Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng thu nhập công ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.35 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
PHẦN IV. KẾT LUẬN

LỜI NÓI ĐẦU
Thu nhập công gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nhà nước và là một công cụ
quan trọng mà bất kì quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng và nhiệm vụ của
mình. Trong cơ cấu thu nhập công ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, thu nhập công
chủ yếu bao gồm: thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ nước ngoài,… Trong đó thuế luôn
luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Những thành phần này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến tốc độ,
chất lượng và tính bền vững trong phát riển của một quốc gia. Đặc biệt là t rong nền kinh
tế hiện đại, các khoản chi tiêu công không mất đi mà nó lại tạo ra sự tái phân phối giữa
các khu vực trong nền kinh tế, trong đó Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong quá trình
này. Thông qua các khoản chi tiêu công, Nhà nước cung cấp cho xã hội những hàng hoá
mà khu vực tư không có khả năng cung ứng, hoặc cung ứng không có hiệu quả mà nguồn
từ các khoản thu nhập xã hội như thuế, phí, lệ phí. Như vậy, Nhà nước thực hiện tái phân
phối thu nhập xã hội công bằng hơn, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường,
bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng và bền vững.
1


Bởi vậy có thể nói thu nhập công có vai trò hết sức quan trọng đối với các quốc
gia trên thế giới. Thu nhập công là công cụ để Nhà nước gây ảnh hưởng cũng như tác
động đến đời sống xã hội, chính trị kinh tế, văn hóa một cách khéo léo nhất…. và ngược
lại, những khía cạnh này cũng sẽ là những nhân tố tác động trở lại thu nhập công của một
quốc gia. Đó có thể là tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, là tác động tích cực hoặc tiêu
cực, tuy nhiên kết quả cuối cùng vẫn sẽ gây ra sự thay đổi của các khoản thu nhập công,
điều này ít nhiều sẽ tác động đến tình hình ổn định, phát triển của một quốc gia. Chính vì
thế nghiên cứu về những thành phần cơ cấu thu nhập công, cùng với những nhân tố tác
động đến thu nhập công sẽ là tiền đề để chúng ta nắm bắt được những kiến thức sâu hơn
về thu nhập công nói chung để từ đó sử dụng nó một cách hợp lý hơn.
Trong phạm vi bài làm, nhóm chúng em xin đưa ra phân tích, làm rõ một số nhân


tố cơ bản ảnh hưởng đến thu nhập công hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Từ
đó phản ánh thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thu nhập
công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP CÔNG
1. Khái niệm thu nhập công
Về bản chất, thu nhập công là quá trình Nhà nước sử dụng quyền lực để huy
động một bộ phận của cải xã hội hình thành nên các quỹ tài chính Nhà nước nhằm đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Đó là hệ thống các quan hệ kinh tế và phi kinh tế phát sinh trong quá trình hình
thành nên các quỹ tài chính của Nhà nước .
- Những quan hệ kinh tế: là những quan hệ dựa trên cơ sở trao đổi và có sự hoàn
trả.
- Những quan hệ phi kinh tế: là những quan hệ được xây dựng từ nghĩa vụ công
dân và không có sự hoàn trả.
Thu nhập công được xây dựng trên nền tảng kinh tế đó là sự trao đổi giữa các
nghĩa vụ: các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ trích chuyển một phần thu nhập vào Ngân
2


sách nhà nước để hình thành các quỹ tài chính của Nhà nước đổi lại nhà nước có nghĩa
vụ sử dụng hiệu quả các nguồn thu nhập này, tức là sử dụng hiệu quả các quỹ Tài chính
của Nhà nước.
2. Đặc điểm thu nhập công
- Đặc điểm nổi bật nhất của thu nhập công là phần lớn các khoản thu nhập công
được xây dựng trên nền tảng nghĩa vụ công dân, điển hình là thuế. Ngoài ra thu nhập
công còn bao gồm các khoản thu dựa trên cơ sở trao đổi như lệ phí và phí thuộc ngân
sách nhà nước, các khoản thu do thỏa thuận như vay mượn, các khoản thu do người dân
tự nguyện đóng góp chiếm tỷ trọng không đáng kể.
- Các khoản thu không mang tính bồi hoàn trực tiếp: các tổ chức và cá nhân nộp
thuế cho nhà nước không có nghĩa là phải mua một hàng hóa hay dịch vụ nào đó của nhà

nước. Tuy nhiên, nhà nước sẽ dùng thuế nhằm tạo ra những hàng hóa và dịch vụ công và
tất cả hàng hóa và dịch vụ công sẽ được thụ hưởng bởi chính người dân trong nước. Như
thế, các khoản thu nhập công được chuyển trở lại cho dân chúng theo một cách gián tiếp
và công cộng
- Thu nhập công gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Nhà
nước thu để tài trợ cho mọi hoạt động của nhà nước tức là thu để chi tiêu công chứ không
phải là thu để kiếm lợi nhuận. Do đó thu nhập công phát triển theo các nhiệm vụ của nhà
nước.
- Thu nhập công luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các phạm
trù giá trị như giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái …chỉ tiêu quan trọng biểu hiện thực trạng
của nền kinh tế là tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ), GDP là yếu tố khách quan quyết định
mức động viên của thu nhập công. Sự vận động của các phạm trù giá trị khác vừa có tác
động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các
công cụ thu ngân sách nhà nước.
3. Phân loại thu nhập công
Phân loại thu nhập công nhằm quản lý và sử dụng các nguồn lực công phù hợp với
pháp luật và có trách nhiệm trước công chúng.
3


Căn cứ theo tính chất thu nhập:
Thu nhập công được chia thành 2 nhóm: các khoản thu thuế và các khoản thu
không phải thuế.
- Các khoản thu thuế: bao gồm các sắc thuế mà Nhà nước ban hành dưới hình thức
luật là khoản thu mang tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp, được xây dựng trên
nghĩa vụ công dân. Thuế được Nhà nước áp đặt bằng quyền lực chính trị, được thể chế
hóa bằng pháp luật các pháp nhân và thể nhân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành. Thuế
không hoàn trả trực tiếp ngang giá cho người nộp thuế mà một phần thuế đã nộp cho
ngân sách nhà nước được hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế dưới hình thức hưởng
thụ hàng hóa dịch vụ công như y tế, giáo dục, an ninh quốc phòng…tất cả mọi người đều

được hưởng các dịch vụ công cộng đó như nhau cho dù nghĩa vụ đóng góp có thể khác
nhau.
- Các khoản thu không phải thuế: bao gồm lệ phí và phí, quyên góp, vay mượn…
đây là những khoản thu mang tính đối giá( dịch vụ hàng hóa công được hưởng tương ứng
với số tiền phải bỏ ra ) và được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận giữa dân chúng và Chính
phủ. Mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu thu Ngân sách nhà nước song đây
cũng là khoản thu không thể thiếu.
Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ:
Thu nhập công được chia thành thu trong nước và thu ngoài nước
- Thu trong nước: bao gồm các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí, vay trong nước,
cho thuê công sản, khai thác và bán tài nguyên thiên nhiên, thu khác…
Thu trong nước là nguồn nội lực cơ bản giúp Chính phủ xây dựng một ngân sách
nhà nước chủ động, mọi sự dựa dẫm vào bên ngoài đều để lại những hậu quả lâu dài, nền
tài chính chỉ lành mạnh và bền vững khi nguồn thu dựa chủ yếu vào nội lực của nền kinh
tế quốc dân.
- Thu ngoài nước: bao gồm các khoản thu từ đầu tư nước ngoài, viện trợ nước
ngoài, vay nước ngoài
4


Đây là nguồn ngoại lực giúp đất nước tích tụ và tập trung vốn đầu tư vào nhiều
công trình then chốt từ đó tạo ra những bước chuyển đáng kể trong tiến trình phát triển.
Căn cứ vào nội dung kinh tế:
Thu nhập công bao gồm các khoản thu không mang nội dung kinh tế và những
khoản thu mang nội dung kinh tế
- Khoản thu không mang nội dung kinh tế: bao gồm thuế, các khoản quyên góp,
viện trợ nước ngoài và thu khác ( thu từ phạt vi cảnh, thanh lý tài sản, quà biếu tặng…)
Thuế là khoản thu chiếm tỷ trọng lớn được xây dựng trên cơ sở trao đổi nghĩa vụ
giữa công dân và nhà nước, còn quyên góp và viện trợ nước ngoài là những khoản thu
hình thành trên cơ sở tự nguyện nhỏ dần về mặt tỷ trọng. Đây là những khoản thu không

mang tính chất đối ứng với việc thụ hưởng các dịch vụ hàng hóa công của các chủ thể,
tức là không phải cứ nộp vào ngân sách nhà nước nhiều thuế hay ủng hộ cho chính phủ
nhiều…là được hưởng nhiều hàng hóa dịch vụ công hơn người khác.
- Khoản thu mang nội dung kinh tế: bao gồm lệ phí, phí, vay nợ, cho thuê công
sản, bán tài nguyên thiên nhiên…
Lệ phí và phí là những khoản thu mang tính đối giá. Là khoản thu có tỷ trọng nhỏ
hơn so thuế nhưng góp phần rất quan trọng cho quá trình nâng cao hiệu quả cung cấp và
sử dụng hàng hóa dịch vụ công đảm bảo phân phối một cách tương đối công bằng phúc
lợi công cộng cho mọi công dân trong xã hội.
Vay nợ trong và ngoài nước là khoản thu mang tính bồi hoàn, nó tích cực đẩy
nhanh tốc độ tích tụ và tập trung vốn tạo những công trình lớn khi các khoản thu từ thuế,
phí, lệ phí chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu chi đầu tư phát triển của nhà nước. Nhưng
nếu những công trình đầu tư từ vay nợ mà không mang lại lợi ích kinh tế xã hội như
mong muốn thì sẽ trở thành gánh nặng do phải trả vốn và lãi hàng năm. Do đó phải xác
định rõ vay nợ sử dụng cho mục đích gì và sử dụng nợ như thế nào
Cho thuê công sản gồm cho thuê đất, bầu trời, mặt nước, vùng lãnh thổ…là khoản
thu tương đối hấp dẫn nhưng cái giá phải trả là sự tổn hại về môi trường thiên nhiên sau
thời hạn cho thuê.
5


Thu từ bán tài nguyên thiên nhiên là những khoản thu do bán quặng, dầu thô, than,
sán vật của rừng nguyên sinh…tài nguyên thiên nhiên là nguồn lợi do thiên nhiên ban
tặng và đa phần là không thể tái tạo do đó cần phải có chính sách khai thác hợp lý.
Căn cứ vào tính chất phát sinh:
- Thu thường xuyên: bao gồm thu thuế, phí, lệ phí là các khoản thu phát sinh đều
đặn và liên tục ổn định về số lượng và thời gian thu .
- Thu không thường xuyên: bao gồm khoản vay nợ, viện trợ là các khoản thu mang
tính chất thời điểm lúc có lúc không, lúc nhiều lúc ít, không ổn định về số lượng và thời
gian thu.


PHẦN II: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU NHẬP CÔNG VÀ SỰ
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN TỐ ĐÓ ĐẾN THU NHẬP CÔNG Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1 Trình độ phát triển kinh tế
Thu nhập công chủ yếu được hình thành từ những giá trị do nền kinh tế tạo ra,
muốn thu nhập công nhiều và bền vững thì chỉ có cách duy nhất là thúc đẩy nền kinh tế
sáng tạo ra ngày càng nhiều giá trị gia tăng chứ không phải là nhà nước dùng quyền lực
ép buộc dân chúng và các tổ chức kinh tế trích chuyển thu nhập cho mình nhiều hơn.
GDP là cơ sở duy nhất và bền vững nhất của thu nhập công, mối quan hệ giữa
GDP và thu nhập công được mô tả bằng công thức:
Thu nhập công = f (GDP)

6


Mọi nguồn vay hay viện trợ chỉ đáp ứng nhu cầu tạm thời và đều phải trích từ thuế
để trả, vì vậy chăm lo phát triển kinh tế chính là chăm lo nguồn thu nhập công trong
tương lai.
Tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa quyết định đặc biệt tới các nước đang phát triển.
Nó là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo, giảm khoảng cách tụt hậu với các
nước phát triển, củng cố quốc phòng, an ninh chính trị, tạo niểm tin cho cộng đồng quốc
tế. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết thất nghiệp, tăng thu nhập và phúc lợi xã
hội cho nhân dân. Từ đó tạo đà cho nhà nước thu ngân sách nhà nước. Của cải xã hội làm
ra ngày càng tăng, thu nhập công cũng ngày càng tăng mà không tăng gánh nặng cho xã
hội.
Mặt khác, thu nhập công ngày càng tăng, nhà nước có đủ điều kiện hơn để đầu tư
cho các công trình sự nghiệp, các chương trình phúc lợi xã hội, các cơ sơ hạ tầng phục vụ
phát triển đất nước…Nhân dân được hưởng nhiều lợi ích hơn từ các công trình công đó.
Tạo cơ sở vật chất cho xã hội phát triển. Từ đó, giúp kinh tế tăng trưởng nhanh hơn, thu

nhập công lại được đảm bảo, lại là điều kiện để giúp kinh tế tăng trưởng nhanh hơn. Đó
là mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tương hỗ nhau, cùng tạo đà cho nhau phát triển. Và
ngược lại, nếu nền kinh tế chậm phát triển, tụt hậu, của cải xã hội tạo ra ít, tình trạng thất
nghiệp gia tăng thì sẽ làm giảm đáng kể thu nhập công. Muốn ổn định kinh tế thì nhà
nước lại phải tăng thêm chi tiêu công, khi mà nguồn thu nhập công không đủ bù đắp các
khoản chi tiêu công thì gây ra tình trạng mất cân đối ngân sách. Tình trạng này càng
nghiêm trọng thì sẽ dẫn đến làm tụt hậu thêm nền kinh tế, thu ngân sách quá gắt gao lại
gây ra tình trạng mất ổn định chính trị, nhân dân không tin tưởng vào nhà nước nữa. Cái
vòng luẩn quẩn này sẽ lặp lại mãi nếu không có chính sách giải quyết phù hợp.
Chính vì vậy, một nền kinh tế phát triển là mảnh đất màu mỡ cho thu nhập công
Kinh tế phát triển
tăng trưởng, là tiền đề cần thiết để phát triển xã hội. Thu nhập công cũng chính là đòn
bẩy cho nền kinh tế quốc gia đi lên.
SơĐầu
đồ mối
quan hệ giữa thu nhập công và sự phát triển kinh tế:
tư công
GDP lớn
được tăng
cường
7
Thu NSNN nhiều


Sơ đồ 1 : Thu nhập công với nền kinh tế phát triển
Kinh tế lạc hậu

Đầu tư công manh
mún, nhỏ bé và
kém hiệu quả


GDP nhỏ

Thu NSNN ít
Sơ đồ 2 : Thu nhập công với nền kinh tế phát triển
Thực tiễn tại Việt Nam những năm gần đây cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của sự
phát triển kinh tế tới thu nhập công. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều cảnh báo
cho rằng, thu nhập công sẽ giảm đi trông thấy khi mà theo cam kết, chúng ta phải giảm
thuế suất nhập khẩu cho nhiều mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Điều đó sẽ làm giảm
đáng kể nguồn thu cho ngân sách, lại thêm nguy cơ hàng hóa nước ngoài cạnh tranh gắt
gao với hàng nội địa. Tuy nhiên, việc giảm thu nhập công từ thuế suất thuế nhập khẩu chỉ
vào khoảng 10% tổng thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, còn lợi ích đối với nền kinh tế
khi gia nhập WTO là lớn hơn nhiều. Những năm trước đây, khủng hoảng tài chính Mỹ
lan ra toàn cầu làm nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Bởi sự phát triển
quá nóng những giai đoạn trước mà dẫn đến lam phát phi mã, chính phủ phải sử dụng
đến những biện pháp kinh tế vĩ mô có tính tạm thời để giảm lạm phát. Đẩy mạnh tỉ lệ dự
trữ bắt buộc, tăng lãi suất sàn, các ngân hàng phải nâng mức lãi suất cho vay lên cao, đến
8


24%. Nhà đầu tư và người đi vay khốn đốn và giảm các hoạt động đầu tư. Kim ngạch
xuất khẩu năm 2014 ước tính đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2013. Cán cân
thương mại không đều. Bội chi ngân sách nhà nước là 236.000 tỷ đồng, bằng 6,6% GDP.
Đến năm 2014, dự kiến mức bội chi ngân sách nhà nước sẽ là 5,3% GDP, thu ngân sách
nhà nước giảm mạnh. Trong 6 tháng đầu năm 2014 ước đạt 78.800 tỷ đồng, lũy kế đến
nửa đầu tháng 6 ước đạt 280.650 tỷ đồng, bằng 52,1% dự toán cả năm. Trong đó thu nội
địa bằng 52,1% dự toán năm. Thu từ dầu thô đạt 54.400 tỷ đồng, bằng 63,9% dự toán
năm. Thu từ xuất nhập khẩu đạt 77 tỷ đồng, bằng 50% dự toán năm. Nhưng tổng chi
ngân sách nhà nước đạt 492.400 tỷ đổng, bằng 48,9% dự toán năm cho thấy mức thâm
hụt ngân sách ở nước ta. Thu ngân sách nhà nước đang bị đè nặng bởi khủng hoảng kinh

tế và các chương trình phát triển nền kinh tế. Chính phủ phải đưa ra hai gói kích cầu để
kích thích nền kinh tế, kích thích tiêu dùng trong xã hội và tăng thu nhập công lên. Tuy
nhiên, hiệu quả của hai gói kích cầu này vẫn chưa thể giải quyết hết sức ép đè nặng lên
thu nhập công. Nền kinh tế tăng trưởng chậm với GDP dự đoán không vượt quá 5% đã
đang là thách thức với thu nhập công của nước ta. Một khi dòng vốn FDI chảy yếu đi và
mức giải ngân yếu kém như hiện nay, thì nhà nước lại càng phai đẩy mạnh chi tiêu công
thêm để giải quyết các nhiệm vụ kinh tế chính trị của mình. Cho thấy rằng, giải quyết tốt
quan hệ giữ thu nhập công và sự phát triển kinh tế, tăng cường phát triển kinh tế chính là
yếu tố tác động mạnh mẽ đến thu nhập công, làm cho ngân sách nhà nước giảm bội chi
quá mức, ổn định trong thời kỳ biến động.
2. Trình độ hiện đại trong thanh toán và hạch toán
Khi trình độ hiện đại trong thanh toán và hạch toán gia tăng, thu nhập công cũng
sẽ tự động tăng theo mà không cần điều chỉnh mức thu vì lúc đó mọi khoản thu và chi
phí của mọi tổ chức và cá nhân được ghi chép và phản ánh minh bạch hơn, nên quá trình
Nhà nước động viên một phần thu nhập của nhân dân cũng chính xác và công bằng hơn,
đặc biệt trong quản lý và thu thuế. Vì trong thu nhập công, thuế chiếm hơn ¾ (70%) tổng
thu ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Thuế là khoản thu không ngang giá và không bồi
hoàn trực tiếp của Nhà nước đối với các tổ chức và công chúng. Do đó, cần sự hỗ trợ từ
9


nhiều lĩnh vực để bảo đảm tính nhanh chóng, chính xác và công bằng của quá trình thu
nhập công. Trình độ thanh toán và hạch toán càng hiện đại, thì nhà nước có thể giảm và
kiểm soát phần nào sự thất thoát trong thu ngân sách, tăng thu ngân sách và đảm bảo
công bằng giữa các chủ thể trong xã hội. Tăng nguồn động viên vào ngân sách nhà nước
và làm lành mạnh hóa đời sống kinh tế- xã hội.
Trình độ hiện đại trong thanh toán và hạch toán được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, tính hiện đại trong công nghệ thanh toán thể hiện trước hết ở sự phong
phú đa dạng của các phương tiện thanh toán, loại hình thanh toán, trình độ công nghệ, sự
phát triển của các tổ chức tài chính trung gian cung cấp dịch vụ và thói quen của dân

chúng. Xu hướng chung khi mà nền kinh tế các phát triển thì tỷ trọng thanh toán không
dùng tiền mặt trong nền kinh tế càng tăng, theo đó thu nhập công cũng tăng lên.
Cuối tháng 8-2007, thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị 20/2007/CT-TTg về
thực hiện chi trả lương các đối tượng được hưởng lương từ nguồn ngân sách Nhà nước
qua tài khoản từ đầu năm 2008. Lợi ích của việc chi trả lương qua tài khoản không chỉ
dừng lại ở việc góp phần hạn chế và ngăn chặn được tình trạng tham nhũng vì kiểm soát
được nguồn thu của cán bộ, công nhân viên chức qua tài khoản, mà ý nghĩa của nghiệp
vụ này còn rộng lớn hơn. Đó là tiết kiệm nhân lực và tiết kiệm hàng loạt chi phí cho các
đơn vị chi trả lương, tiết kiệm chi phí cho hệ thống Kho bạc Nhà nước và tiết kiệm thời
gian cho người hưởng lương…
Bên cạnh đó, trong kế hoạch phát triển đề án đẩy mạnh thanh toán không dung tiền
mặt mặt tại Việt Nam giai đoạn 2015-2020 được NHNN đặt ra nhằm hiện thực hóa một
trong những mục tiều đã được nêu trong Đề án Thanh toán không dung tiền mặt của
Chính phủ , đó là đến năm 2020, 95% cán bộ hưởng lương ngân sách được trả lương qua
tài khoản. Nếu làm được điều này thì rõ ràng hiệu quả chung mà cả nền kinh tế tiết kiệm
được thật sự là rất lớn. Bên cạnh đó, cũng chính vì nhận thấy hiệu quả của dịch vụ thanh
toán này mà các đơn vị tiên phong chính là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
đặc biệt là các doanh nghiệp có đông công nhân, đã chủ động phối hợp với các Ngân
hàng thương mại thực hiện hoạt động không trả lương bằng tiền mặt cho người lao động
10


từ nhiều năm qua. Bởi vì tiết kiệm các chi phí trong chi trả lương cũng đồng nghĩa với
việc nâng cao sức mạnh cạnh tranh, vì có thể giảm chi phí, giảm giá thành, tăng lợi
nhuận. Từ những lợi ích đó mà thu nhập công tăng lên.
Theo số liệu mới nhất đến đầu tháng 7/2015 cho thấy, số đơn vị thực hiện trả
lương qua tài khoản đạt trên 35.600 đơn vị với số người nhận lương đạt gần 2,32 triệu
người, tương đương mức tăng hơn 2 lần so nửa đầu năm 2014. Số lượng các máy ATM
được lắp đặt mới cũng tăng mạnh trong thời gian qua khi đạt 10.900 máy, tăng 2.230
máy so với cuối năm 2014.

Ngoài tiện ích thông thường, nhiều dịch vụ mới cũng được triển khai mở rộng và
nhờ đó, thay vì chỉ thực hiện rút tiền, chủ các tài khoản có thể mua sắm hàng hoá, dịch
vụ qua mạng, đặt vé máy bay... với hình thức thanh toán lương mới này, các cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp vừa có thể đảm bảo được ngân sách của mình không bị thất toát lại
vừa tạo được thuận lợi cho người được nhận.
Song thực tế hiện nay cho thấy rằng, khi mà năng lực đầu tư cơ sở hạ tầng ATM,
POS của các tổ chức cung ứng còn hạn chế cũng như thói quen sử dụng tiền mặt còn phổ
biến, dịch vụ trả lương qua tài khoản đến nay vẫn chưa thể phát huy hết các tiện ích cho
người sử dụng. Do đó không chỉ dừng ở việc phát triển về số lượng, Vụ Thanh toán
(NHNN) nhấn mạnh, phải sớm mở rộng kết nối các hệ thống ATM, POS của các Ngân
hàng trong hệ thống liên minh với nhau và tiến hành cải tiến quy trình tra soát, xử lý lỗi
liên Ngân hàng nhằm giảm thiểu thời gian tra soát, khiếu nại cho khách hàng. Đồng thời,
ứng dụng các giải pháp công nghệ mới làm gia tăng tính năng của thẻ thanh toán và đẩy
mạnh hợp tác với nhiều đơn vị cung ứng dịch vụ trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Về lâu dài Ngân hàng nhà nước cho rằng, Bộ Tài chính cần sớm hoàn thiện và
triển khai các đề án thành phần trong Đề án thanh toán không dùng tiền mặt của Chính
phủ, đặc biệt với nội dung khuyến khích dịch vụ này bằng chính sách thuế giá trị gia tăng
và chính sách thuế xuất nhập khẩu.
Thứ hai, trình độ hạch toán thể hiện ở phương tiện sử dụng, thể hiện ở công nghệ
và thói quen của dân chúng. Trình độ hạch toán cao sẽ làm giảm được thất thoát ngân
11


sách và phản ánh minh bạch, chính xác hơn các khoản thu và chi phí của mọi tổ chức và
cá nhân.
Ở Việt Nam hiện nay mọi cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đều hạch toán theo chế
độ kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo quyết định số
15/2006/QĐ-BTC ngày 23/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính được sửa đổi bổ sung
theo thông tư số 161/2007/TT-BTC ngày 31/12/2007 của Bộ Tài Chính. Quyết định này
đã quy định một cách cụ thể về những chuẩn mực trong công việc kế toán của các cơ

quan, tổ chức và các doanh nghiệp từ đó tạo ra sự đồng bộ trong công tác kế toán, tạo
thuận lợi cho người quản lý cũng như người sử dụng, ngăn cản không cho những cá nhận
lợi dụng sở hở trong công tác quản lý tài chính lợi dụng nó để kiếm lợi lộc cho bản thân.
Đồng thời việc ban hành Quyết định này đúng thời điểm cũng đã góp phần hạn chế tối đa
nhất những thất thoát không đáng của ngân sách Nhà nước, từ đó mà thu nhập công sẽ
lên.
Trước đây, trong thời kỳ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp việc hạch toán ở
các cửa hàng cấp 2, cấp 3, cấp 3 còn thô sơ, nhà nước quản lý không chặt chẽ làm thất
thoát trong thu, chi công, do đó đã dẫn đến tình trạng bội chi ngân sách nhà nước, lạm
phát tăng hơn 700%.
Trong gia đoạn hiện nay, nhờ ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác hạch
toán kế toán với các phần mềm tiện ích như : Misa ,fast ,bravo... công tác kế toán đã
được đơn giản hoá, chính xác và minh bạch hơn. Từ đó cung cấp các số liệu chính xác
hơn, là cơ sở để nhà nước thu thuế, tránh được tình trạng tham nhũng lãng phí quỹ công.
3. Trình độ nhận thức của dân chúng
Khi ý thức của người dân càng cao họ càng nhận ra sự cần thiết của nhà nước và
trách nhiệm của mỗi bên ( nhà nước và dân chúng ) trong tiến trình thúc đẩy kinh tế xã
hội phát triển. Khi đó, đóng góp tài chính cho Nhà nước là một nghĩa vụ hiển nhiên của
mọi công dân để cùng chia sẻ những chi phí công cộng. Đến khi đó nghĩa vụ đóng góp
tài chính cho nhà nước không còn là nặng nề nữa bởi nó là kết quả của một quá trình
nhận thức của dân chúng về trách nhiệm của mình với nhà nước.
12


Trình độ nhận thức cao của dân chúng cũng giúp Chính phủ có những hành xử
công bằng sòng phẳng hơn và cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng đạt hiệu quả kinh tế
xã hội cao hơn.
Hiện nay, Việt Nam đã được thế giới công nhận về nỗ lực xóa đói giảm nghèo, tuy
nhiên bên cạnh nghèo đói kinh tế, hiện người ta đang nghiên cứu thêm nghèo đói dưới
các góc độ nghèo tri thức và nghèo nhân văn: "Nghèo về tri thức và nhân văn cho thấy

nhiều người giàu lên có thể vẫn ít có ý thức về việc học hành, nâng cao nhận thức về văn
hóa thực thụ, dù họ có nhiều cơ hội hơn và thay vào đó, một số có thể dẫm đạp lên các
giá trị nhân văn và còn có các hành vi làm tổn hại tới cộng đồng, xã hội và lịch sử.". Vì
vậy mà vẫn tồn tại một bộ phận người dân vẫn chưa thực sự hiểu được vai trò
của tài chính công đối với sự phát triển của Xã hội, chưa nhận thức
được đầy đủ vai trò của Nhà nước. Chính vì vậy nên họ cũng chưa ý
thức được trách nhiệm và nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước. Nên đâu
đó một bộ phận người dân cố tình khai khống thuế, trốn thuế, cá biệt
có doanh nghiệp cố tình dây dưa chiếm dụng tiền thuế (do lãi suất vay
ngân hàng lớn hơn tỷ lệ phạt chậm nộp) làm thất thu Ngân sách Nhà
nước mỗi năm lên tới hàng nghìn tỷ đồng ảnh hưởng tới chương trình
phát triển kinh tế Xã hội của chính phủ ta
Hiện tượng trốn thuế đặc biệt ở nhóm giàu ở đỉnh trên cùng, mà hiện cũng khó xác
định là chiếm tỷ lệ bao nhiêu trong nhóm chiếm khoảng từ 5-10% dân số Việt Nam, có
vẻ là một trong các nguyên nhân trực tiếp của bất bình đẳng xã hội và khoảng cách giàu
nghèo đang giãn rộng trong nhóm dân số giàu có, có hiện tượng một bộ phận không nhỏ
được hưởng lợi từ hệ thống chính trị, quyền lực và đang đảm bảo lợi thế xã hội giàu có
của mình bằng việc trốn thuế, đặc biệt là thuế thu nhập và lợi tức cá nhân. Hiện tượng
này cũng xảy ra trong một bộ phận những người có quyền chức ở địa phương, nhiều
người có thể trốn thuế thu nhập, lợi tức qua việc không khai báo đầy đủ hoặc lách luật
đối với những tài sản hoặc dòng thu nhập dẫn tới tài sản của họ như buôn bán, tích trữ
địa ốc, tài chính, cổ phiếu và các tài sản có giá trị khác.
13


Hiện tượng trốn thuế thu nhập và tợi lức, mặc dù đang được kỳ vọng xử lý, đã lan
rộng từ các lĩnh vực kinh tế tới giáo dục, nơi thu nhập cá nhân khai thuế của các viên
chức ở khu vực công mới bắt đầu được xử lý giản đơn qua hình thức 'trả lương qua thẻ
tín dụng ngân hàng”.
4. Năng lực pháp lý của bộ máy nhà nước

Chính Phủ là một bộ máy do xã hội xây dựng để dẫn dắt xã hội đạt được những
mục tiêu công cộng. Do đó bộ máy này đương nhiên phải dựa trên một căn bản pháp lý
vững chắc và phải được mọi thành viên trong xã hội tôn trọng. Năng lực pháp lí của bộ
máy nhà nước được nâng cao sẽ giúp Chính phủ đặt ra và quản lí hữu hiệu các khoản thu
phù hợp thể chế và khả năng chịu đựng của doanh nghiệp cũng như của dân chúng. Đồng
thời hạn chế thất thu đến mức tối thiểu ở cả khu vực Nhà nuớc lẫn khu vực ngoài Nhà
nuớc. Qua đó góp phần nâng cao tính minh bạch trong quá trình động viên và sử dụng
một phần của cải của xã hội.
Năng lực pháp lý của nhà nước đối với thu nhập công thể hiện ở chỗ hệ thống bộ
máy thu thuế, phí, lệ phí, và các khoản thu khác hoàn thiện tới đâu, chặt chễ tới đâu, chặt
chẽ đến đâu và có hiệu quả đến đâu.
Để đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý thu thuế, Chính phủ sẽ
ban hành Luật quản lý thuế nhằm quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng nộp
thuế, cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan và bổ sung quyền cưỡng
chế thuế, điều tra khởi tố các vụ vi phạm về thuế. Chiến lược cải cách hệ thống thuế Việt
Nam từ nay đến năm 2010 cũng đặt ra mục tiêu: Các chính sách thuế phải huy động đầy
đủ các nguồn thu vào Ngân sách Nhà nước, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của
Nhà nước và giành một phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước; Thực hiện tỷ lệ động viên thuế và phí vào Ngân sách Nhà nước bình quân
hàng năm 20%-21% GDP. Thực hiện hệ thống phục vụ đối tượng nộp thuế có chất lượng
cao theo mô hình "một cửa", giảm chi phí cho cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế. Xây
dựng các quy trình, thủ tục quản lý thuế đơn giản, minh bạch.
5. Hiệu quả hoạt động của Chính phủ
14


Đối với một doanh nghiệp hiệu quả hoạt động sẽ được thể hiện thông qua các chỉ
tiêu điển hình như: Vòng quay hàng tồn kho, vòng quay vốn lưu động, tốc độ tăng tỷ suất
lợi nhuận trên doanh thu …Và ngưòi ta sẽ dùng các phương pháp so sánh để đánh giá
hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp.

Còn đối với một Chính phủ thì một Chính phủ hoạt động hiệu quả khi nó sử dụng
nguồn lực tài chính một cách thích hợp để cung cấp những hàng hoá và dịch vụ công
được xã hội chấp nhận. Do đó phải xem bộ máy Chính phủ đó có cồng kềnh hay không.
Nếu cồng kềnh thì phải tinh giảm gọn nhẹ nhưng vẫn phải đạt đuợc hiệu quả tốt nhất.
Như vậy sẽ giảm được những khoản chi tiêu không cần thiết. Hơn nữa khả năng cung
cấp hàng hoá và dịch vụ công đã đúng đắn hợp lí hay chưa. Nếu chưa đòi hỏi phải cung
cấp tốt hơn hiệu quả hơn và phải có chất luợng cho xã hội. Do vậy Chính phủ càng hoạt
động hiệu quả thì khả năng thu từ các khu vực kinh tế và dân cư càng cao. Ngược lại,
khả năng thu từ dân cư càng cao thì sẽ gia tăng tiềm lực tài chính để phát triển bề rộng và
chiều sâu những hoạt động của Chính phủ. Cho nên năng lực bộ máy Nhà nước hoạt
động hiệu quả thì tình hình buôn lậu cũng như tìm mọi cách giảm lợi nhuận trước thuế để
tránh nộp thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ không còn. Và như thế khả năng thu ngân sách
sẽ đuợc hiệu quả hơn.
Nhưng trên thực tế thì Chính phủ sử dụng nguồn lực tài chính vẫn chưa thích hợp.
Ví dụ cụ thể là việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cuối tháng 2 năm 2008,
Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội bản báo cáo dài 20 trang chính thức + 147
trang phụ lục về "Tình hình phân bổ, sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ thời gian
qua và dự kiến kế hoạch năm 2009". “Thời gian qua” được tính từ năm 2003 đến hết
ngày 31/12 năm 2008. Trong 5 năm đó, số vốn đã giải ngân của các bộ, ngành và địa
phương đạt 59.812 tỷ đồng, bằng 54% tổng số vốn trái phiếu Chính phủ của cả giai đoạn
2003-2010. Cũng trong giai đoạn này, Bộ Giao thông Vận tải chỉ có 5/181 dự án cơ bản
hoàn thành. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có 19/62 dự án cơ bản hoàn
thành.Riêng trong năm 2008, kết quả giải ngân đạt khoảng 21.342,4 tỷ đồng, bằng 73,4
% kế hoạch. Trong đó kết quả giải ngân các dự án y tế tuyến huyện chỉ đạt 24,3% kế
15


hoạch, các dự án giáo dục cũng chỉ đạt 41% kế hoạch. Trong số nhiều dự án chậm tiến
độ có Quốc lộ 32 đoạn Nam Thăng Long – Diễn khởi công từ tháng 10/2004 nhưng hiện
còn 250 hộ dân chưa giải phóng mặt bằng (trong đó có 150 hộ chưa có phương án tái

định cư). Mỗi năm, ngân sách bội chi 5%, chưa tính tới khoản phát hành trái phiếu Chính
phủ và các khoản đầu tư ngoài ngân sách. Nghĩa là Việt Nam phải tiếp tục đi vay cả bên
ngoài lẫn trong nước, trong khi tiền lại tồn đọng trong kho bạc, ngân hàng. "Đây là sự
lãng phí ghê gớm", Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Trương Thị Mai nói. Cho
rằng phát hành thêm trái phiếu để làm đường ôtô về các xã miền núi như cách làm lâu
nay là không khả thi, vì chỉ cần một trận mưa là đường sá trôi hết, dẫn đến sự “lãng phí
ghê gớm” đó. Song theo Ủy ban Tài chính - Ngân sách thì ngân sách Nhà nước đã “gánh
nặng” khi con số tổng mức đầu tư tăng cao do nhiều dự án kéo dài cùng với sự biến động
của giá cả: năm 2003, tổng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ là 63.064 tỷ đồng, đến 2006
tăng lên 110 nghìn tỷ đồng và đến nay số vốn này dự kiến lên tới 230.496 tỷ đồng. Chính
phủ cũng tính toán, nhu cầu nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho giai đoạn 2003-2010 và
một số năm sau là 385.414 tỷ đồng.“Tình trạng giải ngân chậm, một số dự án, công trình
kéo dài, gây lãng phí, hiệu quả thấp, làm tổng mức đầu tư tăng cao và không có điểm
dừng…”, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đánh giá. Chỉ rõ “hậu quả nghiêm trọng cho xã
hội” như đã nói trên có nguyên nhân từ trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương còn rất
thấp. Trước đề nghị xin phát hành thêm 11.500 tỷ đồng trái phiếu trong năm 2009 của
Chính phủ để kích cầu, có ý kiến cho rằng “chưa có cơ sở khoa học thì đừng để năm nào
cũng ùn lên rồi lại chuyển cho năm sau”. "Chúng ta làm vài năm nữa thì nghỉ nhưng con
cháu phải trả nợ như thế nào", ông đặt câu hỏi.Và nỗi quan ngại của các đại biểu “thay
mặt nhân dân quyết định việc tiêu tiền” càng tăng thêm khi năm nay, ước tính ngân sách
Nhà nước có thể giảm thu từ 50.000-90.000 tỷ đồng, và sức ép tăng chi cho an sinh xã
hội ngày càng lớn. Nhưng khi đã chỉ ra hiệu quả “chưa đạt được như mong muốn”, Ủy
ban Tài chính - Ngân sách vẫn “đề nghị Chính phủ tính toán, có thể tăng mức phát hành
đến 20.000 tỷ đồng” trái phiếu Chính phủ. Chủ nhiệm Phùng Quốc Hiển giải thích, qua
giám sát, nhiều dự án giao thông, thủy lợi tính đồng bộ chưa đảm bảo do bố trí vốn
16


không đủ, làm cầu mà không có đường lên cầu, có hồ chứa nước nhưng lại thiếu kênh
dẫn nước…nên cần tập trung bố trí đủ vốn để hoàn thành dứt điểm.Tuy nhiên, điều này

vẫn chưa thuyết phục được các vị đại biểu khi thực tế năm 2008 đã cắt giảm 25% tổng
vốn trái phiếu Chính phủ nhưng giải ngân vẫn không hoàn thành.

PHẦN III: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THU NHẬP CÔNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1. Thực trạng thu nhập công ở Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới năm 2014, kinh tế Việt Nam vốn dễ bị thương tổn
bởi các cú sốc bên ngoài sẽ càng gặp nhiều khó khăn và thách thức. Các dự báo về tốc độ
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cho năm 2014 dù co tăng nhưng vẫn ở mức thấp hơn
hẳn so với tốc độ tăng trưởng các năm trước (dự báo xoay quanh mức 5%).
Trong bối cảnh đó, dự báo năm 2014 sẽ là năm có rất nhiều áp lực và thách thức
đối với thu ngân sách Nhà nước.
Đầu tư công được coi là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển của nền kinh
tế. Tuy nhiên, do hiệu quả thấp, vốn đầu tư nhà nước luôn đi cùng lãng phí và tốn kém.
Tình hình này đã được cảnh báo từ lâu nhưng vẫn chưa được cải thiện. Trong một báo
17


cáo mới đây, các chuyên gia Bộ KH-ĐT cho biết, tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
vẫn dựa vào việc gia tăng vốn đầu tư và thâm dụng nguồn tài nguyên một cách thái quá.
Theo dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2014, dự toán thu là 296,7 nghìn tỷ
đồng, trong đó thu nội địa từ dầu thô là 233 nghìn tỷ đồng. Cho thấy, cơ câu thu của
nước ta vẫn còn dựa khá nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên là dầu mỏ, khi mà
nguồn thu này luôn biến động khó lường trên thế giới. Vì vậy khi giá dầu thô giảm đã
ảnh hưởng làm giảm thu ngân sách nhà nước. Theo dự toán thu từ dầu thô trên cơ sở giá
dầu thô thanh toán bình quân năm đạt 70 USD/ thùng. Tuy nhiên từ đầu năm cho đến nay
giá dầu thô trên thế giới luôn dao động ở mức 40-50 USD/ thùng, dự báo nếu giá dầu thô
bình quân cả năm 2014 đạt khoảng 50 USD/thùng (giảm 20 USD/thùng so với giá dự
toán) thì thu ngân sách từ dầu thô giảm khoảng 6% so với dự toán; thu nội địa từ Nhà
máy lọc dầu Dung Quất giảm khoảng 0,3% so với dự toán. Mặc dù giá dầu thô hiện đang

có dấu hiệu nhích lên, nhưng giá dầu thanh toán bình quân của 3 tháng đầu năm 2014 chỉ
đạt 42,7USD/thùng, giảm 27,3USD/thùng so với giá tính dự toán và giảm
53,8USD/thùng so với cùng kỳ năm 2013. Vì vậy, dù sản lượng dầu thanh toán ước đạt
3,5 triệu tấn (bằng 22% sản lượn kế hoạch), thu ngân sách từ dầu thô chỉ ước đạt 16,1%
kế hoạch.
Ngoài lý do suy thoái kinh tế toàn cầu, cần phải nhắc đến một số yếu tố khác làm
ảnh hưởng đến thu NSNN. Đó là do thực hiện một số giải pháp miễn, giảm, giãn thuế.
Chính phủ được điều hành linh hoạt chính sách thuế và xem xét các điều kiện cụ thể để
giảm, giãn, hoãn một số thuế nhằm hỗ trợ sản xuất và thúc đẩy xuất khẩu, chủ động ngăn
ngừa sự suy giảm kinh tế trong nước. Kinh tế suy giảm, doanh nghiệp khó khăn, việc
miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn nhưng
đối với ngành thuế lại là một thách thức, con số giảm thu sẽ lên đến hàng chục tỷ đồng.
Theo báo cáo của Tổng cục thuế (Bộ Tài chính), việc thực hiện các giải pháp về
thuế làm giảm số thu ngành thuế năm 2014 khoảng 16-20 % so với dự toán được giao.
Trong khi nguồn thu ngân sách đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thì tình
trạng gian lận thuế vẫn là những thách thức đối với ngành tài chính, cho dù Luật quản lý
18


thuế đã trao khá nhiều quyền hạn cho cơ quan quản lý thuế (cơ quan thuế và hải quan)
trong việc xử lý tình trạng này.
Mặt khác nguồn thu về xuất nhập khẩu giảm cũng làm thu nhập công giảm mạnh.
Theo số liệu của Bộ Công Thương tổng kim ngạch xuất khẩu 3 tháng đầu năm nay ước
tính chỉ đạt gần 14000 triệu USD, nhập khẩu cũng giảm 42% so với cùng kỳ năm 2013
chỉ đạt gần 12000 tỷ USD. Kinh tế toàn cầu bị khủng hoảng các thị trường lớn của Việt
Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU cũng trong tình trạng suy thoái làm tăng khó khăn trong
việc đẩy mạnh và tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Khủng hoảng đã làm thị
trường xuất khẩu của Việt nam bị thu hẹp, dự kiến kim ngạch xuất khẩu có khả năng
không tăng, kim ngạch nhập khẩu sẽ còn giảm so với năm 2013 vì suy giảm kinh tế trong
nước. Bên cạnh đó Việt Nam kể từ khi gia nhập wto do cam kết hội nhập kinh tế và khu

vực nên thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt và vat hàng nhập khẩu cũng bị
giảm theo. Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng thu nhập
nhập khẩu giảm theo".
Tổng hợp tác động của các yếu tố thu ngân sách nhà nước năm 2014 có thể giảm
hơn 53000 tỷ đồng, một con số rất lớn do đó rất cần có những biện pháp để khắc phục
tình trạng trên.
2. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thu nhập công ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
Để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách năm 2015 đảm bảo nguồn lực tài
chính phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội năm 2015 cần phải kết hợp nhiều
biện pháp. Khủng hoảng kinh tế thế giới làm các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất
khẩu, đầu tư, việc làm, thu ngân sách nhà nước…đã gặp rất nhiều khó khăn vì vậy đòi
hỏi mọi người phải đồng lòng triển khai những giải pháp cấp bách mà nhiệm vụ hàng
đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế. Để ngăn chặn suy giảm kinh tế Chính phủ đã đưa ra
các giải pháp cấp bách nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô, tiếp tục kiềm chế lạm phát.
Đầu tiên là thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu. Các bộ, ngành
và các địa phương tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn vướng mắc, hỗ trợ thiết thực cho
19


doanh nghiệp và người dân duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh, nhất là những
ngành nghề, lĩnh vực là lợi thế của đất nước như nuôi trồng và xuất khẩu các mặt hàng
thủy sản, gạo, cà phê, cao su; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tìm kiếm và
mở rộng thị trường xuất khẩu các mặt hàng có kim ngạch lớn như sản phẩm chế biến, dệt
may, giày dép, đồ gỗ, sản phẩm nhựa; mở rộng thị trường du lịch và nghiên cứu việc
miễn visa cho một số nước để thu hút khách du lịch…
Triển khai ngay nhiều biện pháp tài chính, tiền tệ, đầu tư…giảm lãi suất hỗ trợ
doanh nghiệp vay vốn qua đó các Ngân hàng Nhà nước phải có các biện pháp cụ thể để
tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và

doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, như tiếp tục xem xét giảm dự trữ
bắt buộc, điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh. Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại
tệ theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định kinh tế
vĩ mô. Còn các ngân hàng thương mại thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng
các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật.
Thực hiện kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Đây không chỉ là biện pháp hỗ trợ doanh
nghiệp duy trì sản xuất, kinh doanh, đảm bảo kích cầu đầu tư và tiêu dùng mà còn đảm
bảo việc làm cho người lao động. Ví dụ năm 2009, do những bất ổn về kinh tế từ cuối
năm 2008, Chính phủ đã thống nhất dành 1 tỷ đô la (16 nghìn tỷ đồng) để sử dụng vào
mục đích kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Các chính sách hỗ trợ này được đánh giá là kịp
thời, giúp Việt Nam vượt qua được thời điểm khó khăn nhất, ngăn chặn được suy giảm
kinh tế.
Để bù đắp những khoản giảm thu ngân sách nhà nước do tác động của suy giảm
kinh tế thì ngành thuế bên cạnh việc thực hiện miễn, giảm, giãn thuế đúng, đủ theo đúng
quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh,
kích cầu đầu tư và tiêu dùng thì phải nỗ lực triển khai quyết liệt các giải pháp quản lý thu
kiểm soát chặt chẽ nguồn thu, hạn chế nợ đọng thuế, tăng cường công tác chống thất thu
20


thuế, khai thác tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước… Cơ quan thuế phải tăng
cường theo dõi, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế của các tổ chức, cá nhân, phát hiện
ngay các trường hợp kê khai không đúng, không đủ số thuế phải nộp, phát hiện kịp thời
những đối tượng có dấu hiệu gian lận để có biện pháp đôn đốc, xử lý, thu hồi kịp thời. Rà
soát, kiểm tra phân loại nợ đọng thuế, tập trung lực lượng triển khai các biện pháp thu
hồi nợ thuế để thu hồi nợ đọng, thực hiện giao chỉ tiêu thu nợ năm 2015. Một số đề xuất
cho giải pháp cải cách thuế : mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp thuế suất huy động tối đa
nguồn tài chính cho ngân sách, mở rộng các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt qua đó
điều tiêt thu nhập tăng nguồn thu , kiến nghị tăng mạnh thuế tài nguyên đặc biệt là đối

với tài nguyên là khoáng sản kim loại do đây là loại tài nguyên quý hiếm có giá trị kinh
tế cao và không tái tạo lại được, nâng cao mức thuế suất đối với khoáng sản sẽ góp phần
hạn chế việc khai thác tràn lan thúc đẩy việc khai thác tiết kiệm, hiệu quả góp phần bảo
vệ và nâng cao giá trị tài nguyên đồng thời tăng mức thu cho ngân sách.
IV. Kết luận:
Thu nhập công không chỉ mang lại lợi ích cho nhà nước cho các bộ ngành địa
phương mà còn mang lại lợi ích cho mọi tầng lớp nhân dân những người giám sát và thụ
hưởng các dịch vụ công cộng. Để nâng cao hiệu quả của thu nhập công trong giai đoạn
hiện nay là một vấn đề nhạy cảm luôn tiềm ẩn khó khăn thách thức vì vậy cần được quan
tâm chỉ đạo và có biện pháp thực hiện một cách thường xuyên có chương trình kế hoạch
cụ thể cho từng giai đoạn. Trên đây là một số giải pháp nổi bật nhằm nâng cao hiệu quả
của thu nhập công để góp phần quan trọng vào quá trình sử dụng nguồn lực tài chính nhà
nước từ đó ổn định kinh tế đảm bảo an sinh xã hội.

21


Danh sách phân công công việc:
1. Bùi Thị Quỳnh Trang – Nhóm trưởng ( Phân tích nhân tố: “Trình độ hiện đại
trong thanh toán và hạch toán” và tổng hợp,hoàn thiện bài )
2. Vũ Mỹ Linh (“Thực trạng thu nhập công ở Việt nam trong giai đoạn hiện
nay.”)
3. Phạm Hoàng Yến (Phân tích nhân tố: “Năng lực pháp lý của bộ máy nhà
nước”)
4. Lê Phương Minh ( “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của thu nhập
công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” )
5. Bùi Thị Kiều Anh ( Phân tích nhân tố: “Trình độ phát triển kinh tế”)
6. Lê Thị Huyền ( Phân tích nhân tố: “Trình độ nhận thức của dân chúng”)
7. Nguyễn Xuân Phương ( “Lý luận chung về thu nhập công” )
8. Đặng Trung Hiếu ( Phân tích nhân tố: “Hiệu quả hoạt động của Chính phủ”)

22



×