Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

tiểu luận cao học Giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở phường mỹ thới đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.7 KB, 25 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

Nghề nghiệp và việc làm một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu,
là mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia. Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước đã đạt được những kết quả nhất định
trong phát triển kinh tế như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong một số năm, giải
quyết tốt vấn đề về lương thực...Tuy nhiên Việt Nam cũng còn phải đối phó với
những thách thức to lớn trong quá trình phát triển. Một trong những thách thức đó là
tỷ lệ thất nghiệp cao, nhu cầu về việc làm đang tạo lên sức ép to lớn đối với nền kinh
tế.
Trong bối cảnh đó, việc chăm lo công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm,
đặc biệt là giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đã trở thành nhiệm vụ cơ bản
và cấp bách, đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội phải quan tâm.
Trong những năm qua, chúng ta đã có những thay đổi đáng kể trong công tác đào tạo
nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn, thúc đẩy sự chuyển biến nguồn lao động
theo hướng tích cực nhất và cũng đã đạt được những thành quả nhưng cũng còn
những bất cập nhất định.
Chính vì vậy, em chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo nghề,
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở phường Mỹ Thới đến năm 2015”
nhằm đánh giá việc thực hiện công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm ở địa bàn
trong thời gian qua, đồng thời đưa ra ý kiến, giải pháp giải quyết những khó khăn còn
vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm ở
phường Mỹ Thới đến năm 2015. Trong khuôn khổ thời gian và năng lực có hạn, bài
viết của em không tránh khỏi những thiếu xót. Em xin chân thành cám ơn những ý
kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn.


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC
LÀM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1 Môt số khái niêm


a.

Khái niệm về nguồn lao động nông thôn
Nguồn lao động nông thôn là một bộ phận dân sốsinh sống và làm việc ở
nông

thôn trong độ tuổi lao động theo qui

định của pháp luật(nam từ 16 đến 60 tuổi,

nữ từ
16 đến 55 tuổi) có khả năng lao động.
Lực lượng lao động ở nông thôn là bộ phận của nguồn lao động ở nông thôn
bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, đang có việc làm
và những người thất nghiệp nhưng có nhu cầu tìm việc làm.
Tuy nhiên do đặc điểm, tính chất, mùa vụ của công việc ở nông thôn mà lực
lượng tham gia sản xuất nông nghiệp không chỉ có những người trong độ tuổi lao
động mà còn có những người trên hoặc dưới độ tuổi lao động tham gia sản xuất với
những công việc phù hợp với mình.Từ khái niệm nguồn lao động ở nông thôn mà ta
thấy lao động ở nông thôn rất dồi dào, nhưng đây cũng chính là thách thức trong việc
giải quyết việc làm ở nông thôn.
b.

1 TT"I f

Ạ•

_

Khái niệm về việc làm


I>

Trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung người lao động được coi là có
việc làm và được xã hội thừa nhận là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc
doanh, khu vực nhà nước và khu vực kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó nhà nước bố trí
việc làm cho người lao động.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành


phần, quan niệm về việc làm đã thay đổi một cách căn bản. Theo điều 13 chương 3
Bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1994 đã ban hành:
"Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận
là việc làm". Với quan niệm về việc làm như trên sẽ làm cho nội dung của việc làm
được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết
việc làm cho nhiều người. Điều này được thể hiện trên hai góc độ:
-

Thị trường việc làm được mở rộng bao gồm tất cả các thành phần kinh

tế, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và cũng không hạn chế về mặt không
gian (trong nước, ngoài nước....).
-

Người lao động được tự do hành nghề được tự do liên doanh, liên kết

tự do thuê mướn lao động theo pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước để tự tạo
việc làm cho mình và thu hút thêm lao động. Để hiểu thêm về khái niệm việc làm ta
cần hiểu thêm hai khái niệm sau:
-


Việc làm đầy đủ: theo định nghĩa việc làm đầy đủ trong cuốn sử dụng

lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam (trang 23- Nhà xuất bản sự thật), thì việc
làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu việc làm của bất cứ ai có khả năng lao động trong
nền kinh tế quốc dân. Hay nói cách khác việc làm đầy đủ là trạng thái mà mỗi người
có khả năng lao động, muốn làm việc thì đều có thể tìm được việc làm trong thời gian
ngắn.
-

Thiếu việc làm: được hiểu là không tạo được điều kiện cho người lao

động sử dụng hết thời gian lao động của mình.
c.

Thất nghiệp
Theo khái niệm của Tổ chức lao động Quốc tế, thất nghiệp (theo nghĩa chung

nhất) là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn có việc làm
nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công nhất định.
Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,


không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm.
Theo quan niệm nêu trên, tình trạng thất nghiệp của nền kinh tế được đánh giá
bằng chỉ tiêu “Tỷ lệ thất nghiệp”. Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa số
người thất nghiệp và lực lượng lao động trong độ tuổi lao động.
Như vậy, thất nghiệp là hiện tượng có sự tách rời , không phù hợp giữa sức lao
động với tư liệu sản xuất mà sức lao động lại gắn với từng con người cụ thể vì thế
nên người thất nghiệp là người không có phương tiện để sản xuất và đang muốn tìm

việc làm.
1.2 Sự cần thiết của đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn
a.

Đào tạo nghề tạo nguồn nhân lực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện

đại hóa
Đào tạo nghề là quá trình trang bị kiến thức nhất định về chuyên môn nghiệp
vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một công việc nhất định, giúp
cho người lao động năng cao trình độ và kỹ năng của mình trong công việc hiện tại,
giúp cho người lao động thực hiện có hiệu quả hơn chức năng và nhiệm vụ của mình.
Ngoài ra nó còn mở ra cho họ một bước phát triển mới trong tương lai, giúp họ hoàn
thiện hơn trên mọi phương diện.
Đào tạo nghề là một trong những nội dung phát triển nguồn nhân lực để phục
vụ cho công cuộc phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nguồn nhân lực mà có trình độ cao thì sẽ tạo ra một nền khoa học công nghệ hiện
đại, có khả năng khai thác một cách tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên và mở rộng
ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hiện đại, phục vụ cho sự phát triển ngày cành mạnh
mẽ của đất nước. Ngược lại nguồn nhân lực mà có trình độ thấp thì việc nghiên cứu
và ứng dụng các công nghệ mới sẽ gặp nhiều khó khăn, tài nguyên thiên không được
khai thác tốt, gây lãng phí, dẫn đến kết quả là đất nước sẽ ngày càng tụt hậu so với


các nước trên thế giới.
Như vậy ta có thể thấy là việc đào tạo nghề nâng cao trình độ cho nguồn nhân
lực là một yêu cầu cấp thiết và việc đào tạo nghề, tạo việc làm cho lao động nông
thôn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo nguồn nhân lực nông thôn có chất
lượng là một thực tế khách quan không thể không quan tâm, để góp phần phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.

b.
Nhu cầu của việc làm đáp ứng trong thời kỳ mới
Việc làm đang là một vấn đề kinh tế - xã hội gay gắt ở nước ta, đặc biệt là ở
các thành phố. Theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, năm 1998 cả
nước có 9,4 triệu người thiếu việc làm và 856 nghìn người thất nghiệp. Tỉ lệ thiếu
việc làm ở vùng nông thôn là 28,2%. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,8%. Bối cảnh
kinh tế xã hội sinh ra nhiều mâu thuẫn giữa khả năng tạo việc làm còn hạn chế trong
khi đó nhu cầu giải quyết việc làm ngày càng tăng, tất yếu dẫn đến tình hình một bộ
phận lao động chưa có việc làm. Lao động ở nước ta chủ yếu là lao động phổ thông,
lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp, bộ đội xuất ngũ, công nhân giảm biến chế, ...
Trong khi đó nhu cầu hiện nay thì đòi hỏi lao động lành nghề, lao động có trình độ,
chuyên môn kỹ thuật cao.
Nhà nước và nhân dân ta đang tìm mọi biện pháp để giải quyết việc làm và sử
dụng hợp lí sức lao động, vì nguồn nhân lực có ý nghĩa cực kì quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta.
1.3 Cơ chế, chính sách xã hội về đào tạo nghề, giải quyết việc làm hiện nay
-

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI xác định:

Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hóa các nguồng lực và phương thức
xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục
dạy nghề và giải quyết việc làm để xóa đói, giảm nghèo bền vững; tạo điều kiện và


khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát
nghèo.( Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XI, trang 229 )
-


Nghị quyết của Tỉnh Đảng bộ An Giang lần thứ IX tiếp tục xác định:

Tập trung phát triển kinh tế theo chiều sâu, nâng cao chất lượng, hiệu quả và
đạt tốc độ tăng trưởng cao trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và
nguồn lực có chất lượng cao. Cải thiện môi trường đầu tư, huy động và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Tiếp
tục phát triển mạnh các thành phần kinh tế, nâng cao vai trò của kinh tế nhà nước,
kinh tế hợp tác. Tạo bước chuyển biến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội. Tạo việc làm đi đôi với giảm nghèo bền vững; nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo; làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Phát triển, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; ngăn chặn đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Đẩy
mạnh phát triển khoa học và công nghệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, hạn chế tác động xấu biến đổi khí
hậu. ( Văn kiện ĐHĐB Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IX, trang 75 )
-

Nghị quyết của Đảng bộ thành phố Long Xuyên lần thứ X xác định:

Tiếp tục giảm tỷ lệ hộ nghèo thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, phát triển hài
hòa khu vực nội thành và ngoại thành, chú trọng tạo việc làm và hỗ trợ người mất
việc làm. Xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh, ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã
hội. Phát triển khoa học - công nghệ. Cải thiện điều kiện chăm sóc sức khỏe của nhân
dân. Phát triển, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của địa
phương. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. ( Văn kiện ĐH Đảng
bộ TP Long Xuyên lần thứ X, trang 41 )
-

Quán triệt quan điểm của Đảng, căn cứ vào đặc điểm kinh tế - xã hội

của phường Mỹ Thới, Nghị quyết Đảng ủy phường Mỹ Thới lần thứ XII xác định:

Giới thiệu việc làm cho 600 lao động/năm. Giảm tỷ lệ hộ nghèo vào cuối nhiệm kỳ


còn 0,5 - 0,75% (theo chuẩn nghèo mới). Thực hiện hoàn thành 98% chương trình y
tế quốc gia; duy trì nâng chất chuẩn quốc gia về y tế, hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên
dưới 1,1% ; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng đến cuối nhiệm kỳ còn 12%. ( Văn kiện ĐH
Đảng bộ phường Mỹ Thới lần thứ XII, trang 9 )
-

Các chính sách cho người lao động theo Đề án 1956

Lao động nông thôn thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công
với cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi đất
canh tác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề
dưới 3 tháng) với mức tối đa 03 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo
từng nghề và thời gian học nghề thực tế); hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đồng/ngày
thực học/người; hỗ trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa
không quá 200.000 đồng/người/khoá học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15
km trở lên;
Lao động nông thôn thuộc diện hộ có thu nhập tối đa bằng 150% thu nhập của
hộ nghèo được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề
dưới 3 tháng) với mức tối đa 2,5 triệu đồng/người/khóa học (mức hỗ trợ cụ thể theo
từng nghề và thời gian học nghề thực tế);
Lao động nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ
cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 02 triệu đồng/người/khóa học
(mức hỗ trợ cụ thể theo từng nghề và thời gian học nghề thực tế);
Lao động nông thôn học nghề được vay để học theo quy định hiện hành về tín
dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao động nông thôn làm việc ổn định ở nông thôn
sau khi học nghề được ngân sách hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản vay để học nghề;
Lao động nông thôn là người dân tộc thiểu số thuộc diện được hưởng chính

sách ưu đãi người có công với cách mạng, hộ nghèo và hộ có thu nhập tối đa bằng
150% thu nhập của hộ nghèo học các khóa học trình độ trung cấp nghề, cao đẳng


nghề được hưởng chính sách dạy nghề đối với học sinh dân tộc thiểu số nội trú.
Lao động nông thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc
làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm.
Mỗi lao động nông thôn chỉ được hỗ trợ học nghề một lần theo chính sách của
Đề án này. Những người đã được hỗ trợ học nghề theo các chính sách khác của Nhà
nước thì không được tiếp tục hỗ trợ học nghề theo chính sách của Đề án này. Riêng
những người đã được hỗ trợ học nghề nhưng bị mất việc làm do nguyên nhân khách
quan thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định tiếp tục hỗ trợ học nghề để
chuyển đổi việc làm theo chính sách của Đề án này nhưng tối đa không quá 03 lần.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở
PHƯỜNG MỸ THỚI GIAI ĐOẠN 2010 - 2012
2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội phường Mỹ Thới
a.

Đặc điểm về tự nhiên
Phường Mỹ Thới là một phường ven đô của thành phố Long Xuyên nằm dọc

theo quốc lộ 91, phía Tây giáp xã Phú Thuận; phía Nam giáp phường Mỹ Thạnh, phía
đông giáp Sông Hậu, phía Bắc giáp phường Mỹ Quý. Trên địa bàn, nhiều loại hình
công ty xí nghiệp tạo công ăn việc làm, tạo điều kiện cho con dân đầu tư kinh doanh
thương mại -dịch vụ. Bên cạnh đó lĩnh vực nông nghiệp vẫn còn là thế mạnh của
phường để phát triển kinh tế. Diện tích tự nhiện 2.128ha với diện tích gieo trồng gần
1.495 ha chiếm 67%, nuôi trồng thủy sản 915 ha, công nghiệp chiếm 8%, dịch vụ
15%, nghề khác 10%. Toàn phường có 6.233 hộ với 25.033 nhân khẩu đang sinh
sống trên địa bàn 10 khóm.

Phường Mỹ Thới đang đứng trước cơ hội tiềm năng rất lớn và đan xen những
thách thức khó khăn không nhỏ, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra của đảng bộ phường lần XII
sẽ “ phát huy sức mạnh đoàn kết, dân chủ, huy động mọi nguồn lực xã hội, xây dựng


phường Mỹ Thới giàu đẹp, văn minh".
b.

Đặc điểm về kinh tế xã - hội
Đa số nhân dân sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp càng phát

triển đi vào chiều sâu theo hướng thâm canh đa dạng hóa cây trồng vật nuôi; hình
thành các vùng chuyên chanh lúa Nhật, lúa cao sản phục vụ thiết thực nhu cầu tiêu
dùng và chế biến xuất khẩu. Khuyến khích đầu tư mở rộng 61 ha diện tích ao nuôi
hầm cá theo hình thức công nghiệp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất từ
đó giảm chi phí tăng thu nhập cho nông dân bình quân 70 triệu đồng/ ha/năm. Mở
rộng khu công nghiệp kêu gọi chủ đầu tư xây dựng 6 nhà máy, xí nghiệp trong khu
công nghiệp, thu hút giải quyết việc làm cho 2.500 lao động, dịch vụ đang phát triển
có 315 cơ sở, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp.
2.2 Thực trạng công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hôi ở phường Mỹ Thới và những vấn đề đặt ra
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.2.1.1.
a.

Kết quả

Về chỉ đạo tổ chức thực hiện
Trên cơ sở Nghị quyết 07-NQ/TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang,


Chương trình hành động số 11-CTr/TU của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Long
Xuyên, chính quyền các cấp đã xây dựng kế hoạch thực hiện trên cơ sở khẳng định vị
trí, tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao
động trong tình hình hiện nay trên địa bàn.
Thực hiện theo công văn số 238/PLĐTBXH-DN ngày 10/9/2012 của phòng
Lao động - TB&XH thành phố Long Xuyên về việc thực hiện một số nội dung của
Đề án "Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020". phường Mỹ Thới đã
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện phổ biến chính sách và tập trung tuyên truyền


vận động người lao động tham gia học nghề theo danh mục nghề đào tạo cho lao
động nông thôn đã được tỉnh phê duyệt. Qua đó, đã tạo được sự chuyển biến trong
nhận thức, về quan điểm, trách nhiệm của các ngành, các cấp về tầm quan trọng và
mối quan hệ giữa đào tạo nghề, giải quyết việc làm và xuất khẩu lao động.
Theo kế hoạch số 72/KH-UBND về đào tạo nghề , giải quyết việc làm năm
2013, ủy ban nhân dân phường Mỹ Thới đã tổ chức rà soát nhu cầu học nghề của
người lao động trên địa bàn để có kế hoạch cụ thể cho công tác đào tạo nghề năm
2013 ở địa bàn. Phường đã củng cố và thành lập Ban điều hành chương trình xóa đói
giảm nghèo và việc làm của phường, xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai thực
hiện đồng bộ các giải pháp tập trung công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm.
Trong đó phân công cụ thể từng thành viên trong Ban điều hành chịu trách nhiệm
bám sát địa bàn theo dõi, kiểm tra, hỗ trợ tư vấn về điều kiện, chính sách liên quan
với chương trình xóa đói giảm nghèo và việc làm.
b.

về công tác tuyên truyền vận động
Đây là nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân

dân lao động đặc biệt là các hộ nghèo về đào tạo nghề và giải quyết việc làm để họ
hiểu được tầm quan trọng của việc học nghề đối với việc làm. Thông qua đào tạo sẽ

có nghề nghiệp ổn định, tự tạo việc làm, tăng thu nhập cho gia đình, ổn định cuộc
sống, từ đó sẽ nâng cao ý thức tự vươn lên, có tinh thần tương thân tương ái, sống có
trách nhiệm với cộng đồng và tự lực vượt khó vươn lên thoát nghèo.
Nhằm thực hiện tốt chủ trương đào tạo nghề, giải quyết việc làm trong công
tác xóa đói giảm nghèo của Đảng ủy phường Mỹ Thới, thời gian qua các ban, nghành,
đoàn thể của phường phối hợp cùng 10 khóm tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nội
bộ và ngoài quần chúng nhân dân về chủ trương đào tạo nghề theo đề án 1956 của
chính phủ bằng những hành động thiết thực, cụ thể như: tờ tin Mỹ Thới, câu chuyện
truyền thanh và các buổi họp tổ dân phố. Đồng thời cũng thực hiện tốt công tác điều


tra thống kê, bình nghị công khai và cập nhật hộ nghèo theo qui định.
c.

Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động
Trong các năm qua, Phường Mỹ Thới đã triển khai thực hiện tốt các chính sách

thu hút, khuyến khích đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp (may mặc, da giầy, chế biến
thủy sản, chế biến lương thực thực phẩm...), cơ sở kinh tế, hộ gia đình mở rộng sản
xuất kinh doanh (vật liệu xây dựng, kỹ nghệ hàn tiện, sửa chữa máy móc thiết bị phục
vụ sản xuất nông nghiệp.), làng nghề truyền thống (lưỡi câu, bánh tráng) được phục
hồi và phát triển đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động.
Mặt khác, thông qua hình thức giao lưu, hội chợ việc làm nhằm cung cấp
thông tin về thị trường lao động, tạo cầu nối giữa người lao động và người sử dụng
lao động để trao đổi và giải quyết cung, cầu lao động; thông qua hệ thống các Trung
tâm giới thiệu việc làm trên địa bàn thành phố, thông qua sự hướng dẫn của người
thân để giải quyết việc làm tại các khu chế xuất hoặc khu công nghiệp ngoài tỉnh như
Bình Dương, Đồng Nai, Long An, TP Hồ Chí Minh. và giải quyết việc làm tại địa
phương từ nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc làm.
Từ năm 2006 - 2010, đã giải quyết việc làm cho hơn 2.000 lao động trên địa

bàn, bình quân mỗi năm giải quyết việc làm khoảng 400 lao động. Trong đó, giải
quyết việc làm trong tỉnh trên 1.400 lao động, ngoài tỉnh khoảng 600 lao động.
Vận động đi xuất khẩu lao động: trong 6 năm qua địa phương đã vận động được 26
lao động đi làm việc ở Malaysia, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật...đồng thời xét đề nghị
Ngân hàng chính sách xã hội và Ban quản lý vốn xóa đói giảm nghèo cho lao động
vay vốn với tổng số tiền 1.020.755.000đ / 77 lao động cụ thể:


+ Năm 2006: 323.600.000đ / 19 lđ
+ Năm 2007: 203.235.000đ / 12 lđ
+ Năm 2008: 272.620.000đ / 17 lđ
+ Năm 2009: 153.200.000đ / 9 lđ
+ Năm 2010: 172.000.000đ / 13 lđ
+ Năm 2011: 67.928.000đ / 7 lđ
Dạy nghề: 1457 học viên:
+ Năm 2006: 207 học viên / 120 học viên, đạt 105,3 %
+ Năm 2007: 192học viên / 250 học viên, đạt 76,8 %
+ Năm 2008: 126 học viên / 250 học viên, đạt 50,4 %
+ Năm 2009: 215 học viên / 300 học viên, đạt 71,67 %
+ Năm 2010: 272 học viên / 250 học viên, đạt 108,8 %
+ Năm 2011: 367 học viên / 255 học viên, đạt 143,9%
2.2.1.2.Nguyên nhân
Được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, y ban nhân dân phường và phòng Lao
động - Thương binh và Xã hội thành phố Long Xuyên và sự đóng góp tích cực Mặt
trận cùng các Ban, ngành, đoàn thể phối hợp với 10 khóm đã tạo điều kiện thuận lợi
trong việc thực hiện công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại địa phương.
Việc triển khai thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã tạo được sự
chuyển biến tích cực trong nhận thức của người dân, các ban ngành đoàn thể về vai
trò quan trọng của việc đào tạo nghề góp phần thực hiện tốt công tác giảm nghèo,
nâng cao mức sống, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm luôn được chú trọng giải quyết lồng
ghép với các dự án phát triển kinh tế xã hội nhằm hỗ trợ trực tiếp cho người lao động,


người nghèo có được việc làm kể cả làm việc trong tỉnh và ngoài tỉnh để có thu nhập
và nâng cao mức sống. Đồng thời thông qua các nguồn vốn tín dụng với lãi suất ưu
đãi đã góp phần tích cực giúp cho các hộ nghèo, hộ gia đình chính sách và những
người yếu thế có điều kiện và cơ hội tự tạo được việc làm để có thêm thu nhập và ổn
định cuộc sống.
Mạng lưới các trường, trung tâm dạy nghề, giới thiệu việc làm của tỉnh đóng
trên địa bàn thành phố được tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng, quy mô đào tạo nghề có
bước phát triển, ngành nghề đào tạo được gắn kết với giải quyết việc làm và thị
trường lao động. Tính liên kết cộng đồng trong đào tạo nghề và giải quyết việc làm
ngày càng cao và chặt chẽ, thông qua các mô hình do các đoàn thể tổ chức như tổ
tương trợ tiết kiệm, tổ tự nguyện góp vốn, tích luỹ nguồn quỹ để dành trợ giúp những
hội viên khó khăn, tổ giúp vốn, kỹ thuật, tự hướng dẫn nhau về kinh nghiệm sản xuất.
Thu hút sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội
với nhiều hình thức, mô hình giải quyết việc làm phát triển đa dạng ở các địa phương
góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động.
Công tác xuất khẩu lao động đã có nhiều chuyển biến khá, thông qua công tác
tuyên truyền phổ biến các chủ trương chính sách về xuất khẩu lao động đã giúp cho
người dân từng bước có ý thức và tự nguyện đăng ký; số lao động đi làm việc ở nước
ngoài đều có trình độ tay nghề cao, đăng ký làm việc tại các nước có trình độ phát
triển cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đa số đều chịu khó lao động, tiết kiệm
gởi tiền về trả nợ vay và giúp đỡ gia đình cải thiện cuộc sống; có trường hợp lao động
đã hoàn thành hợp đồng, sau khi trở về nước tiếp tục đăng ký đi lần hai.
Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích đào tạo nghề, học nghề, giải quyết việc
làm, xuất khẩu lao động cũng như giảm nghèo được ban hành đồng bộ đã phát huy
được hiệu quả của công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động và
giảm nghèo trên địa bàn thành phố.



Đây là kết quả của sự điều hành, phối hợp và lồng ghép khá tốt giữa các chính
sách hỗ trợ chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và việc làm với các chính
sách phát triển kinh tế xã hội khác dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều có tác động tích
cực đến sự thành công về công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao
động và giảm nghèo tại địa phương.
2.2.2.

Những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân:

2.2.2.I.

Những khó khăn, hạn chế

Nhìn chung, trong các năm qua do tác động của nhiều yếu tố khách quan và
chủ quan như ảnh hưởng thời tiết, giá cả thị trường luôn biến động, việc làm và thu
nhập của người lao động cơ bản và thiếu ổn định nên luôn làm biến động về tình hình
việc làm, cũng như mục tiêu đào tạo nghề giải quyết việc làm., thể hiện còn những
mặt hạn chế như sau:
Thực hiện xã hội hóa trong công tác đào tạo nghề có chuyển biến nhưng còn
chậm; tỷ lệ lao động qua đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng còn thấp do ý
thức học nghề của người lao động chưa cao nên công tác tuyển sinh của các Trung
tâm, cơ sở dạy nghề còn khó khăn không đạt chỉ tiêu.
Số người tham gia xuất khẩu lao động thời gian gần đây giảm khá nhiều, một
phần do thị trường truyền thống Malaysia không còn thu hút lao động do thu nhập
không cao hơn so với một số doanh nghiệp trên địa bàn và ở các khu công nghiệp; thị
trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan có thu nhập cao nhưng lại thu tuyển lao động
với số lượng ít và yêu cầu cao (tay nghề, ngoại ngữ, kinh phí ...). Một số địa phương
chưa coi trọng chất lượng lao động nên đã để một số đối tượng ý thức tổ chức kỷ luật

kém, không chí thú làm ăn, tiêu xài phung phí... Đăng ký tham gia đi và không bao
lâu thì trở về trước thời hạn rồi tuyên truyền phản tác dụng làm ảnh hưởng công tác
này. Tình trạng nợ quá hạn cũng gia tăng do một số người lao động thiếu trách nhiệm
đối với vốn vay đi xuất khẩu lao động, nhất là những lao động về nước trước thời


hạn, gây khó khăn cho công tác thu hồi tạo nguồn quỹ cho vay đi xuất khẩu lao động.
Chưa quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất
khẩu lao động, còn giao khoán cho cán bộ phụ trách. trong quản lý điều hành còn có
những mặt chưa sâu sát và nắm hết công việc, chưa có kế hoạch và giải pháp thực
hiện phù hợp. Cán bộ phụ trách công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm kiêm
nhiệm công tác khác nên không có thời gian, chưa nhiệt tình và sâu sát với công việc,
nhận thức còn đơn giản nên thời gian qua thiếu sự phối hợp giữa cán bộ chuyên trách
công tác này với các ngành chức năng và đoàn thể để thực hiện tốt vai trò tham mưu,
chủ động xây dựng kế hoạch giúp lãnh đạo địa phương chỉ đạo điều hành công tác có
hiệu quả. Đồng thời, chưa mạnh dạn họp tổ dân phố để công khai hoá, phê phán
nghiêm khắc những hộ rượu chè bê tha, lười lao động, thiếu trách nhiệm với con cái
để sa vào các tệ nạn, tạo gánh nặng cho xã hội
2.2.2.2.

Nguyên nhân

Nhu cầu và tỷ lệ lao động qua đào tạo trên địa bàn vẫn còn nhiểu hạn chế và
chưa hợp lý về cơ cấu. Chất lượng nguồn lao động ở phường Mỹ Thới tương đối thấp
hơn mức bình quân chung của thành phố Long Xuyên.
Thời gian đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải tập trung từ 1 đến 3
tháng, dẫn đến số lượng đăng ký học ban đầu là rất đông nhưng chỉ qua một thời gian
đào tạo đã bỏ học nhiều, không duy trì được số lượng. Mặt khác, thời gian và số
lượng học viên để mở lớp cũng không phù hợp với đối tượng có nhu cầu học nghề.
Còn thiếu sự quan tâm chỉ đạo, thiếu sự phối hợp giữa các ban ngành trong

quá trình triển khai thực hiện dẫn đến việc hạn chế mở lớp dạy nghề. Cán bộ phụ
trách công tác đào tạo nghề thiếu nghiên cứu tài liệu nên không nắm vững các chính
sách, thông tin về đào tạo nghề để tham mưu kịp thời cho lãnh đạo địa phương cũng
như việc tư vấn, cung cấp thông tin đầy đủ cho người lao động. Công tác quản lý lớp
dạy nghề, cấp giấy xác nhận học nghề còn thiếu chặt chẽ.


Nhận thức người dân chưa được nâng cao đúng mức, chưa nhận thấy được tầm
quan trọng của việc nâng cao tay nghề, cải thiện môi trường làm việc, nâng cao thu
nhập, ổn định cuộc sống. Một số người tham gia học nghề lại là lao động ch ính trong
gia đình nên việc tham gia học nghề thường hay vắng mặt, thiếu nghiêm túc.
CHƯƠNG 3
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
NGHỀ VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN Ở
PHƯỜNG MỸ THỚI ĐẾN NĂM 2015

3.1 Mục tiêu và phương hướng giải quyết vấn đề đào tạo nghề và giải quyết
việc làm đến năm 2015
a.

Mục tiêu
Trước yêu cầu to lớn của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, đòi hỏi nhu
cầu lao động có chất lượng ngày càng cao. Nên phải tập trung thực hiện công tác đào
tạo nghề gắn với nhu cầu của xã hội, trong đó chú ý đào tạo công nhân lành nghề và
bán lành nghề đối với các nghề phục vụ chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng
giảm số lao động nông nghiệp, tăng lao động làm việc ở các ngành công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu lao động và cung
ứng lao động cho các khu công nghiệp trong và ngoài tỉnh.

Từng bước nâng số lao động qua đào tạo nghề được cấp Chứng chỉ nghề hoặc
Bằng nghề (gồm bán lành nghề và lành nghề) tăng dần qua hàng năm theo cơ cấu tỷ
lệ lao động qua đào tạo hợp lý hơn, đặc biệt chú trọng đào tạo nhân lực khoa học
công nghệ, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề ở những ngành mũi nhọn như
công nghệ thông tin, viễn thông, cơ khí, gò, hàn, điện cơ, điện tử. hoặc những ngành
nghề có nhu cầu sử dụng lao động lớn như may công nghiệp, chế biến nông sản, thủy


- hải sản, xây dựng, thương mại để cung ứng lao động cho các doanh nghiệp, các khu
công nghiệp trong tỉnh, ngoài tỉnh và xuất khẩu lao động.
Hàng năm, phường Mỹ Thới dự kiến đào tạo nghề bằng nhiều hình thức cho
trên 200 người, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 50% vào năm 2015 để đáp ứng tốt
nhu cầu thị trường lao động. Đào tạo nghề cho 450 lao động nông thôn được học
nghề trong giai đoạn từ 2011 đến 2015. Tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề trong giai
đoạn này tối thiểu đạt 70%.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo việc làm, tăng thu
nhập của lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh
tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
b.

Phương hướng
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của

các cấp, các ngành và xã hội nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đẩy mạnh xã hội hóa
công tác đào tạo nghề, Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao
động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học
nghề đối với mọi lao động nông thôn, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham
gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Học nghề là quyền lợi và nghĩa vụ của lao động nông thôn nhằm tạo việc làm,

chuyển nghề, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuôc sống; quan tâm tạo điều kiện
thuận lợi cho lao động nông thôn tham gia học nghề phù hợp với sức khỏe, trình độ
học vấn, điều kiện kinh tế và nhu cầu học nghề của mình. Chuyển mạnh đào tạo nghề
cho lao động nông thôn từ đào tạo theo năng lực sẵn có của cơ sở đào tạo sang đào
tạo theo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn và yêu cầu của thị trường lao động;
gắn đào tạo nghề với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
từng vùng từng ngành, từng địa phương.


Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã tạo sự chuyển
biến sâu sắc về mặt chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng; nhằm xây dựng đội ngũ,
cán bộ, công chức cấp xã đủ tiêu chuẩn theo chức danh cán bộ, công chức, đủ trình
độ, bản lĩnh lãnh đạo, quản lý và thành thạo chuyên môn, nghiệp vụ trên các lãnh vực
kinh tế - xã hội phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Tập trung đào tạo theo danh mục đào tạo cho lao động nông thôn được UBND
tỉnh phê duyệt gồm: Trồng trọt hoa màu, làm vườn, chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi
trồng thủy hải sản, thú y, dịch vụ nông nghiệp và các lĩnh vực khác.; các ngành nghề
thủ công mỹ nghệ; kỹ thuật, công nghệ sản suất và chế biến các mặt hàng nông thủy
sản, lương thực, thực phẩm, may mặc, tiêu dùng khác, xây dựng; y tế; dịch vụ xã hội
và dịch vụ cá nhân; tiểu thủ công nghiệp và các lĩnh vực khác..
Các đối tượng tham gia học nghề là lao động nông thôn trong độ tuổi lao động
(nam từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi; nữ từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi), có trình độ học vấn và
sức khỏe phù hợp với nghề cần học. Trong đó cần chú trọng dạy nghề cho các đối
tượng thuộc diện người có công cách mạng, hộ nghèo, hộ có thu nhập tối đa bằng
150% thu nhập của hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, người tàn tật, người bị thu hồi
đất canh tác.
Các hình thức đào tạo đối với dạy nghề trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới
3 tháng thực hiện đa dạng, linh hoạt: Dạy nghề chính quy tại các cơ sở dạy nghề; dạy
nghề lưu động tại các phường, xã; dạy nghề theo hướng kèm cặp tại các làng nghề,
các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ có đăng ký dạy nghề (kết

hợp dạy lý thuyết và thực hành nghề tại cơ sở). Đối với dạy nghề trình độ cao đ ng
nghề, trung cấp nghề: Dạy nghề chính quy tại trường dạy nghề (kết hợp dạy lý thuyết
tại cơ sở dạy nghề, thực hành nghề tại các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh
doanh và dịch vụ).
Huy động tất cả các cơ sở đào tạo nghề thuộc các cơ quan ban, ngành, đoàn


thể địa phương, các trường và trung tâm đào tạo nghề của các tổ chức chính trị - xã
hội, các doanh nghiệp và các cơ cở sản xuất kinh doanh - dịch vụ có đăng ký hoạt
động dạy nghề.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nghề, giải
quyết việc làm đến năm 2015
3.2.1.

Nâng cao nhận thức của các cấp, các ban ngành, đoàn thể xã hội, của

cán bộ, công chức phường, xã và lao động nông thôn về vai trò của đào tạo nghề đối
với việc tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông
thôn:
Hàng năm, ủy ban nhân dân phường chủ động xây dựng kế hoạch, chương
trình hành động cụ thể để tổ chức thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy về công tác đào
tạo nghề cho lao động nông thôn, tổ chức triển khai và tuyên truyền, giáo dục sâu
rộng nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức
và người dân về công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Phát huy vai trò của các ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và tổ
chức xã hội các cấp, các hội nghề nghiệp thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức
và phương pháp tuyên truyền. Chủ động lồng ghép với các phong trào vận động trên
địa bàn để phát huy hiệu quả của công tác tuyên truyền, vận động với các nội dung về
các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn. Tư vấn học nghề, việc làm miễn phí và vận động các thành viên của tổ chức

mình tham gia học nghề; thực hiện tốt sự liên kết giữa nhà nước, gia đình và doanh
nghiệp trong quá trình đào tạo nghề và sử dụng lao động.
Tăng cường tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về đào tạo nghề; vai trò, vị
trí của đào tạo nghề cho lao động nông thôn đối với phát triển kinh tế - xã hội, tạo
việc làm, nâng cao thu nhập để người lao động nông thôn biết và tích cực tham gia


học nghề; nhân rộng các mô hình sáng tạo mới trong công tác đào tạo nghề cho lao
động nông thôn, biểu dương kịp thời những điển hình tiên tiến để thúc đẩy phong trào
thi đua.
Đổi mới chương trình và nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hướng nghiệp
trong các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông để học sinh có thái độ đúng
đắn về học nghề và chủ động lựa chon các loại hình học nghề phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh của mình.
3.2.2

Phát triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm
Đây là giải pháp cơ bản quan trọng nhất quyết định việc tăng giảm chỗ làm

việc trong thị trường lao động. Do vậy phải thực hiện các hoạt động nhằm giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm, tích cực chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư để tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Chuyển đổi cơ cấu cây trồng:
Phường Mỹ Thới có diện tích đất nông nghiệp tương đối lớn. Vì thế, lao động
nông thôn vốn đã dư thừa lại có nguy cơ dư thừa hơn khi việc canh tác lúa và cây
trồng hoa màu đòi hỏi ít lao động thủ công do hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật phục
vụ sản xuất, trình độ cơ giới hoá, thủy lợi hoá và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đã
tương đối hoàn chỉnh. Chính vì thế việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng là một giải pháp
tốt. Cơ cấu cây trồng cần chuyển đổi theo hướng phục hồi những cây trồng truyền

thống phù hợp với điều kiện dất đai, điều kiện tự nhiên từng vùng.
Phục hồi, bổ sung những cây trồng đòi hỏi nhiều lao động thủ công là cơ sở
nguyên liệu cho việc phục hồi và phát triển ngành nghề truyền thống. Ngoài ra chúng
ta cần thực hiện thâm canh, chuyên môn hoá những cây trồng mũi nhọn. Bởi vì trong
hoàn cảnh dư thừa lao động, ngành nghề tạm thời chưa phát triển, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng còn hạn chế...biện pháp này ít nhiều đóng góp cho việc nâng cao tỷ suất sử
dụng lao động ở nông thôn.


-

Phát triển ngành nghề mới cùng với hoàn thiện cơ sở hạ tầng:
Trong “những quan điểm chỉ đạo phát triển ngành nghề ở nông thôn" của Bộ

Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có nêu: Phát triển ngành nghề nông thôn phải
gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. Đây là hai ngành kinh tế mà trong quá trình sản
xuất có mối quan hệ chặt chẽ về nguyên liệu, lao động, thị trường và môi trường.
Phát triển ngành nghề nông thôn phải chú ý phát triển các ngành nghề mới. Kết hợp
hài hòa nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ chức và sở hữu, lựa chọn công nghệ, kết hợp
công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, thiết bị tiên tiến thủ công, cơ khí nhỏ
trong nhiều loại hình doanh nghiệp. Khôi phục, tái tạo và phát triển ngành nghề
truyền thống nhằm tạo thêm nhiều nguồn việc cho khu vực nông thôn. Các ngành
nghề trong nông thôn bao gồm công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ, hải sản, ngành
cơ khí , xây dựng và vật liệu xây dựng, các dịch vụ khoa học kỹ thuật, cung ứng vật
tư thiết bị và nguyên liệu cho sản xuất,các nghề thủ công truyền thống...
Ngoài ra, chúng ta phải quan tâm đặc biệt đến đào tạo và hoàn thiện kỹ năng
nghề nghiệp cho người lao động thành thị ở trình độ cao, thông qua việc phát triển
các trung tâm huấn luyện cao cấp ở một số địa bàn trọng điểm.
Phát triển ngành nghề, lĩnh vực có khả năng thu hút nhiều lao động phù hợp
với đặc điểm lao động thành thị. Trong đó, phát triển khu vực phi kết cấu, các doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ là điều cần quan tâm.
Xây dựng các công trình về giao thông, y tế, giáo dục, đền ơn đáp nghĩa, vui
chơi giải trí...làm tăng cầu lao động. Theo ý kiến của các nhà chuyên gia kinh tế cho
là nên sử dụng nhiều lao động thủ công ở một số khâu trong xây dựng cơ bản để giải
quyết việc làm cho người lao động. Tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng vừa làm
phát triển kết cấu hạ tầng xã hội vừa là biện pháp giải quyết việc làm.
3.2.3. Thực hiện tốt chính sách về dân số và kế hoạch hoá gia đình
Trước sức ép của sự gia tăng về dân số quá nhanh làm ảnh hưởng không nhỏ


đến sự phát triển của đất nước, chúng ta cần tiếp tục thực hiện chính sách về dân số và
kế hoạch hoá gia đình, xây dựng. Tuyên truyền, giáo dục thông qua phương tiện
thông tin đại chúng, panô khẩu hiệu. Mở rộng và nâng cao chất lượng các cơ sở dịch
vụ kế hoạch hoá gia đình.
Căn cứ vào chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình đồng thời xuất phát từ
yêu cầu công tác kế hoạch hoá gia đình trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất
nước mà đại hội Đảng IX đã đề ra, cần phải đẩy mạnh chiến lược dân số. Đạt được
điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để giải quyết vấn đề thất nghiệp và việc làm ở
nước ta.
3.2.4. Xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế xã hội góp phần phát triển nguồn
nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người
lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước...Cùng với các giải pháp giải quyết
việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một chiến lược quan trọng, lâu
dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”(Nghị định 152/1999/NĐ - CP).
Trong những năm tới phải tăng quy mô xuất khẩu lao động để đến năm 2015
sẽ có khoảng hơn 100 lao động làm việc ở nước ngoài. Để thực hiện mục tiêu trên
phải có những giải pháp thiết thực, sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, các ngành, các
địa phương đoàn thể và sự năng động của doanh nghiệp cũng như nhận thức của

người lao động
3.2.5.

Chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH) cho người lao động.
Thời kỳ đổi mới những kết quả quan trọng trên mặt trận kinh tế đã tạo tiền đề

vững chắc cho những đổi mới tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính
sách BHXH cho người lao động nói riêng. Nhằm đảm bảo chỗ dựa vững chắc về tinh
thần và vật chất cho người lao động trước những rủi ro: ốm đau, bệnh nghề nghiệp,


tai nạn lao động, nghỉ hưu...BHXH đã nhanh chóng trở thành lĩnh vực hàng đầu trong
hệ thống an sinh xã hội nước ta. Hiến pháp năm 1992 xác định: “ Nhà nước thực hiện
chế độ BHXH đối với công chức nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến
khích phát triển hình thức BHXH đối với người lao động."
Trong thời gian tới, chúng ta cần thực hiện chính sách BHXH đặc biệt là chính
sách bảo hiểm thất nghiệp. Đây là một trong những biện pháp được nhiều nước quan
tâm vì nó không chỉ đảm bảo chính sách cho cá nhân người bị thất mà còn góp phần
ổn định xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp được hình thành nhằm hỗ trợ về mặt thu nhập
cho người lao động trong thời kỳ họ bị mất việc làm, tạo điều kiện cho họ tìm việc
làm mới trong thị trường lao động. Bảo hiểm thất nghiệp vừa là công cụ góp phần
giải quyết thất nghiệp vừa là một chính sách xã hội rất quan trọng.
Chính sách BHXH góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước, thực hiện
công bằng xã hội, an toàn và tiến bộ.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I.

Kiến nghị

Để thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm trên địa bàn

phường Mỹ Thới đến năm 2015, cần:
-

Đầu tư xây dựng các chương trình, dự án trọng điểm, các khu công

nghiệp, trung tâm dịch vụ thương mại có quy mô lớn để thu hút được nhiều lao động;
-

Có chính sách đào tạo nghề, học nghề gắn liền với hỗ trợ vốn phù hợp;

-

Quan tâm, ưu đãi đối với cán bộ làm công tác Lao động việc làm ở

phường;
-

Có kế hoạch, giải pháp thiết thực và phù hợp với điều kiện thực tế để

thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, có chương trình hướng
nghiệp, dạy nghề cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, các đối tượng
tệ nạn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để họ có việc làm ổn định, ưu tiên cho vay vốn


không tính lãi hoặc lãi xuất thấp bằng nhiều hình thức thích hợp.
-

Chú trọng đến chất lượng đào tạo, đảm bảo lao động qua đào tạo có tay

nghề vững vàng để có thể kiếm được việc làm.

-

Quan tâm vấn đề trẻ chưa đủ tuổi lao động, lao động làm việc chưa qua

đào tạo tại các doanh nghiệp để có chính sách cho các đối tượng này có điều kiện
tham gia học nghề.
II.

Kết luận

Đào tạo nghề, giải quyết việc làm nâng cao chất lượng lao động là một biện
pháp quan trọng của phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội ở Việt Nam. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước kế
hoạch giải quyết việc làm được đặc trưng bởi sự lồng ghép của các kế hoạch lao động
việc làm với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để có được một xã hội
đảm bảo công bằng văn minh thì mọi người phải có công ăn việc làm, dân giàu thì
nước mới mạnh.
Sau nhiều năm thực hiện công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm trong
chương trình xóa đói, giảm nghèo chúng ta đã thu những kết quả quan trọng. Chương
trình ngày càng nhận được sự quan tâm to lớn của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự
đồng tình hưởng ứng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Giải quyết việc làm, đào
tạo nghề không còn là vấn đề của các cấp ủy Đảng và chính quyền mà đã trở thành
mối quan tâm, hiệp lực của toàn xã hội.
Đề tài này đã giúp em hiểu thêm về thực trạng giải quyết việc làm, đào tạo
nghề ở địa phương và việc thực hiện tốt công tác này góp phần thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ của địa phương, ngoài ra còn góp phần phục vụ nhu cầu công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước. Trong phạm vi đề tài này em đã có sự tìm hiểu và nghiên
cứu tuy nhiên bài viết còn nhiều hạn chế về lý luận, thực tiễn và phương pháp trình
bày. Mong thầy cô cho em những đánh giá để em có thể hoàn thiện tốt hơn trong



những bài viết lần sau.
Qua bài viết em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo của thầy Nguyễn Hữu Thịnh
đã giúp em hoàn thành tiều luận cuối khóa này./.


×