Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh thái bình luận văn ths kinh tế 60 31 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1018.25 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

Phí Thị Nguyệt

Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thái Bình

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Mã số:

60 31 01

HÀ NỘI – 2008


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một nước đang phát triển, có dân số đơng với hơn 85 triệu
dân, trong đó lao động nơng thơn chiếm 75% tổng lực lượng lao động của cả
nước. Khả năng tạo việc làm cho lao động nói chung và lao động nơng thơn
nói riêng là vấn đề lớn cịn rất khó khăn. Những năm gần đây, nhờ chính sách
đổi mới, cùng với việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xố
đói giảm nghèo- việc làm, nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh, đời sống
đại bộ phận nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Tuy nhiên, tình trạng
khơng có việc làm và thiếu việc làm, tình trạng thừa lao động ở nơng thơn có
xu hướng gia tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, xã
hội, chính trị và an ninh quốc gia. Bởi vậy, giải quyết việc làm cho người lao
động, đặc biệt là lao động nông thôn đang là một vấn đề cấp bách cả lý luận
và thực tiễn, cần được quan tâm nghiên cứu. Đây là vấn đề cơ bản có tính
trước mắt vừa có tính lâu dài đối với sự phát triển bền vững, do đó đã được
Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và coi đó là một trong những “giải


pháp có tính chiến lược ở nước ta”.
Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua
Thái Bình ln coi trọng chương trình giải quyết việc làm cho lao động trong
tỉnh, đặc biệt là lao động ở nông thôn. Song là một tỉnh kinh tế chưa phát triển
có quy mơ dân số lớn, hàng năm số người bước vào độ tuổi lao động tăng
nhanh nên vẫn cịn khá đơng những người lao động khơng có việc làm và có
việc làm nhưng không ổn định, thu nhập của lao động nông thơn cịn thấp, đời
sống của người nơng dân cịn gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, đề tài:

1


“Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Tỉnh Thái Bình” là vấn đề
thiết thực có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề “việc làm”, “giải quyết việc làm” đã được nhiều tác giả, cơ quan
nghiên cứu trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Đã có một số cơng trình
nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Vấn đề dân số - lao động - việc làm Đồng bằng sông Hồng, Luận án
Tiến sĩ Địa lý của Trần Thị Bích Hằng, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà
Nội, 2000.
- Mối quan hệ giữa dân số và việc làm ở nông thôn Đồng bằng Sơng
Hồng trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, Luận án Tiến sĩ Xã hội
học của Đặng Xuân Thao, Viện xã hội học- Trung tâm khoa học xã hội và
Nhân văn, Hà Nội, 2000.
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng cơng nghiệp hố,
hiện đại hoá ở vùng Đồng bằng Bắc bộ, Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Dỗn
Khải, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001.
- Tạo việc làm cho lao động nữ thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá,
Luận án tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Thu, Trường Đại học Kinh tế quốc dân,

Hà Nội, 2002.
- Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở các tỉnh vùng kinh tế trọng
điểm miền trung trong giai đoạn cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Luận án Tiến
sĩ kinh tế của Trần Thị Bích Hạnh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2003.
- Thị trường lao động- cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

2


- Nguồn lực và động lực phát triển kinh tế do GS.TSKH Lê Du Phong
chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
- Giải quyết việc làm cho lao động khu vực chuyển đổi mục đích sử
dụng đất, Hồng Minh, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 270, tháng 9/2005.
- Giải quyết việc làm ở Thanh Hoá - thực trạng và giải pháp, Lê Hồng
Sơn, Tạp chí Lao động và Xã hội số 291, tháng 7/2006.
- Vấn đề thừa lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay, TS. Nguyễn Bá
Ngọc, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 314+315, tháng 7/2007.
- Giải quyết về việc làm và ổn định đời sống dân cư vùng chuyển đổi
sử dụng đất nơng nghiệp, PGS.TS Nguyễn Tiệp, Tạp chí Lao động và Xã hội,
số 322, tháng 11/2007.
- Nông nghiệp - nông dân - nông thôn do TS. Đặng Kim Sơn chủ biên,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008.
- Giải quyết việc làm cho lao động nơng nghiệp trong q trình đơ thị
hố ở Hải Dương, đề tài khoa học cấp bộ năm 2007 do PGS. TS Nguyễn Thị
Thơm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2008.
- Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2007, Nxb thống kê Hà Nội, 2008.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu giải quyết việc làm cho lao động nông thơn
trên địa bàn tỉnh Thái Bình chưa được các tác giả đề cập và giải quyết vấn đề

một cách có hệ thống. Luận văn có thể góp phần hồn thiện cơ sở lý luận và
thực tiễn, đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở
Thái Bình, hy vọng góp thêm tiếng nói cùng các nhà nghiên cứu, lãnh đạo,
quản lý giải quyết vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm của lao
động nông thôn ở nước ta nói chung và Thái Bình nói riêng, từ đó đề xuất

3


những giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nơng thơn ở Thái Bình
hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm.
- Phân tích thực trạng việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho lao
động nơng thơn ở Thái Bình trong thời gian qua.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho lao
động nông thôn của tỉnh trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề việc làm
của lao động nơng thơn ở Tỉnh Thái Bình .
- Phạm vi nghiên cứu: Tạo việc làm cho lao động nơng thơn ở Thái Bình.
- Thời gian: từ 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc làm và giải
quyết việc làm để nghiên cứu đề tài này.
- Nguồn tài liệu:

+ Văn kiện của Đảng và Nhà nước, văn kiện Đảng bộ tỉnh Thái Bình
+ Sách chuyên khảo về lao động và việc làm
+ Tài liệu giải quyết việc làm của tỉnh Thái Bình từ 2000 đến 2008
- Phương pháp nghiên cứu: Ngoài phương pháp duy vật biện chứngphương pháp luận nghiên cứu của kinh tế học chính trị, tác giả cịn sử dụng
tổng hợp các phương pháp: lơgic kết hợp với lịch sử, phân tích tổng hợp,
thống kê đánh giá, so sánh…các phương pháp này được sử dụng phù hợp với
từng nội dung trong luận văn. Trong q trình tập hợp tư liệu, thơng tin và

4


nghiên cứu, xử lý số liệu, tác giả cố gắng kết hợp lý luận với thực tiễn việc
làm của lao động nơng thơn ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có thể cung cấp một số luận cứ khoa
học nhất định cho các nhà hoạch định chính sách, quản lý của địa phương có
thể tham khảo, sử dụng trong việc giải quyết việc làm.

7.Về kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương 11 tiết.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về việc làm và giải quyết việc
làm ở nông thôn
Chương 2. Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn ở Thái Bình
Chương 3. Giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho lao động nơng
thơn ở Thái Bình trong những năm tới.

5



6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
1.1 Lao động nông thôn và những nhân tố ảnh hưởng tới giải quyết
việc làm của lao động nông thôn
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, là một trong
những nguồn lực quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Đó là nguồn cung cấp sức
lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số. Điều đó bắt
nguồn từ vai trò của con người trong sự phát triển: con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển, trong các yếu tố của sản xuất, đây là yếu tố
quan trọng nhất, quyết định nhất.
Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi quy định có
khả năng tham gia lao động, khơng kể đến trạng thái có làm việc hay khơng
làm việc. Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, khái niệm này còn được gọi
là “dân cư hoạt động” có nghĩa là tất cả những người có khả năng làm việc
trong dân cư theo độ tuổi quy định. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên cả
hai mặt: về số lượng, là tổng thể những người trong độ tuổi lao động và thời
gian làm việc có thể huy động được của họ. Về chất lượng nguồn nhân lực, là
trạng thái nhất định của nguồn nhân lực, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố
cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Theo quan điểm của
các nhà khoa học Việt Nam, chất lượng nguồn nhân lực được xem là chất
lượng con người, bao gồm cả thể chất, tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực,
phẩm chất, thái độ và phong cách lao động. Chất lượng nguồn nhân lực không
những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà cịn là chỉ tiêu phản
ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng nguồn nhân

lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là nguồn lực

7


của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.
Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực thường được xem xét trên các mặt: thể
lực (tình trạng sức khoẻ, tầm vóc…) và trí lực (trình độ văn hố, trình độ
chun mơn – nghiệp vụ, năng lực phẩm chất…).
Việc quy định cụ thể về độ tuổi lao động có sự khác nhau ở các nước,
thậm chí khác nhau ở mỗi giai đoạn của mỗi nước. Điều đó tuỳ thuộc trình độ
phát triển của nền kinh tế- xã hội. Đa số các nước quy định tuổi tối thiểu của
độ tuổi lao động là 15 tuổi, cịn tối đa là có sự khác nhau (60 tuổi hoặc 64
tuổi...). Ở Ơxtraylia khơng quy định tuổi về hưu và cũng khơng có giới hạn
tuổi tối đa. Ở Việt Nam theo quy định của Bộ Luật Lao động (2002) độ tuổi
này được quy định là 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ .
Nguồn lao động: Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động
đang tham gia làm việc và những người khơng có việc làm đang tích cực tìm
kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được biểu hiện trên hai mặt số lượng và
chất lượng như nguồn nhân lực. Tuy nhiên, giữa nguồn nhân lực và nguồn lao
động có sự khác nhau. Sự khác nhau này là do trong thực tế có một bộ phận
dân số tuy trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động nhưng vì
nhiều lý do khác nhau họ chưa tham gia lao động. Đây là bộ phận ngoài lực
lượng lao động.
Lao động: Hiện nay có những quan niệm khác nhau về “lao động”, tuy
nhiên các quan niệm đều tập trung ở hai khía cạnh: thứ nhất, coi lao động là
hoạt động có mục đích, có ý thức, là phương thức tồn tại của con người. Thứ
hai, coi lao động chính là con người với sức khoẻ và trí tuệ nhằm tạo ra các
sản phẩm vật chất và tinh thần để thoả mãn các nhu cầu của đời sống con
người. Lao động không những tạo ra của cải vật chất để nuôi sống con người

mà còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về mặt thể lực và
trí lực. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đồng tình với khái niệm “lao động” đó

8


là hoạt động có mục đích có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm
phục vụ các nhu cầu của đời sống con người [13, tr. 41]. Lao động hoạt động
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh ngoài các địa điểm được quy định là thành
thị được coi là lao động nông thôn.
Việc làm: Khái niệm việc làm không phải là vấn đề mới, nhiều nhà kinh
tế học đã nêu lên quan điểm của họ về khái niệm việc làm, tuy nhiên hiểu thế
nào là việc làm điều này vẫn đang có sự khác nhau.
Theo các nhà kinh tế học lao động thì việc làm được hiểu là sự kết hợp
giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo
mục đích của con người.
Việc làm đã được tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) quan tâm ngay từ khi
nó được thành lập vào năm 1919. Hội nghị lần đầu tiên của tổ chức này đã
thông qua công ước về thất nghiệp yêu cầu các quốc gia thành viên phải báo
cáo những biện pháp thi hành chế độ chống thất nghiệp.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật.
Theo Bộ luật Lao động ở nước ta, khái niệm việc làm được xác định là:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm”[1, tr. 15].
Từ quan niệm trên cho thấy, khái niệm việc làm phải được thoả mãn ở các
điều kiện sau:
Thứ nhất: Là hoạt động lao động của con người.
Thứ hai: Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
Thứ ba: Hoạt động lao động đó khơng bị pháp luật ngăn cấm.

Như vậy, nếu một hoạt động mà chỉ tạo ra thu nhập nhưng vi phạm quy
định của pháp luật thì khơng thể coi đó là việc làm. Mặt khác, có những hoạt

9


động lao động hợp pháp, có ích nhưng khơng tạo ra thu nhập thì cũng khơng
được thừa nhận là việc làm.
Tuy nhiên, trong thực tế có những hoạt động có ích cho gia đình, cho xã
hội, khơng vi phạm pháp luật, nhưng không tạo ra thu nhập trực tiếp cho
người tham gia lao động chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của
người phụ nữ cho chính gia đình mình lại khơng được coi là việc làm. Chính
nhờ những người phụ nữ làm cơng việc nội trợ đã góp phần làm giảm một
khoản chi tiêu cho gia đình; họ tạo điều kiện cho chồng con yên tâm làm việc,
tăng thu nhập cho cả gia đình. Bởi vậy, thực chất lao động của người phụ nữ
làm công việc nội trợ ở đây cũng đã góp phần làm tăng thu nhập của cả gia
đình.
Như vậy, quan điểm về việc làm cần được hiểu một cách đầy đủ hơn là
những hoạt động có ích, khơng vi phạm pháp luật, có thu nhập hoặc tạo điều
kiện làm tăng nguồn thu cho người khác và cho xã hội.
Trong kinh tế thị trường, số lượng việc làm phản ánh cung cầu về lao
động. Ngày nay, năng suất lao động tăng đã làm ảnh hưởng rất lớn tới cầu lao
động và cơ cấu lao động. Nếu người lao động khơng tự nâng cao trình độ, kỹ
năng cho phù hợp với tính chất và cơng việc của mình thì tình trạng thất
nghiệp, thiếu việc làm sẽ khó tránh khỏi. Hậu quả của thất nghiệp và thiếu
việc làm cho chính bản thân người lao động và xã hội là rất lớn. Đối với bản
thân người lao động, họ sẽ mất tiền lương, tiền công, ảnh hưởng đến mức
sống, họ sẽ mất đi cơ hội trau dồi tri thức và hao mòn kiến thức đối với những
lao động được đào tạo. Đối với xã hội, thất nghiệp và thiếu việc làm ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh của quốc gia.

Giải quyết việc làm: chính là tạo ra các cơ hội để người lao động có việc
làm và tăng thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng
và xã hội.

10


Quá trình tạo việc làm là: (1) quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư
liệu sản xuất. Mà số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên, vốn đầu tư, tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và
khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó; (2) q trình tạo ra
số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng sức lao động phụ thuộc vào
quy mô, tốc độ tăng dân số, quy định về độ tuổi lao động và tốc độ di chuyển
của lao động. Chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục
và đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; (3) quá
trình tạo ra những điều kiện kinh tế – xã hội khác như các chính sách của nhà
nước, các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả cao, các giải
pháp để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm…
Giải quyết việc làm phải được xem xét từ ba phía: người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước. Vì vậy, giải quyết việc làm theo nghĩa
rộng là tạo ra môi trường và các điều kiện cần thiết để người lao động tự do
làm ăn, tạo ra thu nhập, tự tạo việc làm cho bản thân mình và cho người khác
theo pháp luật, phát huy đến mức cao nhất nhân tố con người với khả năng
sáng tạo vô hạn của con người. Giải quyết việc làm theo nghĩa hẹp là các biện
pháp chủ yếu hướng vào đối tượng thiếu việc làm, thất nghiệp nhằm tạo ra
chỗ làm việc cho người lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở
mức thấp.
Với lao động nông thôn, phần lớn họ làm việc trong lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp, bởi vậy đây là loại hình việc làm gắn với cây trồng, vật ni,
gắn với những công việc theo thời vụ. Do vậy, vào thời kỳ mùa màng bận rộn

thì khối lượng cơng việc nhiều và tăng đột biến. Tuy nhiên, lúc hết vụ thì khối
lượng cơng việc giảm đột ngột và có lúc người nơng dân khơng có việc làm.
Hiện nay, dân số ở khu vực nông thôn vẫn không ngừng tăng nhanh, trong khi
diện tích đất canh tác khơng tăng thậm chí có xu hướng giảm dần do công

11


nghiệp hố và đơ thị hố, mặt khác với khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất bên cạnh việc làm cho năng suất lao động khơng ngừng
tăng nhanh sẽ giải phóng một lượng lớn lao động ra khỏi ngành nông nghiệp.
Nếu không tạo đủ chỗ làm việc cho người nông dân, đặc biệt là những lúc
nơng nhàn thì sẽ dẫn đến hiện tượng người nơng dân đổ xô ra các thành phố
lớn và các khu cơng nghiệp tìm kiếm việc làm một cách tự phát gây nhiều vấn
đề phức tạp cho việc quản lý lao động, tệ nạn xã hội gia tăng.
1.1.2 Đặc điểm của lao động nông thôn
Lao động nông thôn phần lớn làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, mọi hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh của họ đều gắn liền với
đối tượng cây trồng, vật nuôi - là những cơ thể sống với những đặc điểm riêng
biệt. Vì vậy, lao động nơng nghiệp nơng thơn có những đặc điểm riêng, không
giống với lao động làm việc ở khu vực thành thị và ở các lĩnh vực kinh tế
khác.
1.1.2.1 Cung lao động tăng nhanh
Cung lao động nông nghiệp nông thôn về cơ bản là do cung dân số
quyết định. Xuất phát từ nhiều lý do: trình độ dân trí, quan niệm, phong tục
tập quán… dẫn đến một thực tế là tốc độ gia tăng dân số ở khu vực nông thôn
thường cao hơn nhiều so với khu vực thành thị.
Thực tiễn tăng dân số ở các nước trên thế giới và trong từng quốc gia
cho thấy chức năng sinh đẻ duy trì nịi giống thường khơng vận động cùng
chiều với trình độ phát triển và hồn cảnh kinh tế. Hiện tượng phổ biến là: ở

các nước phát triển có tốc độ tăng dân số và lao động tự nhiên thấp hơn các
nước đang phát triển và các nước nghèo; trong mỗi quốc gia bình quân số con
đẻ ra của một phụ nữ nông thôn trong độ tuổi sinh đẻ cao hơn ở thành thị và
bình quân số con của một phụ nữ trí thức thường thấp hơn các nhóm xã hội
khác. Đối với nước ta tình hình cũng diễn ra tương tự như vậy.

12


Khu vực nông thôn đang tập trung một số lượng lớn lực lượng lao động
của cả nước và với tốc độ tăng khoảng hơn 2,5%/năm. Với lực lượng lao
động ở nông thôn năm 2002 là 30,98 triệu người và thời gian chưa sử dụng
trung bình cả nước là 24,46%, nếu quy đổi thì sẽ tương đương với 7,5 triệu
người khơng có việc làm.
1.1.2.2 Cầu lao động tăng chậm và mang tính chất thời vụ
Tính chất thời vụ đã làm cho lao động nơng nghiệp nơng thơn lúc thì căng
thẳng, lúc thì nhàn rỗi thiếu việc làm. Do thu nhập thấp, thời gian nhàn rỗi
việc đồng áng tương đối dài, nên lao động nơng thơn đều muốn tìm kiếm
thêm việc làm. Tuy nhiên, có người tìm được việc làm có người không. Kinh
tế học hiện đại người ta gọi những người khơng tìm được việc làm thêm này
là người thất nghiệp tạm thời.
Về cơ cấu ngành kinh tế năm 2002 trong tổng số gần 31 triệu người tham
gia lực lượng lao động ở nơng thơn, có tới 75% làm việc trong ngành nônglâm- thuỷ sản, chỉ 15% làm việc trong công nghiệp và dịch vụ. Trong những
người thiếu việc làm ở nơng thơn có tới 80% tập trung trong nơng nghiệp.
Theo lý thuyết thì tăng trưởng kinh tế sẽ thu hút thêm lao động giải quyết việc
làm. Với tốc độ tăng trưởng bình qn của nơng nghiệp là 5,4 % nhưng hệ số
co dãn việc làm so với 1% tăng trưởng kinh tế của nông thôn nước ta chỉ là
0,43% trong giai đoạn 1990-2000 nghĩa là mỗi năm khu vực nông nghiệp chỉ
tạo thêm được số việc làm mới bằng 2,3% lực lượng lao động.
Cơ cấu của lao động ở nông thơn Việt Nam thể hiện tính thuần nơng.

Trong 8 vùng của cả nước ngoại trừ vùng Đơng Nam bộ có cơ cấu ngành
nghề của các hộ nông thôn khá tiến bộ 64,2% nơng nghiệp và 35,8% cịn lại là
phi nơng nghiệp, các vùng Tây nguyên và vùng núi phía Bắc cơ cấu ngành
nghề của các hộ mang tính thuần nơng nặng và chuyển dịch rất chậm, tỷ lệ

13


giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp của Tây nguyên là 91,1% và 7,1%;
vùng Đông Bắc là 88,4 và 8,6%; Tây Bắc là 93% và 5,97 [47, tr.30].
1.1.2.3 Chất lượng lao động của nơng thơn thấp
Nếu xét trên góc độ trình độ văn hố, trình độ chun mơn kỹ thuật và
thể lực của người lao động, có thể nói rằng vẫn còn khoảng cách khá xa về
mặt chất lượng lao động giữa nông thôn và thành thị. Khoảng cách này còn
lớn hơn khi xem xét ở các loại lao động có trình độ cao.
Ở Việt Nam theo các số liệu thống kê lao động - việc làm cho thấy,
trình độ văn hố phổ biến của lao động nơng thơn là ở mức tốt nghiệp tiểu học
và trung học cơ sở. Số người có trình độ này chiếm tới trên 60% lao động ở
nông thôn. Theo các nhà nghiên cứu, năng suất lao động sẽ tăng nếu người
nơng dân có trình độ học vấn ở mức độ nào đó, và nếu tốt nghiệp phổ thơng
mức tăng này là 11%. Về trình độ chun mơn kỹ thuật: lao động khơng có
trình độ chuyên môn kỹ thuật ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn với
85% năm 2004, mặc dù giảm 7% so với năm 1996(với 92%); số lao động
được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học và tương đương ở nông thôn chỉ
chiếm 1,5%. Số lao động được đào tạo nghề gồm sơ cấp và công nhân kỹ
thuật là 2,3%, trung cấp kỹ thuật là 2,4%. Trong số 8 vùng nơng thơn, những
vùng có trình độ học vấn thấp cũng chính là những vùng có tỷ lệ lao động đã
qua đào tạo thấp, vùng Tây bắc chỉ có 2,3%, Tây Nguyên là 3,41% [47, tr.
25].
Về mặt thể lực, mặc dù thể lực và chiều cao của lao động có tăng lên do

chất lượng cuộc sống được nâng cao hơn nhưng lao động nông thôn cũng yếu
hơn so với lao động ở thành thị. Theo điều tra y tế quốc gia năm 2000, lao
động nông thôn bị ốm nhiều hơn lao động thành thị, trong khi lao động thành
thị bình qn có 1,1 lần ốm/năm thì lao động nơng thôn là 1,7 lần. Số ngày ốm

14


không tham gia hoạt động kinh tế của lao động nông thôn cũng dài hơn (6,7
ngày so với 4,8 ngày của lao động ở thành thị) [47, tr. 26].
1.1.2.4 Khả năng tự tạo việc làm của lao động hạn chế
Do lực lượng lao động tăng nhanh đã dẫn đến thiếu đất canh tác, và
diện tích gieo trồng bình qn một lao động bị giảm rõ rệt. Nếu như trước
năm 1965 bình quân một lao động 1 ha gieo trồng thì năm 2000 giảm xuống
còn 0,49 ha, đến năm 2006 còn 0,28 ha, ở các tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc bộ
chỉ 0,16 ha [19, tr. 57]. Đó là con số quá thấp nếu so sánh với các nước trong
khu vực khoảng 0,8 ha. Sự thu hẹp này còn tiếp tục do q trình đơ thị hố,
xây dựng các khu cơng nghiệp, khu chế xuất còn kéo dài.
Thu nhập của lao động nơng nghiệp nơng thơn thấp nên ít có khả năng
mở rộng sản xuất. Đến cuối năm 2005, bình quân thu nhập 1 nhân khẩu nông
thôn 1 tháng chỉ khoảng 375.000đ. Theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 20062010, ở nông thôn là 200.000đ/người/tháng. Nếu chi tiêu cho ăn 6000 đồng
một ngày thì chỉ đủ chi cho gạo và chất đốt, cịn dư được 20.000/ tháng. Ở
Bắc Cạn, theo chuẩn này dù đã rất thấp kém thì cũng có tới 50% hộ nông dân
thuộc diện nghèo [27, tr. 15].
1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động
nông thơn
Giải quyết việc làm là q trình tạo ra và kết hợp giữa các yếu tố tư liệu
sản xuất, sức lao động và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để đảm bảo cho
việc làm và duy trì việc làm. Giải quyết việc làm liên quan đến nhiều chủ thể,
bao gồm người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước. Vì vậy, giải

quyết việc làm nói chung và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn nói
riêng chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
1.1.3.1 Nhóm các nhân tố liên quan đến quá trình tạo ra tư liệu sản xuất

15


- Tài nguyên thiên nhiên: Để giải quyết việc làm phải có tư liệu sản
xuất tức là phải có đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động
của sản xuất nông nghiệp là những nhân tố có tính chất tự nhiên, sẵn có đó là
tài ngun thiên nhiên mà trước hết là đất đai, rừng biển.
Tài nguyên thiên nhiên vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao
động. Vì thế, nó là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và là
cơ sở quan trọng đầu tiên để tạo việc làm cho người lao động. Nếu một quốc
gia, một địa phương ở vào vị trí địa lý thuận lợi có đất đai màu mỡ, phì nhiêu,
tài ngun khống sản phong phú thì chắc chắn sẽ có nhiều điều kiện thuận
lợi hơn trong giải quyết việc làm cho người lao động. Ngược lại, người lao
động sống ở những nơi bất lợi như khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, vùng
núi, hải đảo…thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm và giải quyết việc làm
tại chỗ.
- Vốn và Khoa học - công nghệ: Vốn làm tăng thêm đầu vào và tăng
thêm đầu ra của q trình sản xuất do đó làm tăng thêm việc làm và tăng thu
nhập. Theo tổng kết của các nhà kinh tế, các yếu tố làm tăng thu nhập khoảng
1/2 ở các nước phát triển và khoảng 1/4 đến 1/3 ở các nước đang phát triển là
do các yếu tố vật chất tăng lên. Vốn là tiền đề để đồng thời đạt được 3 mục
tiêu cơ bản của nền kinh tế là tăng trưởng, việc làm đầy đủ và phân phối cơng
bằng hợp lý. Muốn có việc làm đầy đủ thì nền kinh tế phải tăng trưởng. Nền
kinh tế tăng trưởng phải có đầu tư.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ sẽ làm xuất hiện nhiều ngành
nghề, nhiều lĩnh vực kinh tế mới, do đó nó sẽ tạo mở thêm nhiều việc làm mới

cho người lao động. Nếu tăng vốn đầu tư vào phát triển các ngành sử dụng
công nghệ thấp sẽ làm gia tăng việc làm, nhưng đó chỉ là việc làm giản đơn,
năng suất lao động thấp, thu nhập thấp. Ngược lại, nếu tăng vốn vào những

16


ngành sử dụng cơng nghệ cao thì việc làm sẽ giảm nhưng lại là những việc
làm có năng suất lao động cao, thu nhập cao.
Như vậy, việc tăng hay giảm đầu tư vào phát triển các ngành nghề, lĩnh
vực sử dụng cơng nghệ cao, trung bình hay thấp thì đều có ảnh hưởng đến
giải quyết việc làm cho người lao động. Đối với lao động nơng nghiệp, nơng
thơn thì mức độ ảnh hưởng đó càng mạnh hơn. Nếu tăng vốn đầu tư vào
những ngành sử dụng cơng nghệ thấp thì cơ hội giải quyết việc làm cho lao
động ở nông thơn sẽ tăng lên và ngược lại. Điều này cịn tuỳ thuộc vào chiến
lược và chính sách của Nhà nước.
1.1.3.2 Nhóm các nhân tố liên quan đến q trình tạo ra số lượng và chất
lượng sức lao động
- Dân số và lao động: Dân số là nguồn cung cấp nguồn nhân lực cho xã
hội. Do vậy, quy mô dân số, cơ cấu dân số và chất lượng dân số có ảnh hưởng
trực tiếp đến quy mô, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực. Khi quy mô dân
số lớn, tốc độ tăng trưởng dân số nhanh thì quy mơ và tốc độ tăng nguồn nhân
lực sẽ lớn và do đó nhu cầu giải quyết việc làm sẽ rất lớn và ngược lại. Chất
lượng dân số cao, khả năng tiếp thu và lĩnh hội kiến thức và kỹ năng của
người lao động tốt thì khả năng giải quyết việc làm sẽ thuận lợi. Ngược lại,
chất lượng dân số thấp, chất lượng nguồn nhân lực thấp sẽ gây khó khăn cho
việc lĩnh hội tri thức và do đó sẽ khó khăn trong giải quyết việc làm.
Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1 triệu lao động mới được bổ sung có
nhu cầu giải quyết việc làm. Chất lượng dân số nước ta thấp nên chất lượng
lao động không cao nhất là với lao động nơng nghiệp, nơng thơn. Q trình

cơng nghiệp hố, đơ thị hố đang diễn ra mạnh mẽ thì đội ngũ lao động chất
lượng thấp này khơng kịp thích ứng, và đã trở thành sức ép rất lớn về vấn đề
giải quyết việc làm.

17


Việc khống chế mức gia tăng dân số, giảm tỷ lệ gia tăng dân số cũng có
nghĩa là có sự đầu tư cao hơn vào các lĩnh vực giáo dục, sức khoẻ và các dịch
vụ xã hội sẽ giảm áp lực đối với giải quyết việc làm
Vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị cũng gây ra nhiều áp lực lớn
đối với giải quyết việc làm. Khoảng cách chênh lệch lớn về kinh tế- xã hội
giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân gây nên sự di chuyển này. Nhất là
trong q trình cơng nghiệp hố, đơ thị hố thì dịng di cư này càng mạnh
hơn. Để có thể thu hút hết số lao động này phải nhanh chóng tạo ra một số
lượng lớn chỗ làm việc. Đồng thời có chiến lược chính sách phát triển kinh tế
xã hội ở nông thôn đặc biệt là kinh tế nông thôn, nâng cao điều kiện sống cho
cư dân nông thôn.
- Giáo dục và đào tạo: Giáo dục - đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng nguồn lao động và do đó nó có ảnh hưởng đến việc làm và giải quyết
việc làm. Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập nhằm nâng cao
kiến thức và kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời. Giáo dục đào tạo
tốt sẽ tạo ra một lực lượng lao động có trình độ học vấn, trình độ chun mơn
kỹ thuật cao, có phẩm chất đạo đức và tác phong làm việc tốt, có cơ cấu theo
trình độ và ngành nghề phù hợp với cầu về lao động điều đó sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho giải quyết việc làm. Ngược lại, khi người lao động không được
giáo dục - đào tạo, không được trang bị những kiến thức và kỹ năng làm việc
phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động thì sẽ gây khó khăn cho vấn đề
giải quyết việc làm.
Nước ta hiện nay giáo dục đào tạo còn nặng về lý thuyết, sinh viên ít

được thực hành trong q trình học tập. Về cơ cấu đào tạo có nhiều bất hợp lý
so với yêu cầu của thị trường lao động. Theo thống kê, năm 2005, lực lượng
lao động cả nước theo cấp trình độ như sau: lao động qua đào tạo nghề là
15,2%; qua đào tạo trung học chuyên nghiệp là 4,3% và qua đào tạo cao đẳng,

18


đại học, trên đại học là 5,3%. Như vậy, cứ 1 lao động cao đẳng, đại học, trên
đại học thì có 0,8 lao động trung học chuyên nghiệp và 2,8 cơng nhân kỹ
thuật. Trong khi đó, cơ cấu của các nước trong khu vực là 1;3,5;10 [28, tr. 23].
Chất lượng lao động của Việt Nam thấp còn được thể hiện trong những cuộc
tuyển dụng tại các hội chợ việc làm được tổ chức thường xuyên trong vài năm
gần đây và kết quả cho thấy tỷ lệ người tìm việc đạt yêu cầu tuyển dụng còn
rất thấp, trong khi cả số người cần tìm việc làm và số chỗ làm việc cần người
đều cao.
Với lao động nơng thơn như đã trình bày ở phần trên thì chất lượng thấp
hơn nhiều so với lao động ở khu vực thành thị. Phần đông lao động nơng thơn
trình độ học vấn thấp, khơng được đào tạo nghề, vì thế giải quyết việc làm cho
họ có nhiều khó khăn. Nếu người lao động nơng nghiệp, nơng thơn nói riêng
và lao động trong các ngành nói chung không được đào tạo và đào tạo lại đáp
ứng u cầu mới thì tự họ sẽ mất cơng ăn việc làm, cơ hội tìm kiếm việc làm
sẽ rất khó khăn, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm là khó tránh khỏi.
- Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ: Sức khoẻ có tác động lớn tới chất
lượng lao động cả hiện tại và tương lai do đó có ảnh hưởng đến việc làm và
giải quyết việc làm. Sức khoẻ của người lao động thường được đánh giá ở thể
lực (chiều cao, cân nặng). Một nền y tế tốt thường xuyên chăm lo đến sức
khoẻ cộng đồng sẽ tạo ra một lực lượng lao động khoẻ mạnh. Điều này sẽ
thuận lợi trong giải quyết việc làm.
Với lao động ở khu vực nông thôn, thu nhập của người nông dân thấp, do

mạng lưới y tế còn hạn chế kém phát triển nên việc chăm lo tới sức khoẻ của
lực lượng lao động này cịn rất hạn chế. Khi trình độ của họ đã thấp cộng với
sức khoẻ yếu kém thì sẽ ảnh hưởng đến giải quyết việc làm.
1.1.3.3 Nhóm nhân tố liên quan đến cơ chế chính sách

19


Các nước đang phát triển phần lớn là các nước có xuất phát điểm thấp
(nghèo, trình độ văn hố, khoa học kỹ thuật thấp….) đặc biệt là trong lĩnh vực
nông nghiệp, nơng thơn. Do đó, nếu người nơng dân tự giải quyết việc làm
cho mình là điều rất khó khăn. Vì vậy, cần phải có sự quan tâm giúp đỡ của
nhà nước cũng như cộng đồng.
Chính sách vĩ mơ của Nhà nước, nhóm nhân tố này có tác động rất quan
trọng trong giải quyết việc làm cho lao động nông thơn. Các nhóm chính sách
tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lao động nông thôn như
là; chính sách phát triển nơng nghiệp và kinh tế nơng thơn; chính sách tín
dụng ưu đãi; chính sách đất đai (giao đất dài hạn, khốn); chính sách thuế;
chính sách đào tạo nguồn nhân lực.
Nhóm chính sách phát triển những lĩnh vực, những ngành mà có khả
năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường như: chính sách phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; chính sách phát triển kinh tế trang trại chính
sách phát triển du lịch; chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới; chính
sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngồi; chính sách gia cơng
xuất khẩu; chính sách khôi phục và phát triển các ngành nghề, làng nghề
truyền thống…
Các chính sách tạo việc làm cho các đối tượng là người có cơng như:
thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ; những đối tượng yếu thế như người nghèo,
người tàn tật…
Các chính sách liên quan đến những vấn đề thuộc tổ chức sản xuất kinh

doanh như tạo môi trường pháp lý, xây dựng cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ
sản phẩm, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, sự phát triển các dịch vụ
khuyến nông, khuyến lâm, ứng dụng công nghệ mới.
1.1.3.4 Sự phát triển của thị trường lao động

20


Sự phát triển của thị trường lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến cung và
cầu lao động. Nếu thị trường lao động phát triển nó sẽ cung cấp một cách đầy
đủ, thường xun và chính xác các thơng tin cho cả bên cung và bên cầu lao
động, làm cho cung cầu lao động gặp nhau. Khi đó việc làm được giải quyết
một cách nhanh chóng và có hiệu quả.
Đối với lao động nông thôn, khi thị trường lao động phát triển sẽ giúp họ
có được các thơng tin về cầu lao động, họ được tư vấn về học nghề, được dạy
nghề… khi đó cơ hội tìm kiếm việc làm, chuyển đổi việc làm đối với họ sẽ tốt
hơn. Đặc biệt khi mà diện tích đất canh tác của nơng dân bị thu hẹp, giành chỗ
cho các dự án phát triển đơ thị, khu cơng nghiệp, cụm cơng nghiệp… thì sự
phát triển của thị trường lao động càng có ý nghĩa trong giải quyết việc làm
cho đối tượng này.
1.2 Một số lý thuyết, mơ hình về tăng việc làm
1.2.1 Lý thuyết tạo việc làm của John Maynard Keynes (1884-1946)
Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý luận chung về việc làm, lãi suất và tiền
tệ” xuất bản năm 1936, ông đã xem xét việc làm trong mối quan hệ giữa sản
lượng- thu nhập – tiêu dùng- đầu tư- tiết kiệm – việc làm. Theo ông, trong
một nền kinh tế, khi sản lượng tăng thì thu nhập tăng, kéo theo tiêu dùng
tăng, đầu tư tăng và do đó việc làm cũng tăng và ngược lại. Song do khuynh
hướng tiêu dùng giới hạn nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với tăng thu nhập,
còn tiết kiệm lại tăng nhanh hơn điều này làm cho cầu tiêu dùng giảm tương
đối. Việc giảm cầu có hiệu quả tương đối (bao gồm cả cầu tiêu dùng và cầu

đầu tư). Trong khi đó cầu lại ảnh hưởng đến quy mô sản xuất và mức độ việc
làm.
Để điều chỉnh sự thiếu hụt của cầu sản xuất, theo Keynes cần phải tăng
chi phí đầu tư, tăng tiêu dùng sản xuất, tăng cầu về tư liệu sản xuất. Keynes
cho rằng đầu tư đóng vai trị quyết định đến quy mơ việc làm. Song khối

21


lượng đầu tư lại phụ thuộc vào ý muốn đầu tư của nhà tư bản, ý muốn đầu tư
lại phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận hay là hiệu quả giới hạn của tư bản. Khi
hiệu quả giới hạn của tư bản đầu tư nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì họ khơng
tích cực đầu tư. Khi đó quy mơ sản xuất sẽ bị thu hẹp, dẫn đến nền kinh tế trì
trệ, khủng hoảng và thất nghiệp tăng. Theo Keynes, để thốt khỏi tình trạng
này phải điều chỉnh sự thiếu hụt của cầu tiêu dùng. Muốn vậy, Nhà nước phải
có chương trình đầu tư quy mơ lớn để sử dụng số tư bản nhàn rỗi và lao động
thất nghiệp. Số người này khi nhận được thu nhập sẽ tham gia vào thị trường
mua sắm hàng hố, do đó sức cầu tăng lên, giá hàng tăng lên, hiệu quả tư bản
cũng tăng lên. Điều đó khuyến khích doanh nhân mở rộng sản xuất. Theo
nguyên lý “số nhân” này mà nền kinh tế tiếp tục được phát triển, khủng hoảng
và thất nghiệp được ngăn chặn.
1.2.2 Lý thuyết tạo việc làm của Arthus Lewis
Tư tưởng cơ bản của lý thuyết này là di chuyển lao động giữa hai khu
vực, tức là chuyển số lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp sang khu vực
cơng nghiệp. Do hệ thống tư bản nước ngồi đầu tư vào các nước đang phát
triển nên quá trình này sẽ tạo ra nhiều việc làm. Bởi vì, trong khu vực nông
nghiệp đất đai chật hẹp, lao động dư thừa. Số lao động này khơng có việc làm
nên khơng có thu nhập. Vì vậy, việc di chuyển một bộ phận lao động từ khu
vực nông nghiệp sang khu vực cơng nghiệp sẽ có 2 tác dụng: một là, chuyển
bớt được lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp, chỉ để lại số lao động đủ để

tạo ra sản lượng cố định, từ đó nâng cao sản lượng bình qn đầu người; hai
là, việc di chuyển này còn tạo việc làm cho số lao động dư thừa trong nông
nghiệp, tăng thu nhập, tăng lợi nhuận cơng nghiệp, từ đó giúp tăng trưởng
kinh tế.
1.2.3 Lý thuyết của Harry T.Oshima

22


Theo ơng, mơ hình tăng trưởng của Athur Lewis khơng có ý nghĩa
thực tế với tình trạng dư thừa lao động trong nơng nghiệp ở các nước Châu Á
gió mùa. Bởi vì nền nơng nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động trong các đỉnh
cao của thời vụ và chỉ thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ơng cho rằng
cần giữ lại lao động nông nghiệp và chỉ tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi
theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. Cụ thể là: đa dạng hố
các loại cây trồng, vật ni, xen canh, tăng vụ trồng thêm rau, quả, cây lấy củ,
mở rộng chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi và đánh bắt cá, trồng cây lâm
nghiệp,… Đồng thời sử dụng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp vào các
ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều lao động. Bằng cách đó lực lượng lao
động sẽ được sử dụng hết.
1.2.4 Lý thuyết của Mellor và Timmer
Lý thuyết này cho rằng chính khu vực kinh tế nơng thơn tự nó là nguồn
thu hút lao động dư thừa dựa trên việc đáp ứng những nhu cầu của xã hội
nông thôn nhằm đảm bảo phát triển nông thôn bền vững qua những hoạt động
phi nơng nghiệp. Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo
hướng tăng tỷ trọng cho những ngành nghề phi nông nghiệp.
Thực tiễn và kinh nghiệm của các nước đã chứng minh cho tính đúng
đắn của mơ hình này. Những nước có tỷ trọng việc làm dịch vụ, cơng nghiệp
cao thường có GDP/người lớn và tỷ lệ nghèo nhỏ. Ngược lại, những nước có
tỷ trọng việc làm theo lĩnh vực nơng nghiệp cịn lớn thì đều có GDP/người

thấp và tỷ lệ nghèo cao. Những ngành nghề cần khuyến khích phát triển bao
gồm: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhỏ, chế biến nông sản, xây dựng cơ
sở hạ tầng, dịch vụ cho sản xuất và cho đời sống, dịch vụ công (giáo dục, y tế,
khuyến công, khuyến nông…), tăng tỷ lệ làm công ăn lương và tỷ lệ thời gian
lao động nông thôn.
1.3 Sự cần thiết giải quyết việc làm cho người lao động

23


1.3.1 Con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế xã hội và
là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế xã hội
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin sự phát triển của mỗi hình
thái kinh tế xã hội được đánh dấu bằng sự phát triển của lực lượng sản xuất,
trong đó yếu tố quyết định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất đó chính
là con người. Với vai trị to lớn của con người trong lực lượng sản xuất, các
chính sách của Đảng và nhà nước ta là chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân
tố con người với tư cách là mục tiêu và động lực của cách mạng. Con người là
nguồn tài nguyên vô giá, nguồn nội lực dồi dào để phát triển.
- Lý thuyết phát triển kinh tế coi con người là yếu tố quyết định tăng
trưởng kinh tế.
- Ngân hàng thế giới nhấn mạnh tầm quan trọng của vốn con người như
là phương tiện để giảm đói nghèo bằng cách tăng khả năng tạo thu nhập và
tạo điều kiện cho các chương trình phát triển, thể hiện có hiệu quả hơn.
- Bài học của các nước Đông Á: mặc dù nguồn tài nguyên thiên nhiên
có hạn, nhưng nhờ chiến lược con người, đầu tư cho con người nên đã có
bước phát triển thần kỳ trong 4 thập kỷ qua, xử lý quan hệ vốn vật chất và vốn
con người có mối liên hệ bổ sung lẫn nhau trong quá trình tăng trưởng và
phát triển.
Như vậy, tiềm năng con người với trí tuệ là tài sản quý giá nhất, là

nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Đầu tư
cho con người là đầu tư cho kinh tế. Và ngày nay vai trò của con người càng
tăng khi trí tuệ hố lao động đang trở thành xu thế phổ biến.
1.3.2 Việc làm đối với người lao động là nhu cầu để tồn tại và phát
triển, là yếu tố khách quan của người lao động
Để tồn tại con người phải được tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt
nhất định như thức ăn, đồ mặc, nhà ở, đi lại và các thứ cần thiết khác. Muốn
24


×