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo khả năng thanh toán
- Chấp hành quy định NVTTM
- Có đăng kí tham gia NVTTM
Các tổ chức tín dụng khi đượcNHTW công nhận là thành viên tham gia NVTTM sẽ
được cấp mã số chữ kí cho những người đại diện qua máy tính, máy Fax và mã số chữ kí
cho những người đại diện tổ chức tín dụng cũng như người tham gia giao dịch thực hiện
chế độ bảo mật với các giao dịch
3. Nội dung hoạt động thị trường mở
Để hiểu được nội dung hoạt động thị trường mở ta sẽ tìm hiểu nó trên các khía cạnh:
phương thức mua bán giấy tờ có giá và phương thức đấu thầu .
3.1.Phương thức mua bán trên thị trường mở
Tuỳ thuộc vào trạng thái khối lượng thị trường, NHTW tiếp cận NVTTM bằng một trong
hai hướng :
- Dự báo thấy cung tiền tệ cần được tiếp tục điều chỉnh thì NHTW ngay lập tức mua vào
hoặc bán ra chứng khoán theo hình thức mua đứt bán đoạn(mua bán hẳn).
- Nếu dấu hiệu yêu cầu chỉ cần tạm thời thay đổi dự trữ tiền tệ hoặc dự trữ trong thời gian
tới là thiếu ổn định thì NHTW thực hiện các giao dịch tác động lên cung tiền tệ bằng các

hợp đồng mua lại đối với trường hợp muốn tăng dự trữ tạm thời hoặc bằng các giao dịch
mua bán đảo ngược khi muốn giảm dự trữ tam thời. Như vậy có hai hình thức giao dịch
chủ yếu là hình thức mua bán hẳn và hình thức mua bán có thời hạn
. *. Mua - bán hẳn : là việc mua bán và chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá từ bên
bán cho bên mua và không kèm theo thoả thuận mua, bán lại. Với phương thức này, chỉ
được thực hiện với các loại hàng hoá mà thời hạn còn lại (tức thời gian thanh toán còn lại
của giấy tờ có giá ngắn hạn tính từ ngày giấy tờ có giá được mua, bán thông qua nghiệp
vụ TTM đến hạn thanh toán ) tối đa theo quy định trong từng thời kỳ(ở Việt Nam hiện


nay là 90 ngày).
*. Mua bán có kỳ hạn(giao dịch có thời hạn): là việc bên bán bán và chuyển giao giấy tờ
có giá cho bên mua đồng thời cam kết mua lại và nhận lại quyền sở hữu giấy tờ có giá đó
sau thời gian nhất định. Theo cách chia này, thì hình thức mua bán có thời hạn bao gồm
hai hình thức là hợp đồng mua lại và bán – mua đảo ngược mà các nước thường hay sử
dụng. Trong đó, hợp đồng mua lại được sử dụng trong trường hợp NHTW muốn tăng dự
trữ tạm thời còn hình thức bán- mua đảo ngược sử dụng trong trường hợp NHTW muốn
giảm dự trữ tạm thời.
+ Hợp đồng mua lại : khi cần bổ sung tăng dự trữ tạm thời NHTW tham gia trực tiếp vào
việc ký hợp đồng mua lại chứng khoán của nhà môi giới, tức là NHTW mua chứng khoán
của nhà môi giới; còn nhà môi giới đồng ý mua lại chứng khoán đó vào một ngày nhất
định với một mức giá nhất định. Vì dự trữ bổ sung này sẽ dừng lại một cách tự động khi
hợp đồng mua lại đến hạn nên nghiệp vụ này chỉ là cách bơm thêm dự trữ vào hệ thống
tiền gửi tạm thời mà thôi. Thời gian thực hiện hợp đồng mua lại thường là 7 ngày.
+ Bán- mua đảo ngược: khi cần giảm khối lượng tiền tệ NHTW thực hiện giao dịch theo
hình thức bán- mua đảo ngược với các nhà môi giới, bằng một hợp đồng bán ngay chứng
khoán cho nhà môi giới và một hợp đồng đảo ngược để mua lại tiếp theo các chứng
khoán từ nhà môi giới đó. Thời hạn thực hiện hợp đồng thường là 7 ngày
3.2.Phương thức đấu thầu trên thị trường mở
Các hình thức mua bán trên thị trường mở là mua bán hẳn và mua bán có thời hạn đều

được thực hiện trên phòng giao dịch thông qua phương thức đấu thầu. Có hai phương
thức mà NHTW áp dụng để đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng .
3.2.1 Phương thức đấu thầu khối lượng
Là việc xác định khối lượng trúng thầu của các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ TTM
trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá mua
hoặc bán và lãi suất do NHTW thông báo cụ thể như sau :
- NHTW thông báo cho các TCTD mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần
mua hoặc cần bán (NHTW có thể không thông báo khối lượng cần mua hoặc cần bán).
- Các đơn vị thành viên tham gia dự thầu khối lượng các loại giấy tờ cần mua hoặc cần
bán theo mức lãi suất do NHTW công bố Sau khi mở thầu, NHTW xác định khối lượng
trúng thầu của các đơn vị tham gia dự thầu theo nguyên tắc sau :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHTW
cần mua hoặc cần bán thì khối lượng trúng thầu của đơn vị chính là khồi lượng dự thầu.
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng NHTW cần mua hoặc
cần bán thì khối lượng trúng thầu của các TCTD sẽ được phân bổ theo tỷ lệ thuận với
khối lượng dự thầu của các TCTD.
3.2.2.Phương thức đấu thầu lãi suất
Là việc xác định lãi suất trúng thầu của các TCTD tham gia NVTTM trên cơ sở khối
lượng dự thầu của các TCTD, khối lượng giấy tờ có giá mà NHTW cần mua hoặc cần
bán.
- NHTW có thể công bố hoặc không công bố khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc cần


bán.
- Các đơn vị thành viên dự thầu theo mức lãi suất và khối lượng giấy tờ có giá cần mua
hoặc cần bán ứng với mức lãi suất đó. Lãi suất dự thầu được tính theo tỷ lệ phần trăm và
được làm tròn đến hai con số sau dấu phẩy. Lãi suất sẽ được sắp xếp theo thứ tự lãi suất
dự thầu giảm dần, nếu NHTW là người mua và ngược lại lãi suất sẽ được sắp xếp theo
thứ tự tăng dần nếu NHTW là người bán.
- Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu cao nhất (trường hợp NHTW bán) và lãi suất dự

thầu thấp nhất (trường hợp NHTW mua) mà tại đó đạt được khối lượng giấy tờ có giá
NHTW cần mua hoặc cần bán.
Có hai phương thức xét thầu theo lãi suất là xét thầu theo lãi suất thống nhất hoặc theo
lãi suất riêng lẻ:
+ Lãi suất thống nhất : là toàn bộ khối lượng trúng thầu được tính theo một mức lãi suất
trúng thầu để tính số tiền phải thanh toán.
+ Lãi suất riêng lẻ : khối lượng trúng thầu được tính tương ứng với từng mức lãi suất dự
thầu được công bố trúng thầu để tính số tiền thanh toán.
Khối lượng trúng thầu được tính theo nguyên tắc :
+ Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD nhỏ hơn hoặc bằng khối lượng mà NHTW
cần mua hoặc cần bán thì khôí lượng dự thầu chính là khối lượng trúng thầu
. + Nếu tổng khối lượng dự thầu của các TCTD lớn hơn khối lượng mà NHTW cần mua
hoặc cần bán thì khôí lượng trúng thầu của các TCTD được tính tỷ lệ thuận với khối
lượng dự thầu của các TCTD đó.
4. Ưu điểm của TTM so với các công cụ khác
NHTW điều hành CSTT bằng các công cụ trực tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất
chiết khấu và tái chiết khấu, hạn mức tín dụng, tỷ giá hối đoái, tỷ giá ngoại hối… và công
cụ trực tiếp quan trọng nhất là NVTTM . Trong đó NVTTM là công cụ có hiệu quả nhất
của NHTW trong việc điều hành CSTT của mình.
4.1. Ưu điểm nổi bật của NVTTM
Sở dĩ NVTTM được coi là quan trọng nhất trong điều hành CSTT của NHTW bởi vì nó
là nhân tố quyết định đầu tiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở tiền tệ-nguồn gốc
chính làm thay đổi việc cung ứng tiền tệ của NHTW .
Ngoài lý do trên nghiệp vụ TTM còn 5 ưu điểm nổi bật như sau:
- Nghiệp vụ TTM phát sinh theo ý tưởng chủ đạo của NHTW, trong đó NHTW hoàn toàn
kiểm soát được khối lượng giao dịch. Tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp không
nhận thấy được.Ví dụ trong nghiệp vụ chiết khấu NHTW có thể khuyến khích hoặc
không khuyến khích các NHTM, chỉ thông báo lãi suất chiết khấu , mà không kiểm soát
trực tiếp khối lượng cho vay chiết khâú.
- Nghiệp vụ TTM vừa linh hoạt nhưng vừa chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ quy mô

nào. Khi có yêu cầu thay đổi về dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ, dù ở mức nào đi nữa, NVTTM
cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán. ngược lại,
nếu có yêu cầu thay đổi dự trữ với qui mô lớn, NHTW cũng có đủ khả năng thực hiện
thông qua việc mua hoặc bán một khối lượng lớn tương ứng các chứng khoán.


- Nghiệp vụ TTM dễ dàng đảo chiều : nếu NHTW có mắc sai sót nào trong quá trình thực
hiện nghiệp vụ TTM, thì có thể ngay tức khắc sửa sai sót đó bằng các nghiệp vụ bán(nếu
như trước đó mua vào quá nhiều) hay mua (nếu như lúc đó bán ra quá nhiều ).
- Nghiệp vụ TTM có tính an toàn cao: giao dịch trênTTM hầu như không gặp rủi ro, xét
trên cả góc độ của NHTW hay NHTM; vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên TTM đều
là những giấy tờ có gi, có tính thanh khoản cao, không rủi ro tài chính.
- Nghiệp vụ TTM có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ
của các thủ tục hành chính: khi NHTW muốn thay đổi lượng tiền cungứng thì chỉ cần đưa
ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán và sau đó việc mua bán sẽ được thực hiện
ngay

Câu 12: Địa vị pháp lý của Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia?
Theo Nghị quyết 58/2011 QĐ/TTg về việc thành lập Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ
quốc gia
Hội đồng tư vẫn có nhiệm vụ như sau: thảo luận, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ những chủ trương, chính sách, đề án lớn và những vẫn đề quan trọng trong
lĩnh vực tài chính, tiền tệ thuộc quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ. Đồng thời, tư vấn cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ quyết định các
chính sách, kế hoạch tài chính, tiền tệ trong từng thời kỳ, cũng như các biện pháp chỉ đạo
điều hành của Chính phủ và của Thủ tướng Chính phủ để thực hiện có hiệu quả các chính
sách, kế hoạch đã được quyết định.
Cụ thể, căn cứ vào chương trình công tác hàng năm của Chính phủ, hội đồng sẽ chủ
động nghiên cứu đề xuất, có ý kiến tư vấn cho Chính phủ và Thủ tướng những chủ
trương, chính sách, đề án lớn và những vấn đề quan trọng trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ;

nghiên cứu, tư vấn một số vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách và kế hoạch tài
chính, tiền tệ, quản lý và phát triển thị trường tài chính và một số vấn đề mới phát sinh
trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ theo yêu cầu của Chính phủ và Thủ tướng hoặc chủ tịch
hội đồng.
Hội đồng cũng sẽ nghiên cứu, tham gia ý kiến vào các báo cáo, đề án, chính sách, cơ chế
tài chính, tiền tệ theo đề nghị của các Bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố để báo cáo
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Đồng thời, tổ chức thảo luận, lấy ý
kiến đóng góp của các chuyên gia, các doanh nhân, các nhà khoa học trong và ngoài nước
về những chủ trương, chính sách, giải pháp thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ khi cần thiết;
khảo sát, nghiên cứu thực tiễn trong và ngoài nước để có thêm thông tin trực tiếp nhằm
nâng cao năng lực và hiệu quả tư vấn về các vấn đề thuộc chức năng nhiệm vụ của hội
đồng.
Nguyên tắc: Hội đồng làm việc theo nguyên tắc tư vấn, ý kiến của Hội đồng được thảo
luận tập thể và do chủ toạ cuộc họp kết luận. Ngườ chủ toạ và kết luận tại cuộc họp Hội


đồng là CHủ tịch Hội đồng hoặc Phó Chủ tịch được Chủ tịch Hội đồng uỷ quyền.
Cơ cấu: Bao gồm Chủ tịch Hội đồng là một Phó thủ tướng chính phủ; 2 phó chủ tịch hội
đồng trong đó Phó chủ tịch thường trực là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
một phó chủ tịch là Chủ tịch Uỷ ban giám sát tài chính.
Câu 13: Khái niệm, đặc điểm của tổ chức tín dụng?
Khái niệm tổ chức tín dụng
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng 12/12/97 quy định:
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật các tổ chức tín
dụng và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng
với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ
thanh toán.”
Đặc điểm của tổ chức tín dụng
- Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp:
Tổ chức tín dụng có đầy đủ những đặc điểm của một doanh nghiệp, có tên riêng, tài sản

có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Tổ chức tín dụng có thể được thành lập và
hoạt động dưới dạng công ty nhà nước , công ty cổ phần, hợp tác xã, doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. hoạt động của các tổ chức tín dụng là vì
mục đích kinh doanh. Tuy nhiên tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, có
đối tượng kinh doanh là tiền tệ, điều này có nghĩa là tiền tệ với tư cách hàng hóa, nó có
thể “mua” hoặc “bán” trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Còn đối với
hoạt động của doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng, tiền tệ thể hiện vai trò chủ
yếu là phương tiện thanh toán.
- Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp mà hoạt động ngân hàng chủ yếu, thường xuyên và
mang tính nghề nghiệp:
Đây là một trong các đặc điểm cho phép chúng ta phân biệt doanh nghiêp là tổ chức tín
dụng với các loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác (sản xuất, kinh
doanh) thậm chí kể cả những doanh nghiệp có hoạt động ngân hàng không thường xuyên
như các công ty bảo hiểm, công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, Qũy hỗ trợ đầu tư..( gọi là
các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng). Hiện nay ở mỗi nước có sự quy định không
giống nhau thế nào là hoạt động ngân hàng. Ở Đức, Luật về ngân hàng tín dụng năm
1992 liệt kê 9 nghiệp vụ cụ thể được coi là hoạt động ngân hàng hàng( như đã liệt kê) .
Ở Việt Nam, khoản 7 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng định nghĩa: “Hoạt động ngân
hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. “.
Vậy theo Luật trên thì hoạt động ngân hàng được hiểu là một chuỗi các hoạt động liên
tiếp không tách rời nhau, được thực hiện thường xuyên từ hoạt động huy động vốn dưới
hình thức nhận tiền gửi cho đến việ sử dụng các số tiền huy động được để cấp tín dụng và
cung ứng cho các dịch vụ thanh toán, khoản 2 điều 20 ghi nhận: Ngân hàng là loại hình tổ


chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm
ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách,

ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. vấn đề này có thể tiếp cận theo 2
cách:
+ Cách 1: Hiểu một số hoạt động ngân hàng là phải bao gồm cả khâu huy động vốn và
cấp tín dụng, hoạt động thanh toán nhưng có một số hạn chế trong các khâu này về quy
mô hoạt động, phạm vi khách hàng và mục đích hoạt động.
+Cách 2: Môt số hoạt động ngân hàng đơn lẻ được thực hiện trên cơ sở thường xuyên
như :huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi, cấp tín dụng dưới hình thức cho vay,
chiết khấu, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính, dịch vụ thanh toán.
Nếu tiếp cận về khái niệm hoạt động của ngân hàng với cách thứ nhất thì có vẻ như phù
hợp với cách giải nghĩa về nội dung hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng trong khoản 3 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng: “Tổ chức tín dụng phi ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội
dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không
làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty
cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác” . Như vậy trong hoạt động
trung gian tài chính của mình tổ chức tín dụng phi ngân hàng đã bị hạn chế về đầu vào và
bị hạn chế cả đầu ra và đặc biệt tổ chức tín dụng lại không làm dịch vụ thanh toán. Điều
này chứng tỏ không thể hiểu về khái niệm một số hoạt động ngân hàng như cách thứ
nhất.
Cách tiếp cận thứ hai về một số hoạt động ngân hàng có lẽ là phù hợp hơn cả với nội
dung hoạt động của của tổ chức tín dụng phi ngân hàng và hoạt động ngân hàng của các
tổ chức khác.
- Tổ chức tín dụng là định chế tài chính trung gian:
Tính chất trung gian của các tổ chức tín dụng được thể hiện ở các khía cạnh:
+ Trung gian giữa ngân hàng Trung ương và và nền kinh tế thông qua các tổ chức tín
dụng, chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương có những tác động nhất định đến nền
kinh tế, làm tăng hoặc giảm lượng tiền lưu thông và nhằm đạt mục đích tiêu cuối cùng là
ổn định giá trị đồng tiền.
+ Trung gian giữa người đi vay và người cho vay: trong nền kinh tế thị trường các tổ
chức tín dụng là trung gian tài chính quan trọng để điều chuyển vốn từ người thừa sang

người thiếu vốn. Tổ chức tín dụng một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội,
từ các cá nhân, tổ chức. Mặt khác nó dùng chính số tiền đã huy động để được cho vay đối
với các chủ thể cần vốn. Với chức năng này, tổ chức tín dụng góp phần quan trọng vào
việc điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế lạm phát.
- Tổ chức tín dụng là doanh nghệp chịu sự điều chỉnh của pháp luật về ngân hàng, các
quy định pháp luật khác có liên quan và chịu sự quản lý Nhà nước Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp kinh doanh trong một số lĩnh vực đặc biệt- lĩnh vực


tiền tệ, một lĩnh vực rất nhạy cảm đối với nền kinh tế và ẩn chứa độ rủi ro cao trong kinh
doanh. Do vậy hoạt động của các tổ chức tín dụng chịu sự điều chỉnh chặt chẽ bởi những
quy định của pháp luật riêng trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, tùy
thuộc vào
từng loại hình tổ chức tín dụng mà các quy định khác có liên quan cũng được áp dụng.
Ngày nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, Ngân hàng Trung ương là cơ quan thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín
dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng.
Khoản 2 Điều 1 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 quy định: Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng,
là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch
vụ tiền tệ cho Chính phủ.
Ngoài những đặc điểm trên tổ chức tín dụng, pháp luật một số nước còn quy định tổ chức
tín dụng phải có tư cách pháp nhân, cá nhân đơn lẻ không có quyền đăng ký hoạt động
ngân hàng một cách thường xuyên như tổ chức tín dụng ( ví dụ như ở Pháp và Liên bang
Nga )
Câu 14: Phân tích các điều kiện để hoạt động ngân hàng
Quy định của pháp luật về điều hoạt động Ngân hàng
1. Để tiến hành các hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng được cấp giấy phép phải có đủ
các điều kiện sau đây:

a) Có điều lệ được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y;
b) Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có đủ vốn pháp định và có trụ sở phù hợp với
yêu cầu hoạt động ngân hàng;
c) Phần vốn pháp định góp bằng tiền phải được gửi vào tài khoản phong toả không được
hưởng lãi mở tại Ngân hàng Nhà nước trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày. Số vốn này
chỉ được giải toả sau khi tổ chức tín dụng hoạt động;
d) Đăng báo trung ương, địa phương theo quy định của pháp luật về những nội dung quy
định trong giấy phép.
2. Để tiến hành các hoạt động ngân hàng, tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được
cấp giấy phép hoạt động ngân hàng phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, có trụ sở kinh doanh phù hợp với yêu cầu
hoạt động ngân hàng;
b) Đăng báo trung ương, địa phương theo quy định của pháp luật về những nội dung quy
định trong giấy phép.
3. Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép, tổ chức được Ngân hàng Nhà
nước cấp giấy phép phải hoạt động.
Câu 15: Việc huy động vốn từ người lao động hay công nhân viên có phải hoạt động
ngân hàng hay không? Tại sao?


×