Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.46 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HÀ

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HÀ

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm

Hà Nội - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo qui định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Nguyễn Thị Thu Hà


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
Chương 1 .....................................................................................................................11
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........................11
1.1. Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự...........11
1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự ................................... 11
1.1.2. Các luận cứ về căn cứ kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự trong khoa
học Luật Tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................ 21
1.1.3. Ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự ................................ 44
1.2. Các đặc điểm chủ yếu của kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm

sát nhân dân ...................................................................................................................45
1.2.1. Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự thể hiện quyền năng pháp lý đặc
biệt và duy nhất mà Nhà nước chỉ trao cho Viện kiểm sát. ............................ 45
1.2.2. Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát là một trong
những điều kiện pháp lý để vụ án được xét xử lại ở cấp thứ hai .................... 46
1.2.3. Hệ quả của kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiếm sát
nhân dân là để tiến hành một phiên tòa xét xử cấp thứ hai (cấp phúc thẩm) 45
1.2.4. Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự là công cụ đặc biệt của Viện kiểm
sát .................................................................................................................... 47
1.3. Vai trò của kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay ...............................................................................................48
1.3.1. Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự là công cụ hữu hiệu để bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xét xử của Toà án ...................... 48


1.3.2. Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự sẽ góp phần không nhỏ vào việc
thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn xét xử ............................................................................ 50
1.3.3. Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự góp phần bảo vệ quyền con người
trong việc xét xử các vụ án hình sự ................................................................. 51
1.4. Phân biệt kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự với kháng nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm vụ án hình sự của Viện kiểmr sát..........................................51
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUI ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH NÀY TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ GIANG .....................................................................................................56
2.1. Thực trạng các qui định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kháng nghị
phúc thẩm vụ án hình sự ..............................................................................................56
2.1.1. Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự................................ 56
2.1.2. Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự............................................... 61

2.1.3. Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự ................................. 63
2.1.4. Thủ tục bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự ... 64
2.2. Thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật trong kháng nghị phúc thẩm vụ án
hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang (những năm 2010 -2014) ...................................66
2.2.1. Thực trạng kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà
Giang ............................................................................................................... 66
2.2.2. Kết quả đạt được ................................................................................... 71
2.2.3. Một số tồn tại trong kháng nghị phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Hà Giang
và nguyên nhân của những tồn tại đó ............................................................. 74
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG....79


3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về
kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự..........................................................................79
3.1.1. Về mặt lập pháp .................................................................................... 79
3.1.2. Về mặt lý luận........................................................................................ 79
3.1.3. Về mặt thực tiễn..................................................................................... 80
3.2. Định hướng hoàn thiện các quy phạm pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành có liên quan đến công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự............80
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................................84
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................87


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Phân biệt kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự với kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm của Viện kiểm sát ............................. 52
Bảng 2.1. Bảng thống kê số lượng án kháng nghị phúc thẩm/ số lượng vụ
án được thụ lý xét xử phúc thẩm ................................................. 68

Bảng 2.2. Thống kê số bị cáo đã giải quyết theo thủ tục phúc thấm ........ 71
Bảng 2.3. Thống kê quyết định kháng nghị phúc thẩm 2 cấp và việc giải
quyết của tòa án ............................................................................ 69


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

:

Bộ luật tố tụng dân sự

BCHTW

:

Ban chấp hành Trung ương

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

TAND

:

Tòa án nhân dân


TTHS

:

Tố tụng hình sự

VKS

:

Viện Kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VAHS

:

Vụ án hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, khi mà Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam mới sửa đổi năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân (VKSND) mới sửa đổi năm 2014 đã thay thế Hiến pháp năm 1992 và
Luật tổ chức VKSND năm 2002, thì Viện kiểm sát (VKS) vẫn thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Mục đích
hoạt động của VKS trong tố tụng hình sự (TTHS) là nhằm bảo đảm mọi hành
vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời; việc truy tố, xét xử,
thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và
người phạm tội; không làm oan người vô tội.
Theo khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức
VKSND năm 2014, VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần
bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. VKSND tối
cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. VKSND cấp cao thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao. VKSND
cấp tỉnh, VKSND cấp huyện (thành phố thuộc tỉnh) thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình. Theo quy định
tại điểm i khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 và
điểm o khoản 2 Điều 41 BLTTHS năm 2015 thì, khi thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án
hình sự (VAHS), Viện trưởng VKS có những nhiệm vụ và quyền hạn “kháng
1


nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định
của Toà án theo quy định của Bộ luật này”.
Kháng nghị phúc thẩm VAHS là quyền năng pháp lý xuất phát từ chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực

hình sự của VKS và xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong TTHS nước ta, đó
là bảo đảm hai cấp xét xử. VKS có nhiệm vụ kháng nghị các bản án (quyết
định) sơ thẩm hình sự của Tòa án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) chưa có
hiệu lực pháp luật nhưng xét thấy không đúng pháp luật để yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử, nhằm bảo
đảm việc áp dụng đúng pháp luật.
Thực tiễn kháng nghị phúc thẩm VAHS cho thấy, bên cạnh những kết quả
đã đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS và chất lượng kháng
nghị của VKSND từng bước đã được nâng lên, về cơ bản các quyết định kháng
nghị phúc thẩm VAHS của VKSND đã đảm bảo về hình thức, nội dung, tỷ lệ
kháng nghị được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận ngày một tăng cao thì vẫn
còn nhiều bất cập, quy định không rõ ràng, không qui định về hệ thống các căn
cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS, không qui định đối tượng và nội dung của
kháng nghị phúc thẩm. Một mặt, do nhận thức của một số cán bộ, kiểm sát viên
không đầy đủ, nên đã có nhiều quyết định kháng nghị phúc thẩm VAHS của
VKSND không đúng luật, không nêu được lý do kháng nghị mà chỉ nêu một
cách chung chung như, không thỏa đáng, không đảm bảo tính nghiêm minh,
không công bằng… để yêu cầu xét xử phúc thẩm, điều đó đã xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, ảnh hưởng đến hoạt
động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm.
Trong một vài năm trở lại đây, việc các bản án (quyết định) hình sự sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị xét xử theo thủ tục phúc thẩm có chiều
hướng gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp. Việc nội dung đề nghị xem
2


xét lại theo thủ tục phúc thẩm VAHS được chấp nhận cũng có nghĩa là số
lượng bản án (quyết định) chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng nghị nhiều
hơn, các VAHS sơ thẩm được xét xử lại một cách khách quan hơn nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho những người tham gia tố tụng, nhưng cũng

có những vụ việc bị xử đi, xử lại nhiều lần dẫn đến tốn kém về cả thời gian,
công sức và tiền bạc của cả Nhà nước và công dân, làm cho người dân mất
lòng tin vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Cùng với xu hướng chung của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và
nhà nước ta đang đặt ra theo tinh thần của Nghị quyết 48-NQ/TW ngày
24/05/20056 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 là:
Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân
chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện,
bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động
tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử,
lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán
quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng
hoạt động tư pháp [4, tr.3]
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 được thể hiện tại Nghị quyết
số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của BCHTW Đảng đó là:
Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp,
đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người [5, tr.2-3].
3


và “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiến hành hiệu quả và hiệu lực cao” [5, tr.2].

Thực hiện Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19-6-2008 về
"Tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự" của Viện trưởng
VKSND tối cao. Trong những năm 2010 đến 2014, công tác kháng nghị phúc
thẩm VAHS đối với bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự của TAND đã đạt
được những kết quả nhất định. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác
kháng nghị phúc thẩm VAHS còn không ít bất cập do xuất phát từ nguyên
nhân chủ quan cũng như nguyên nhân khách quan, tuy ít nhiều ở mức độ khác
nhau. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu và phân tích sâu sắc tất
cả những vấn đề về kháng nghị phúc thẩm VAHS, từ khái niệm cho đến
những dạng thức, nguyên nhân tồn tại và hiệu quả của nó, để thể chế hóa
thành những quy định của BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng
kháng nghị phúc thẩm VAHS, việc tìm hiểu quy định của BLTTHS năm 2003
và BLTTHS năm 2015 về kháng nghị phúc thẩm VAHS, làm rõ một số bất
cập của qui định về công tác này, từ đó nêu lên các định hướng hoàn thiện
nhằm góp phần làm cho các quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS
năm 2015 sát với thực tiễn, nâng cao công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS
của VKS .
Chính vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình
sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn
tỉnh Hà Giang)” làm luận văn thạc sỹ luật học là có tính cấp bách và cần thiết
trong thời điểm hiện nay.
Thông qua việc nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân của hạn chế và tồn
tại, đồng thời đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm kháng nghị phúc thẩm
4


VAHS và định hướng hoàn thiện BLTTHS năm 2015 (gồm 510 Điều) chưa
có, nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị các VAHS ở cấp phúc thẩm, đáp
ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu

Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay, công tác
kháng nghị phúc thẩm VAHS đã được ngành Kiểm sát quan tâm, đầu tư đúng
mức, thể hiện thông qua Chỉ thị 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19-06-2008
của Viện trưởng VKSND tối cao, thể hiện thông qua việc tổ chức các hội
thảo, hội nghị, tổng kết rút kinh nghiệm của ngành kiểm sát. Ngoài ra, công
tác kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND còn được một số nhà khoa học
- Luật gia hình sự quan tâm nghiên cứu, thể hiện ở một số sách chuyên khảo,
tham khảo, bình luận và giáo trình đại học, trong đó phải kể đến các công
trình ở những cấp độ khác nhau.
2.1. Các sách (sách chuyên khảo, sách tham khảo, sách hướng dẫn)
và các giáo trình:
1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm (2009), “Hệ thống tư pháp hình sự trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”, Sách chuyên khảo, Khoa luật Đại học Quốc gia, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
2) Kỷ yếu (2009), “Đổi mới cơ cấu tổ chức cơ quan kiểm sát trong tiến
trình cải cách tư pháp tại Việt Nam (Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn trong
nước)”, NXB Tư pháp, Việt Nam, Hà Nội.
3) PGS.TS Võ Khánh Vinh (2004), “Bình luận khoa học Bộ luật tố
tụng hình sự”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
4) Đinh Văn Quế (2011), “Trình tự thủ tục giải quyết các vụ án hình
sự”, Nxb Hải Phòng.
5) Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội – Hà Nội 2015.
5


2.2. Các bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành có thể kể đến
các công trình sau:
1) Dương Thanh Biểu (2007), “Những vấn đề cần chú ý để nâng cao
chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND”. Tạp chí
Kiểm sát, số 8.

2) Nguyễn Huy Tiến (2009), “Một số vấn đề liên quan đến trách
nhiệm, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự”,
Tạp chí kiểm sát, số 17.
3) Đinh Văn Quế (2007), “Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm án hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 15- 8/2007 và số 17 - tháng 9.
4) Viện Phúc thẩm 1- VKSND tối cao (2006), Chuyên đề: “Thực trạng
và giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ
thẩm hình sự của Toà án nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương”, Tạp chí kiểm sát, Hà Nội.
Đặc biệt trong năm năm gần đây, từ năm 2010 đến năm 2014, tại các
Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Tòa án có đăng các bài báo nghiên cứu khoa học có
liên quan đến kháng nghị phúc thẩm VAHS và bao gồm:
1) Lê Thành Dương (2014), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
kháng nghị phúc thẩm hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 12.
2) Trần Đức Dương (2010), “Mối quan hệ giữa phạm vi xét xử sơ thẩm và
giới hạn kháng cáo, kháng nghị phúc”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 07.
3) Bùi Văn Kim (2014), “Một số vấn đề về quyền hạn, trách nhiệm của
kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm”, Tạp chí Kiểm sát, số 19.
4) Duy Kiên (2015), “Một số vấn đề về các qui định chung trong thủ
tục xét xử phúc thẩm”, Tạp chí Kiểm sát, số Tân xuân.

6


5) Nguyễn Nông (2014), “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm hình sự”, Tạp chí
Kiểm sát, số 12.
6) Hồ Ngọc Thảo (2013), “Một số giải pháp thực hiện có hiệu quả công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 21.
7) Nguyễn Huy Tiến (2014), “Quyền kháng nghị bản án, quyết định

của Tòa án”, Tạp chí Kiểm sát, số 12.
8) Ngô Thanh Xuyên (2012), “Một số ý kiến về bổ sung, thay đổi và rút
kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hình sự” Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17.
Ngoài ra còn có một số bài viết của các tác giả khác, tuy nhiên hầu hết các
tác giả trong mỗi bài viết đều khai thác ở một khía cạnh của kháng nghị phúc
thẩm VAHS trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật thực định.
2.3. Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ luật học
1) Mai Thanh Hiếu (2015), “Hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” Luận án tiến sỹ, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận án đã phân tích điều kiện hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm trong TTHS là sự hợp pháp của kháng cáo, kháng nghị về đối
tượng, chủ thể, giới hạn, thời hạn, hình thức và thủ tục. Đặc biệt, luận án đi
sâu phân tích hai nội dung hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đó
là: kháng cáo, kháng nghị phát sinh việc thực hiện thẩm quyền của Toà án cấp
cao hơn và kháng cáo, kháng nghị giới hạn việc thực hiện thẩm quyền của
Toà án cấp phúc thẩm trong giới hạn xét xử sơ thẩm, phạm vi và hướng kháng
cáo, kháng nghị. Trên cơ sở phân tích pháp luật và thực tiễn thi hành pháp
luật TTHS Việt Nam về hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, làm
sáng tỏ các yêu cầu và giải pháp bảo đảm hiệu lực của kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm trong TTHS Việt Nam.

7


2) Chu Thị Thanh Tú (2007), “Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự” luận
văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
3)- Trần Thị Minh Ngọc (2011), “Kháng nghị phúc thẩm các vụ án
hình sự của VKSND tỉnh Hà Tĩnh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận

văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Kế thừa các nghiên cứu trong các công trình nêu trên, tác giả mạnh dạn
nghiên cứu, phân tích các qui định pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành và
BLTTHS năm 2015 cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS Việt Nam
hiện hành về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND để đưa ra
định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về công tác kháng nghị phúc thẩm
VAHS.
3. Mục đích và các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận
về kháng nghị phúc thẩm VAHS cũng như thực tiễn pháp luật, thực tiễn áp
dụng pháp luật về công tác này trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong 5 năm từ
năm 2010 đến năm 2014, luận văn đề xuất những kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện các quy định của pháp luật TTHS về kháng nghị phúc thẩm và nâng cao
hiệu quả áp dụng nó trong thực tiễn.
3.2. Các nhiệm vụ của luận văn
Để đạt mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công tác kháng nghị phúc
thẩm vụ án hình sự của VKSND;
Hai là, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2003 về công tác
kháng nghị phúc thẩm VAHS trong hệ thống VKSND cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương cũng như thực tiễn và hiệu quả áp dụng các qui định
này trên địa bàn tỉnh Hà Giang (Năm 2010 - 2014).
8


Ba là, đưa ra các luận cứ khoa học cho định hướng hoàn thiện các quy
phạm pháp luật TTHS hiện hành liên quan đến kháng nghị phúc thẩm VAHS
của hệ thống VKS.
4. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu

4.1. Về đối tượng: Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề liên quan đến
kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
4.2. Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS theo Luật TTHS Việt
Nam, đánh giá thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang (những năm 2010 - 2014), với
việc chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản, từ đó luận
chứng và đề xuất những kiến giải lập pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công
tác này trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
4.3. Về thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các số liệu thực tiễn
trong khoảng thời gian 05 năm (từ năm 2010 đến năm 2014).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
các quan điểm, tư tưởng của Đảng, Nhà nước về Nhà nước và pháp luật; về
cải cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kháng nghị nói chung và
kháng nghị phúc thẩm VAHS nói riêng; về chính sách hình sự và TTHS; về
vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng X,
XI, và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26-05-2005 về “Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020” của Bộ chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác
giả của luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học pháp lý hình
sự nói chung và khoa học luật TTHS nói riêng đó là phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê để tổng hợp các tri thức khoa học trong lĩnh vực TTHS và
luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu của luận văn.

9


6. Ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về công tác kháng nghị
phúc thẩm VAHS theo Luật TTHS Việt Nam hiện hành, cũng như thực tiễn

công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS của VKSND trên địa bàn tỉnh Hà
Giang (những năm 2010 - 2014), tác giả đề xuất một số định hướng nhằm góp
phần hoàn thiện các quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm VAHS
BLTTHS năm 2015 (gồm 510 Điều). Xác định được sự cần thiết của việc đề
xuất một số định hướng nhằm hoàn thiện kháng nghị phúc thẩm VAHS, nhằm
nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm VAHS của theo Luật TTHS Việt
Nam trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về công tác kháng nghị phúc
thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2. Thực trạng các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng các qui
định này trên địa bàn tỉnh Hà Giang (những năm 2010 - 2014)
Chương 3: Định hướng nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự và giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, căn cứ và ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm vụ án
hình sự
1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự
Trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, từ thời Pháp thuộc,

Viện Công tố đã được thành lập và tồn tại trong hệ thống tổ chức của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cơ
quan công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án. Các Công tố viên thuộc cơ
quan Toà án làm nhiệm vụ buộc tội, nhân danh nhà nước trước phiên toà
trong các VAHS. Khi công tố còn là một bộ phận của Toà án thì quyền kháng
nghị đã được quy định tại văn bản pháp lý đầu tiên là Sắc lệnh số 13 ngày 2401-1946 của Chủ tịch nước đã qui định quyền kháng nghị tại Điều thứ 34
“Toà đại hình xử sơ thẩm. Ông Biện lý, bị can và nguyên đơn có quyền chống
án lên Toà Thượng thẩm” [11. , tr.4]. Trong Chương VI của Hiến pháp 1946,
từ Điều 63 đến Điều 69 quy định về các cơ quan tư pháp, trong đó nói rõ các
cơ quan tư pháp chỉ có Tòa án tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa đệ nhị
cấp. Ngày 05-12-1957 Thông tư số 141-HCTP của Bộ tư pháp ra đời tại điểm
“c” Điều 1 mục II đã qui định “Ông Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của Bộ
tư pháp có nhiệm vụ kháng nghị đối với Bản án hoặc Nghị quyết của Tòa án
xét không đúng pháp luật” [9. , tr.6]. Đến năm 1958, Viện công tố được tách
ra khỏi Toà án trực thuộc Hội đồng Chính phủ và hình thành hệ thống cơ
quan nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương tới địa phương, hoạt động
chủ yếu vẫn là hoạt động công tố trước Toà án.
Từ Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960 đến nay,
VKSND được tổ chức thành một hệ thống độc lập nhằm thiết lập một hệ
thống cơ quan nhà nước mới, không chỉ thực hiện quyền công tố mà còn là cơ
11


quan có chức năng chuyên trách giám sát việc tuân theo pháp luật nhằm bảo
đảm cho Hiến pháp và pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
ngăn ngừa tình trạng cục bộ địa phương, cục bộ bản vị của các ngành, các
cấp. Theo Hiến pháp năm 1959, VKS ngoài chức năng công tố còn thực hiện
một chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hiến pháp năm
1980 đến Hiến pháp năm 2013, tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và
hoạt động của VKS nhưng chức năng công tố vẫn giao cho VKS đảm nhiệm.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014,
VKSND có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” vẫn khẳng định: “Viện kiểm sát
nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp” [5, tr.5].
Khi bàn về công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS tức là nói đến chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp mà nhà nước chỉ
giao duy nhất cho VKS thực hiện, được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật tổ
chức VKSND và đặc biệt được cụ thể hóa trong BLTTHS.
Thực tế cho thấy một trong những lý do quan trọng giải thích tại sao
công tác kháng nghị phúc thẩm VAHS là một hoạt động quan trọng của
VKSND là một quyền năng pháp lý mà nhà nước chỉ giao cho VKSND để
kháng nghị đối với những bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật của Toà án cùng cấp (hoặc cấp dưới trực tiếp) khi phát hiện có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ
tục phúc thẩm hình sự là để đảm bảo cho việc xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời, không làm oan người vô tội, không
để lọt người phạm tội, tránh được những sai lầm do xét xử sơ thẩm VAHS
gây ra .Theo PGS.TS Nguyễn Thái Phúc thì:
Viện kiểm sát luôn là một hệ thống cơ quan nhà nước có các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù, có vị trí độc lập trong
12


bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ của VKS đã được ghi nhận nhất
quán trong Hiến pháp là “bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo
vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự
do, danh dự và nhân phẩm của công dân [58. , tr.13].

Với chức năng trên, trong hoạt động tố tụng, VKS có nhiệm vụ kháng
nghị các bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để yêu cầu Toà
án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét
thấy không đúng pháp luật, nhằm bảo đảm việc áp dụng đúng pháp luật.
Trước hết, về khái niệm thế nào là kháng nghị phúc thẩm VAHS, cho
đến thời điểm hiện nay chưa có một định nghĩa chung được thừa nhận và áp
dụng trên phạm vi toàn quốc. BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015
cũng như các văn bản pháp luật có liên quan chưa có một khái niệm thống
nhất về kháng nghị phúc thẩm VAHS.
Mặc dù vậy, từ trước đến nay đã có một số tác giả đưa ra định nghĩa về
kháng nghị phúc thẩm VAHS.
Theo Giáo trình Công tác kiểm sát năm 2012 của Trường Đại học Kiểm
sát Hà Nội thì: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một trong những quyền
của Viện kiểm sát được thể hiện bằng một văn bản pháp lý thể hiện quan điểm
không thống nhất với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa
án cấp sơ thẩm vì xét xử thiếu căn cứ, không hợp pháp và yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm xét xử lại vụ án đó đúng pháp luật” [32, tr.70]
Tác giả Lê Thành Dương cho rằng:
Kháng nghị phúc thẩm là quyền năng pháp lý được Nhà nước
giao cho Viện kiểm sát nhân dân để kháng nghị những bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án cùng
cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo

13


thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật,
nghiêm minh và kịp thời [27. , tr.32].
Theo tác giả Lê Thanh Biểu thì lại cho rằng:

Khi VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên toà sơ thẩm hình sự, nếu xét
thấy bản án và quyết định của Tòa án vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng hoặc sai phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật
hình sự, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, xã hội và mọi
quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng thì
VKS phải có trách nhiệm yêu cầu đưa vụ án lên Toà án cấp trên
trực tiếp xét xử lại bằng quyền năng pháp lý do luật định đó là
kháng nghị phúc thẩm [10, tr. 4].
Các quan điểm trên, về cơ bản đã thể hiện rõ ràng, xúc tích, tuy nhiên
có một nhược điểm là không nêu rõ VKS cấp nào được kháng nghị đối với
bản án (quyết định) của Tòa án cấp nào, ngang cấp hay cấp trên trực tiếp của
Tòa án đã xét xử sơ thẩm.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
hình sự là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp
đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật’ [68. , tr. 235].
Tiếp thu lý luận của các tác giả nghiên cứu về công tác kháng nghị
phúc thẩm VAHS, tác giả luận văn cho rằng, các khái niệm nêu trên chưa thể
hiện đầy đủ bản chất của kháng nghị phúc thẩm VAHS, bởi kháng nghị phúc
thẩm VAHS là một quyền năng pháp lý riêng biệt mà nhà nước chỉ giao cho
VKSND và phải đánh giá là kháng nghị phúc thẩm VAHS là để khắc phục
các vi phạm nghiêm trọng đối với bản án (quyết định) sơ thẩm hình sự chưa
có hiệu lực pháp luật. Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú thì:
14


Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý đặc
thù của VKSND, do người có thẩm quyền thực hiện thông qua
một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu

Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại Bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án sơ thẩm
nhưng xét thấy không đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi
phạm hoặc sai lầm trong bản án và quyết định đó [79. , tr.13].
Khái niệm trên đã cho rằng VKS yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử
lại vụ án; hoặc xét lại bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
là chưa hoàn toàn chính xác, bởi khi dùng từ “xét lại bản án, quyết định sơ
thẩm…”, vấn đề này chắc chắn sẽ gây hiểu lầm sang việc xét lại bản án
(quyết định) theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, mà thực chất là xét xử
phúc thẩm VAHS là việc xét xử lại ở cấp thứ hai.
Theo tác giả Trần Thị Minh Ngọc nêu trong luận văn thạc sỹ luật học:
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt
mà Nhà Nước chỉ giao cho VKS các cấp thực hiện thông qua
một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu
Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Thông
qua việc kháng nghị phúc thẩm hình sự, VKS bảo vệ quan điểm
truy tố, đồng thời nhằm khắc phục các vi phạm pháp luật nghiêm
trọng đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có
hiệu lực pháp luật [57. , tr. 24].
Khái niệm trên có nội dung toàn diện hơn, tuy nhiên quá rườm rà,
không cô đọng. Để đưa ra một khái niệm đúng với bản chất của nó, trước hết
phải nghiên cứu một cách tổng thể đến hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, nghiên cứu thế nào là thủ tục tố tụng hình sự và
phân biệt thủ tục tố tụng hình sự với các thủ tục tố tụng khác.
15


Theo cuốn “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi
mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của TS. Lê
Hữu Thể, TS. Đỗ Văn Đương, ThS. Nguyễn Thị Thủy (Đồng chủ biên) đưa ra

định nghĩa về thủ tục tố tụng:
Thủ tục tố tụng theo nghĩa rộng là trình tự, điều kiện, các bảo
đảm chung, thống nhất và có tính bắt buộc phải tuân thủ theo luật
định đối với toàn bộ hoạt động tố tụng cũng như đối với từng
giai đoạn tố tụng, từng hành vi tố tụng cụ thể, đối với các quyết
định tố tụng và đối với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của các chủ thể tố tụng, nhằm phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. [80. , tr.23]
Từ định nghĩa về thủ tục nêu trên, cho thấy, thủ tục TTHS là loại tố
tụng đặc thù, khác với tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, tuy nhiên, việc áp
dụng pháp luật trong tố tụng không làm mất đi mối liên hệ chặt chẽ giữa các
qui phạm pháp luật thuộc các ngành luật khác nhau, hoạt động TTHS không
chỉ là lĩnh vực áp dụng các qui phạm pháp luật hình sự mà trong phạm vi nhất
định còn có một số chế định của quan hệ dân sự cũng được áp dụng, chẳng
hạn như: Giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS, các qui định hành chính cũng
được áp dụng để quản lý, điều hành trong việc giải quyết VAHS.
Trong quá trình tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm
chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định của BLTTHS bởi lẽ mọi vi phạm pháp
luật hoặc việc áp dụng pháp luật không đầy đủ có thể dẫn đến việc xử lý oan,
sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tổn hại đến
uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật và làm giảm lòng tin của nhân dân
vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật. Việc nghiêm chỉnh và triệt để
tuân thủ các quy định của BLTTHS không chỉ là nhiệm vụ của các cơ quan
16


tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn là nhiệm vụ của những
người tham gia tố tụng. VKS là một trong những cơ quan tư pháp tiến hành
các hoạt động tố tụng xuyên suốt ngay từ giai đoạn tin báo tố giác về tội

phạm, đến khi bản án (quyết định) hình sự sơ thẩm có hiệu lực thi hành và
được thi hành. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình VKS
bảo đảm cho mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng được tiến hành nghiêm chỉnh, thống nhất theo quy
định của pháp luật.
Trước khi đưa ra khái niệm thế nào là kháng nghị phúc thẩm VAHS tác
giả luận văn cho rằng, cần phải hiểu „Kháng nghị” là gì và “Phúc thẩm” là gì.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, thuật ngữ “Kháng
nghị” được hiểu là sự bày tỏ ý kiến phản đối bằng văn bản chính thức [78. ,
tr.492]; còn “Phúc thẩm” được hiểu là (Tòa án cấp trên) xét xử lại một vụ án
do cấp dưới đã xử sơ thẩm mà có chống án [78. , tr.790]. Theo từ điển Luật
học thì:
Kháng nghị là quyền mà pháp luật qui định cho Viện kiểm sát và
những người có thẩm quyền ra văn bản kháng nghị, làm ngưng
hiệu lực phán quyết của Tòa án trong Bản án hoặc quyết định đã
tuyên để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm, nhằm làm cho vụ án được xét xử chính xác, khách
quan, đúng pháp luật [77. tr. 53. và 404];
“Phúc thẩm” là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại những Bản
án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng
cáo hoặc kháng nghị, nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có
căn cứ của Bản án, quyết định sơ thẩm, sửa lại những sai lầm và
vi phạm của Tòa án sơ thẩm, bảo đảm cho việc áp dụng thống
nhất pháp luật [77. , tr.378].
17


×