Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3 trường tiểu học lục sơn, huyện lục nam tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.94 KB, 75 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người.
Ngôn ngữ là hiện tượng trực tiếp của tư tưởng : Ngôn ngữ là phương tiện biểu
hiện tâm trạng tình cảm của loài người. Môn Tiếng Việt rất quan trọng đối với
HSTH. Bởi vì nếu HSTH không có vốn từ vựng tiếng Việt thì không thể sử
dụng đúng tiếng Việt và sẽ rất khó khăn trong giao tiếp, trong học tập. Mục tiêu
của môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học là : Hình thành và phát triển ở HS các kĩ
năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các
môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy học tiếng Việt sẽ góp
phần rèn luyện các thao tác tư duy; cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về
tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn
hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài; bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình
thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. Ở tiểu học, phân môn Tập đọc có vị trí quan trọng, có nhiệm vụ rèn kĩ
năng đọc cho HS, là môn học giúp HS chiếm lĩnh được một công cụ mới : chữ
viết; có được năng lực mới : đọc thông viết thạo. Từ đó mở cánh cửa bước vào
địa hạt của người biết đọc, biết viết để có điều kiện nắm lấy kho tàng tri thức và
văn hóa của loài người tàng trữ trong sách vở. Đối với HS lớp 3, việc rèn kĩ
năng đọc vô cùng quan trọng, nó giúp HS hiểu đúng văn bản, giáo dục các em
tình yêu quê hương đất nước, yêu gia đình, bạn bè, thầy cô và mái trường… từ
đó làm giàu kiến thức văn hóa, ngôn ngữ, phát triển nhân cách cho HS… nhờ
biết đọc các em có điều kiện học tốt các môn học khác trong chương trình.
1.3. Trường Tiểu học Lục Sơn nằm ở địa bàn xã Lục Sơn, huyện Lục Nam
- tỉnh Bắc Giang, HS là con em dân tộc chiếm số đông, HS dân tộc Kinh chiếm
số lượng ít. Do những đặc điểm trên nên khi áp dụng chương trình vào giảng
dạy còn gặp nhiều trở ngại, chất lượng đọc của HS trong giờ Tập đọc chưa cao.
Điều này đòi hỏi nhà trường cần có biện pháp khắc phục để đạt kết quả cao hơn
trong giờ dạy - học Tập đọc. Từ những lí do trên tôi đã mạnh dạn viết khóa luận
1




“Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn,
huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang” với mong muốn góp phần nâng cao hơn
chất lượng đọc cho HS lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn.
2. Lịch sử vấn đề
Tập đọc là phân môn thực hành có nhiệm vụ quan trọng là hình thành
năng lực đọc cho HS. Để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học đối với phân
môn Tập đọc ở tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng đã có không ít các giáo sư,
tiến sĩ,… dày công nghiên cứu và đưa ra các biện pháp thích hợp, điển hình là
các công trình sau :
Phương pháp dạy học Tiếng Việt (giáo trình chính thức đào tạo GVTH hệ
cao đẳng sư phạm 12+2) của Lê A - Thành Thị Yên Mĩ - Lê Phương Nga Nguyễn Trí - Cao Đức Tiến. Trong cuốn này tác giả đã đưa ra được cơ sở lí luận
và một số phương pháp dạy học Tập đọc ở tiểu học.
Công trình nghiên cứu Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học (Lê
Phương Nga, NXB Giáo dục - 2003). Tác giả đã đưa ra những phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học rất phong phú nhằm góp phần nâng cao chất lượng
dạy học phân môn Tập đọc.
Tác giả Lê Phương Nga trong cuốn Dạy học Tập đọc ở tiểu học đã đi sâu
nghiên cứu về phân môn Tập đọc với các vấn đề lí luận chung, một số vấn đề tổ
chức dạy học tập đọc. Đồng thời tác giả đã đưa ra một số biện pháp để hình
thành và rèn luyện kĩ năng đọc cho HS. Đây là cơ sở quan trọng để GV vận
dụng vào dạy học tập đọc và rèn kĩ năng tập đọc cho phù hợp với đối tượng HS
của mình.
Cuốn “Đổi mới dạy học ở tiểu học” (NXB Giáo dục - 2005 của Bộ giáo
dục và Đào tạo), dự án phát triển GVTH. Cuốn này giúp bạn đọc nắm được
những đổi mới trong nội dung và phương pháp bài dạy phân môn Tập đọc theo
chương trình SGK mới.
Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học - (tài liệu đào tạo
GV - 2007) của Bộ Giáo dục và Đào tạo, dự án phát triển GVTH, tác giả cập

nhật những thông tin đổi mới về nội dung, chương trình SGK mới, về phương
2


pháp dạy và học theo chương trình mới. Tác giả đã trình bày một cách chi tiết,
cụ thể về cấu trúc nội dung và phương pháp dạy học cho từng phân môn. Đặc
biệt tác giả còn giới thiệu được một số phương pháp dạy học tích cực theo
hướng đổi mới như : sử dụng bộ đồ dùng học tập trong dạy học, sử dụng máy
chiếu, băng hình,… nhằm phục vụ cho quá trình dạy - học đạt kết quả cao nhất.
Trong cuốn Phương pháp dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc cấp tiểu
học (Tài liệu bồi dưỡng GV) của dự án phát triển GVTH đã nghiên cứu và hướng
dẫn HS trong giờ Tập đọc. Đây là những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn có thể áp dụng
vào dạy đọc không chỉ đối với HS dân tộc thiểu số mà ngay cả đối với HS dân tộc
Kinh thì những biện pháp này vẫn hoàn toàn có tác dụng tích cực.
Dạy lớp 3 theo chương trình tiểu học mới của dự án phát triển GVTH đã
đề cập đến những phương pháp, biện pháp chủ yếu để dạy đọc trong đó chú
trọng phương pháp đọc mẫu, phương pháp luyện đọc theo mẫu, phương pháp
thực hành giao tiếp, phương pháp đàm thoại, phương pháp sử dụng trò chơi học
tập nhưng mới chỉ đề cập đến vấn đề mang tính lí luận của phương pháp, chưa
hướng dẫn cụ thể.
Cuốn Rèn kĩ năng sử dụng tiếng Việt (Giáo trình đào tạo GVTH hệ cao
đẳng sư phạm và sư phạm 12 + 2). Tác giả Đào Ngọc - Nguyễn Quang Ninh đã
đưa ra kĩ thuật đọc ở các hình thức đọc thành tiếng và đọc thầm đây cũng là
những gợi ý để tôi đề xuất các biện pháp rèn kĩ năng đọc cho HS lớp 3, trường
Tiểu học Lục Sơn.
Những công trình nghiên cứu trên với các hướng nghiên cứu khác nhau
song đều đưa ra những lí luận có tính thuyết phục cho dạy học tập đọc, đây là cơ
sở quan trọng để người viết đi sâu vào tìm hiểu “Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho
HS lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn, huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang” sao cho
có hiệu quả.

3. Mục đích nghiên cứu
- Khóa luận dựa trên những lí luận chung về dạy học tập đọc đồng thời căn
cứ vào đặc điểm, khả năng đọc của HS lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn để đưa
ra các biện pháp rèn kĩ năng đọc.
3


- Qua nghiên cứu giúp GV Trường Tiểu học Lục Sơn có sự nhìn nhận
đúng hơn, sâu hơn về tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng đọc cho HS. Từ đó
biết lựa chọn, tìm ra những biện pháp, phương pháp dạy học phù hợp với đặc
điểm và trình độ của HS nhằm nâng cao hiệu quả giờ Tập đọc.
- Giúp người viết khóa luận nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lí luận dạy tập đọc và biện pháp rèn kĩ năng đọc cho HS
lớp 3.
- Khảo sát SGK và thực tế dạy đọc ở lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn.
- Bước đầu đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho HS lớp 3
Trường Tiểu học Lục Sơn.
- Thực nghiệm để khẳng định tính khả thi của khóa luận.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng và đề xuất biện pháp rèn kĩ năng
đọc cho HS lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn, huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu về nội dung phân môn Tập đọc trong SGK lớp 3 và
việc dạy tập đọc lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn, huyện Lục Nam - tỉnh Bắc
Giang.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Đọc tham khảo tài liệu, phân tích, tổng hợp khái quát hóa các vấn đề tài
liệu có liên quan để làm cơ sở lí luận cho khóa luận.

- Phương pháp thống kê khảo sát thực tế nhằm củng cố cơ sở thực tiễn
cho khóa luận bằng cách dự giờ, phát phiếu điều tra, trắc nghiệm,…
- Phương pháp so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp lí thuyết và thực
tiễn khái quát và rút ra những kết luận, đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng đọc
cho HS.

4


7. Giả thiết khoa học
Nếu khóa luận được thực hiện thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh
viên khoa Tiểu học - Mầm non, GV Trường Tiểu học Lục Sơn, huyện Lục Nam
- tỉnh Bắc giang để góp phần rèn kĩ năng đọc cho HS.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của khóa luận được
chia làm 3 chương :
Chương 1 : Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu.
Cơ sở lí luận : Nghiên cứu đọc và rèn kĩ năng đọc ở nhà trường tiểu học;
cơ sở tâm, sinh lí của việc dạy đọc; cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc;
các phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tiếng Việt ở tiểu học.
Cơ sở thực tiễn : Tìm hiểu nội dung chương trình phân môn Tập đọc trong
SGK Tiếng Việt 3; thực trạng dạy - học phân môn Tập đọc lớp 3 Trường Tiểu
học Lục Sơn.
Chương 2 : Biện pháp rèn kĩ năng đọc cho HS lớp 3 Trường Tiểu học
Lục Sơn, huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
Tác giả đề xuất 10 biện pháp : Tạo hứng thú học tập cho HS; GV rèn kĩ
năng đọc mẫu; Hướng dẫn HS rèn kĩ năng đọc đúng; Hướng dẫn HS rèn kĩ năng
đọc diễn cảm; Hướng dẫn HS rèn kĩ năng đọc thầm; thiết kế hệ thống câu hỏi
giúp HS tìm hiểu bài; sử dụng đồ dùng trực quan; sử dụng trò chơi; dạy học Tập
đọc theo hướng tích hợp với các phân môn và môn học khác; sử dụng hoạt động

ngoại khóa trong rèn kĩ năng đọc cho HS.
Chương 3 : Thể nghiệm sư phạm.

5


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA KHÓA LUẬN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Đọc và rèn kĩ năng đọc ở nhà trường tiểu học
1.1.1.1. Đọc là gì
Trong cuốn “Sổ tay thuật ngữ dạy học tiếng Nga” (1988) viện sĩ M. R.
Lơvốp đã định nghĩa “Đọc là một hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng
thức chữ viết sang dạng thức lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình
thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành
các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với hình thức đọc thầm)”.
Định nghĩa này là một quan niệm đầy đủ về đọc, xem đó là một quá trình
giải mã hai bậc chữ viết đến âm thanh và chữ viết (âm thanh) đến nghĩa. Như
vậy, đọc không chỉ là công việc giải quyết một bộ mã (gồm 2 phần) chữ viết và
âm thanh nghĩa là nó không phải chỉ là sự đánh vần phát âm thành tiếng theo
đúng như kí hiệu chữ viết, mà còn là quá trình nhận thức, để có kĩ năng thông
hiểu những gì đọc được. Trên thực tế nhiều khi người ta đã không hiểu khái
niệm đọc một cách đầy đủ. Nhiều chỗ, người ta chỉ nói đến đọc như nói đến
việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyền từ âm sang nghĩa đã không được
chú ý đúng mực.
1.1.1.2. Kĩ năng đọc là gì
Việc hình thành kĩ năng đọc trùng với nắm kĩ năng đọc (tức là việc chuyển
dạng thức chữ viết của từ và âm thanh) đọc được hiểu và kĩ thuật đọc cộng với
sự thông hiểu đọc (không chỉ hiểu nghĩa từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài) ý nghĩa cả
hai mặt của thuật ngữ “đọc” được ghi nhận trong các tài liệu tâm lí học và

phương pháp dạy học.
Kĩ năng đọc là một kĩ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện tập lâu
dài T.G.E Gôrốp chia việc hình thành này thành 3 giai đoạn phân tích, tổng hợp
(còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành
động) và giai đoạn tự động hóa.

6


HS lớp 2, 3 bắt đầu đọc tổng hợp. Thời gian gần đây người ta đã chú trọng hơn
đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kĩ năng đọc, đồng
thời hướng tới việc hoàn thiện kĩ năng đọc, hướng đến đọc có ý thức bài đọc.
1.1.2.3. Ý nghĩa của việc đọc và rèn kĩ năng đọc
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu của văn hóa, khoa học,
tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần
lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể
tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống bình thường có hạnh phúc
với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc con người đã nhân khả
năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây ta biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận
thức các mối quan hệ tự nhiên xã hội tư duy. Biết đọc con người sẽ có khả năng
chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên
trong của người khác, thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt
khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức
mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng
lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như bồi dưỡng tâm hồn. Không biết đọc
con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho họ,
không thể hình thành được một nhân cách toàn diện. Đặc biệt trong thời đại
bùng nổ công nghệ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì nó sẽ giúp
người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc
để tự học, học cả đời.

Chính vì vậy Tập đọc là một phân môn có ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Nó trở
thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải
học đọc sau đó đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong giao
tiếp và học tập, nó cũng là một công cụ để học các môn học khác, nó tạo ra hứng
thú và động cơ học tập. Đồng thời nó tạo điều kiện cho HS có khả năng tự học.
Đọc là khả năng không thể thiếu của con người trong thời đại văn minh. Biết
đọc sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn, hướng các em tới cái thiện, cái đẹp, dạy
cho các em biết cách suy nghĩ lôgic, tư duy có hình ảnh.

7


Như vậy việc dạy đọc và rèn kĩ năng đọc có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng vì nó bao gồm nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
1.1.2.4. Nhiệm vụ của dạy đọc và rèn kĩ năng đọc ở trường tiểu học
a) Hình thành năng lực đọc cho HS
Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình
thành năng lực đọc cho HS. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng cũng là
bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc” : đọc đúng, đọc nhanh, (đọc lưu loát, trôi
chảy), đọc có ý thức (thông hiểu nội dung những gì mình đọc hay còn gọi là đọc
hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong hai hình thức
đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm.
- Đọc thành tiếng là hình thức đọc phát ra âm thanh. Hình thức đọc này
dựa theo nghiên cứu quá trình của người mới tập đọc là hoạt động dùng mắt để
nhận biết văn bản viết đồng thời sử dụng cơ quan phát âm phát ra thành âm
thanh để người khác nghe được. Đọc thành tiếng chính là hoạt động chuyển văn
bản ngôn ngữ viết thành văn bản ngôn ngữ âm thanh.
- Hình thức đọc thành tiếng trong nhà trường được chia thành hai mức độ
là : đọc đúng và đọc diễn cảm, trong đó :
+ Đọc đúng là : đọc rõ tiếng, rõ lời, đúng chính âm; biết ngắt nghỉ hơi đúng

chỗ theo dấu câu và ngữ nghĩa văn bản; giọng đọc rõ ràng lưu loát đủ nghe.
+ Đọc diễn cảm là hình hình thức đọc thành tiếng không những đạt được
yêu cầu đọc đúng đã nêu ở trên mà còn có yêu cầu về ngữ điệu đọc truyền cảm
và sự kết hợp về ngữ điệu đọc với các yếu tố kèm ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ,
điệu bộ, ánh mắt góp phần diễn tả nội dung bài đọc và hướng tới người nghe.
- Đọc thầm là hình thức đọc không thành tiếng, người đọc dùng mắt để
nhận biết văn bản và vận dụng năng lực tư duy để thông hiểu và tiếp nhận nội
dung thông tin của văn bản.
Yêu cầu của kĩ thuật đọc thầm là :
+ Tập trung chú ý trong khi đọc.
+ Rèn luyện để có tốc độ đọc thầm nhanh.
+ Tự kiểm tra kết quả đọc thầm.
8


b) Giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương pháp và thói quen làm
việc với sách, làm việc với văn bản, làm việc với sách cho HS
Làm cho sách trở thành một sự tôn sùng, ngự trị trong nhà trường, đó là
một trong những điều kiện để trường học thực sự trở thành trung tâm văn hóa.
Nói cách khác thông qua việc dạy đọc, phải làm cho HS thích thú và thấy đó là
một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình cuộc sống trí tuệ đầy đủ và
phát triển.
c) Các nhiệm vụ khác
Vì việc đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên
cạnh việc rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc còn có các
nhiệm vụ sau :
- Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, kiến thức văn học cho HS.
- Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho HS.
- Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho HS.
1.1.2. Cơ sở tâm lí, sinh lí của việc dạy đọc

Để tổ chức giờ Tập đọc cho HS chúng ta cần hiểu rõ quá trình đọc. Đặc
biệt tâm, sinh lí của HS khi đọc là cơ sở của việc dạy đọc.
Đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở của nó là việc tiếp nhận
thông tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác.
Đọc được xem là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là
việc sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự
ghi lại bằng lời nói âm thanh. Đó là vận động tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã
chữ nghĩa, tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa
đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung những gì được đọc. Đọc bao
gồm những yếu tố tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của các cơ quan phát âm, các
cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc, càng ngày những yếu tố
này càng gần với nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.
Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp
giữa những mặt riêng lẻ này trong quá trình đọc. Đó là điểm phân biệt người

9


mới biết đọc và người đọc thành thạo. HS càng có khả năng tổng hợp các mặt
trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác biểu cảm bấy nhiêu.
Đọc là hiểu nghĩa chữ viết, nếu trẻ không hiểu những từ đưa ra cho các em
đọc thì các em sẽ không có hứng thú học tập và không có khả năng thành công.
Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ hứng thú cho việc đọc. Như nhà
thơ Puskin khi được hỏi “Vì sao ông đọc hay thế ?” thì nhà thơ đã trả lời : “Vì
tôi đã thấy tất cả những gì tôi đọc”. Điều đó cho thấy hiểu những gì được đọc sẽ
tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc.
Mục đích đọc hiểu chỉ có thể đạt được thông qua con đường luyện giao
tiếp có ý thức. Một phương tiện luyện tập quan trọng, cũng đồng thời là một
mục tiêu đạt tới trong sự chiếm lĩnh ngôn ngữ chính là việc đọc thành tiếng và
đọc thầm.

Quá trình hiểu văn bản bao gồm các bước sau :
+ Hiểu các từ ngữ
+ Hiểu nghĩa các câu
+ Hiểu nghĩa các khối đoạn
+ Hiểu nghĩa được cả bài
HSTH không phải bao giờ cũng dễ dàng hiểu được những bài mình đọc. Hầu
như toàn bộ sức chú ý đều tập trung vào việc nhận ra mặt chữ, đánh vần để phát
âm, còn nghĩa thì chưa đủ thì giờ và sức lực để mà nhận biết. Mặt khác, do vốn từ,
năng lực liên kết thành câu, thành ý còn hạn chế nên việc hiểu nội dung còn khó
khăn. Đây là cơ sở để hình thành năng lực đọc hiểu cho HSTH.
1.1.3. Cơ sở ngôn ngữ và văn học với việc dạy đọc
Phương pháp dạy học Tập đọc phải dựa trên cơ sở ngôn ngữ học. Nó liên
quan mật thiết đến một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính âm, chính
tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học) vấn đề nghĩa của từ, câu, đoạn, bài
(thuộc từ vựng học, ngữ pháp học) vấn đề dấu câu, các kiểu câu,... (thuộc ngữ
pháp học).
Mặt khác, cần phải thấy rằng hiện nay, những vấn đề nghiên cứu của việt
ngữ học còn hạn chế, chưa đáp ứng những vấn đề đòi hỏi của phương pháp.
10


Ví dụ : Việc chưa thống nhất được một chuẩn chính âm, những nghiên cứu
ít ỏi về ngữ điệu tiếng Việt,... làm cho phương pháp dạy Tập đọc không tránh
khỏi những lúng túng khi giải quyết những vấn đề về đọc đúng, đọc diễn cảm.
Chẳng hạn, không giải quyết được vấn đề phát âm địa phương một cách có tính
nguyên tắc, không có được những chỉ dẫn cụ thể cho đọc đúng, đọc diễn cảm
đành bằng lòng với những cách nói chung chung, hời hợt.
a) Vấn đề chính âm trong tiếng Việt
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và hiệu
quả về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự

có nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn
hóa ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng
chính âm. Vấn đề đặt ra là phải giải quyết như thế nào những nét khác biệt trên
bình diện ngữ âm giữa các phương ngữ, một hiện tượng khách quan có liên quan
đến chuẩn chính âm.
Bảng 1 : Những nét khác biệt về chuẩn chính âm giữa các vùng phương ngữ.
Phương ngữ

Bắc bộ

Bắc trung

Nam trung bộ

bộ

và Nam bộ

Những nét khác biệt
Âm đầu tr, s, r

-

+

+

Vần ưu, ươu

-


+

+

Âm đầu v

+

+

-

Âm cuối t, n

+

+

-

Sáu thanh

+

-

-

Thực tế bức tranh ngữ âm của các phương ngữ tiếng Việt còn đa dạng và

phức tạp hơn nhiều.
b) Vấn đề ngữ điệu tiếng Việt
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc là sự lên cao
hay hạ thấp giọng đọc. Ngữ điệu là một trong những thành phần của ngữ điệu.
Ngữ điệu gồm toàn bộ các phương tiện siêu đoạn (siêu âm đoạn tính) được sử
11


dụng ở bình diện câu như cao độ (độ cao thấp của âm thanh), cường độ (độ
mạnh yếu của âm thanh hay là áp suất trên một đơn vị diện tích của môi truyền
dẫn), trường độ (độ dài ngắn của âm thanh hay là thời gian thực tế của âm
thanh), âm sắc (sắc thái riêng của âm thanh),... Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với
lời nói, là yếu tố tham gia tạo thành lời nói.
Mỗi ngôn ngữ có một lời nói riêng. Ngữ điệu tiếng Việt cũng như các
ngôn ngữ có âm thanh khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống
giọng (cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngưng giọng (trường độ) và sự
chuyển giọng (phối hợp cả cường độ và trường độ).
Trong cấu trúc của ngữ điệu có “phần cứng” và “phần mềm” :
- Phần cứng là những đặc trưng vốn có của các thành phần tham gia cấu
thành ngữ điệu (như đặc trưng vốn có của cao độ, cường độ, trường độ) phần
này mang tính bắt buộc, tính xã hội và tính phổ quát.
+ Phần mềm là sự sáng tạo của người nói, người đọc khi sử dụng ngữ
điệu. Phần này mang tính nghệ thuật, tính cá nhân, gắn với những tình huống
giao tiếp, những trường hợp sử dụng cụ thể đồng thời cũng mang tính sáng tạo.
Như vậy theo nghĩa rộng, ngữ điệu là toàn bộ những phương tiện như sự
lên giọng, xuống giọng, chỗ ngừng, tốc độ, chỗ nhấn giọng... được thống nhất
thành một tổ hợp phản ánh đúng thái độ, tình cảm, cảm xúc của tác giả khi mô tả
gọi là ngữ điệu. Như vậy, ngữ điệu chính là sự hòa đồng về âm hưởng của bài
đọc. Nó có giá trị lớn về bộc lộ cảm xúc, vì vậy sử dụng ngữ điệu rất quan trọng
trong rèn kĩ năng đọc đặc biệt là kĩ năng đọc diễn cảm.

c) Lí thuyết văn bản, phong cách văn bản và việc dạy đọc
Việc dạy đọc không thể không dựa trên lí thuyết về văn bản. Những tiêu
chuẩn để phân tích, đánh giá một văn bản (ở đây muốn nói tới những bài Tập
đọc ở tiểu học) nói chung cũng như lí thuyết để phân tích, đánh giá các tác phẩm
văn chương nói riêng.
Việc hình thành kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm và đọc hiểu cho HS phải
dựa trên những tiêu chuẩn đánh giá một văn bản tốt : Tính chính xác, tính đúng
đắn và tính thẩm mĩ, dựa trên các đặc điểm về các kiểu ngôn ngữ, các phong
12


cách chức năng, các thể loại, các bảng điểm về loại thể của tác phẩm văn
chương dùng làm ngữ điệu đọc ở tiểu học.
Ví dụ : Cách đọc khai thác để hiểu nội dung một bài thơ, một đoạn tả
cảnh, một câu tục ngữ, một truyền thuyết, một bài lịch sử, một bài có tính chất
khoa học thường thức,... là khác nhau. Việc hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung bài
đọc cũng phải dựa trên những hiểu biết về đề tài, chủ đề kết cấu nhân vật, quan
hệ giữa nội dung và hình thức, các biện pháp thể hiện trong tác phẩm văn học
nhằm miêu tả, kể chuyện và biểu hiện các phương tiện, biện pháp tu từ.
Việc luyện đọc cho HS phải dựa trên những đặc điểm ngôn ngữ văn học,
tính hình tượng, tính tổ chức cao và tính hàm xúc đa nghĩa của nó.
1.1.4. Các phương pháp đặc trưng của dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
Có nhiều phương pháp dạy học đặc trưng của dạy học môn Tiếng Việt ở
tiểu học có thể áp dụng vào dạy phân môn Tập đọc như :
Phương pháp phân tích ngôn ngữ : Là phương pháp được sử dụng một
cách có hệ thống trong việc xem xét tất cả các mặt của ngôn ngữ : Ngữ âm, ngữ
pháp, từ vựng, cấu tạo từ, chính tả, phong cách với mục đích làm rõ các kiểu
đơn vị ngôn ngữ. Hình thức và cách thức cấu tạo ý nghĩa của việc sử dụng
chúng trong nói năng. Các dạng phân tích ngôn ngữ : quan sát ngôn ngữ (là giai
đoạn đầu của quá trình phân tích ngôn ngữ nhằm tìm ra điểm giống và khác

nhau rồi sắp xếp chúng theo một trật tự nhất định), phân tích ngữ âm, phân tích
ngữ pháp, phân tích chính tả, phân tích tập viết, phân tích các tác phẩm văn
chương,... Tất cả các dạng phân tích ngôn ngữ đều là bộ phận cấu thành của các
dạng ngôn ngữ khác nhau : bài tập viết, chính tả, kể lại các bài văn với nhiệm vụ
phân tích.
Phương pháp luyện tập theo mẫu : Là phương pháp mà HS tạo các đơn vị
ngôn ngữ, lời nói bằng cách mô phỏng lời thầy giáo, phương pháp này gồm
nhiều dạng bài tập như kể lại, đặt câu theo mẫu cho trước, phát âm hoặc đọc
diễn cảm theo thầy giáo. Phương pháp này thường được sử dụng trên giờ Tập
đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn.

13


Phương pháp giao tiếp : Là phương pháp dạy tiếng dựa vào lời nói những
thông báo sinh động và giao tiếp bằng ngôn ngữ. Phương pháp này gắn liền với
phương pháp luyện tập thep mẫu, cơ sở của phương pháp giao tiếp là chức năng
giao tiếp của ngôn ngữ. Nếu ngôn ngữ được coi là phương tiện giao tiếp thì lời
nói được coi là bản thân sự giao tiếp bằng ngôn ngữ. Dạy tiếng Việt theo hướng
giao tiếp tức là dạy phát triển từng lời nói của từng cá nhân HS. Phương pháp
giao tiếp coi trọng sự phát triển lời nói còn những kiến thức lí thuyết thì được
nghiên cứu trên cơ sở phân tích các hiện tượng đưa ra trong bài. Để thực hiện
phương pháp giao tiếp phải tạo ra cho HS nhu cầu giao tiếp, nội dung giao tiếp,
môi trường giao tiếp, các phương tiện giao tiếp và các thao tác giao tiếp.
Việc tách ra từng phương pháp là để giải thích rõ nội dung của chúng.
Trong thực tế dạy học, các phương pháp thường được sử dụng phối hợp chặt chẽ
không có phương pháp nào là vạn năng. Điều quan trọng là phải nắm vững các
điều kiện cụ thể của dạy học để lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Các yếu tố
liên quan trực tiếp đến phương pháp là nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy học, khả
năng của HS, trình độ của GV, điều kiện vật chất.

1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Nội dung dạy học phân môn Tập đọc lớp 3
SGK Tiếng Việt 3 gồm 93 bài Tập đọc, trong đó có 30 bài thơ, 63 bài văn
xuôi (truyện, văn miêu tả, văn bản khoa học, nghị luận và văn bản thông
thường), 18 bài là tác phẩm văn học nước ngoài hoặc có nội dung về nước ngoài
và người nước ngoài.
Chương trình gồm 15 chủ điểm lớn như : Măng non, Mái ấm, Tới trường,
Cộng đồng, Quê hương, Bắc trung nam, Anh em một nhà, Thành thị và nông
thôn, Bảo vệ tổ quốc, Sáng tạo, Nghệ thuật, Lễ hội, Thể thao, Ngôi nhà chung,
Bầu trời và mặt đất. Mỗi chủ điểm được học trong hai tuần, riêng chủ điểm Ngôi
nhà chung học trong 3 tuần.
Bám sát các chủ điểm, nội dung phân môn Tập đọc phản ánh nhiều lĩnh
vực khác nhau, từ gia đình, nhà trường, quê hương, các vùng miền và các dân
tộc anh em trên đất nước ta đến các hoạt động văn hóa, khoa học, thể thao và các
14


vấn đề lớn của xã hội như bảo vệ hòa bình, phát triển tình hữu nghị, sự hợp tác
giữa các dân tộc, bảo vệ môi trường sống, chinh phục vũ trụ,...
Trong các bài Tập đọc việc sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa
ngắn gọn, dễ hiểu tạo nên hình ảnh ngôn ngữ. Vì vậy nhờ sự phân dạng các bài
Tập đọc đã góp phần giúp GV xác định được đặc trưng riêng của từng giọng
điệu để hướng dẫn HS đọc tốt, đọc hay và nâng cao chất lượng cảm thụ của HS
bằng chính giọng đọc của mình.
Về thơ, thể thơ trữ tình chiếm vị trí đa số. Các bài thơ được trích dẫn từ
hình ảnh nhạc điệu quen thuộc, thiên về giáo dục tình cảm, đạo đức, tình yêu
quê hương đất nước, gia đình, trường học, tình hữu nghị, những ước mơ cao
đẹp,... Giúp HS nâng cao kĩ năng, cảm xúc thẩm mĩ, kích thích các em đọc
đúng, đọc hay để cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn chương.
1.2.2. Thực trạng dạy - học phân môn Tập đọc lớp 3 Trường Tiểu học

Lục Sơn
Trường Tiểu học Lục Sơn có tổng số 30 GV trong đó GV dạy lớp 3 gồm 6
GV (3 GV dạy chính kiêm chủ nhiệm và 3 GV dạy bộ môn). Các GV tham gia
giảng dạy đều đạt chuẩn GVTH trong đó 2 GV đạt trình độ đại học, 4 GV đạt
trình độ cao đẳng.
Trường có 3 lớp 3, tổng số HS và thành phần HS được thể hiện qua bảng sau :
Bảng 2 : Tổng số HS và thành phần HS khối lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn.
Lớp

SL

Thành phần dân tộc

%

Dân tộc Kinh

Dân tộc thiểu số

SL

%

SL

%

3A

25


100

6

24%

19

76%

3B

25

100

5

20%

20

80%

3C

24

100


13

54%

11

46%

Tổng số

74

100

24

32%

50

68%

1.2.2.1. Về phía GV
Trong thời gian về thực tập tại Trường Tiểu học Lục Sơn tôi được các cô
15


giáo dạy phân môn Tập đọc lớp 3 của trường cho dự giờ, trò chuyện. Qua các
cuộc đàm thoại trực tiếp với các GV dạy phân môn Tập đọc, tôi ghi lại được một

số kết quả quan trọng.
Với câu hỏi thứ nhất : Theo cô ở lớp 3 Tập đọc là phân môn như thế nào ?
Thì cả 3 cô đều cho rằng Tập đọc là phân môn rất quan trọng và nó có tác động
đến nhiều môn học khác. Đây là một nhận thức đúng đắn bởi muốn dạy tốt được
phân môn này cần phải hiểu đúng về tầm quan trọng của nó từ đó sẽ chú trọng
hơn đến việc rèn đọc cho HS.
Việc sử dụng phương pháp dạy học sao cho đạt kết quả tốt cũng là một
vấn đề đáng quan tâm, khi tôi đưa ra câu hỏi thứ hai : Trong giờ dạy Tập đọc lớp
3 cô thường sử dụng những phương pháp nào ? Cả 3 cô đều cho biết : phương
pháp đọc mẫu và luyện đọc theo mẫu, phương pháp trực quan, phương pháp
giao tiếp, phương pháp hỏi đáp, phương pháp khen thưởng,...
Qua hai tiết dự giờ ở lớp 3A và lớp 3C tôi nhận thấy đội ngũ GV đã đảm
bảo về mặt kiến thức chuyên môn là chuẩn GVTH. Trong quá trình giảng dạy
cũng đã có sự đổi mới về phương pháp, thích ứng với nội dung chương trình
mới nhưng vẫn gặp một số khó khăn trong giảng dạy dẫn đến hiệu quả dạy học
chưa cao.
Khi trò chuyện với cô Bàn Thị Thanh - GV dạy Tập đọc kiêm chủ nhiệm
lớp 3C (lớp chọn), cô cho tôi biết : HS lớp 3C phần lớn là HS dân tộc Kinh
(chiếm khoảng 54%), nhìn chung điều kiện gia đình các em khá, điều kiện học
tập tốt nên các em có khả năng đọc tốt, bên cạnh đó các em HS dân tộc cũng là
những HS được lựa chọn vào lớp chọn nên có khả năng đọc khá tốt. Hứng thú
học phân môn Tập đọc của các em cao, các em đã tự biết cách đọc bài theo loại
thể, tự biết ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ, tuy khả năng đọc diễn cảm chưa cao và
phần nhiều các em còn phát âm ngọng hai phụ âm l/n. Đây là những khó khăn
lớn mà cô Thanh trăn trở, đang từng bước sửa lỗi cho các em nhưng cô cho biết
“Hiệu quả sửa lỗi chưa khả quan, việc phát âm sai phụ âm l/n đã là một hiện
tượng đối với các em HS đặc biệt là HS dân tộc Kinh. Việc sửa lỗi phát âm hai
phụ âm này là rất khó, cần phải có quá trình lâu dài”.
16



Khi trò chuyện với cô Đỗ Thị Quyến - GV dạy Tập đọc kiêm chủ nhiệm
lớp 3B, cô cho tôi biết : HS lớp 3B khả năng đọc chưa cao : Một bộ phận HS
còn đọc chậm, ngắt nghỉ hơi tự do, hứng thú học phân môn Tập đọc chưa cao,
giờ học chưa sôi nổi, việc rèn đọc còn gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là ít em
có khả năng đọc diễn cảm và việc sửa lỗi cho các em cũng gặp nhiều khó khăn.
Qua tiết dự giờ lớp 3A tôi nhận thấy nhìn chung khả năng đọc của các em
còn chưa cao, lỗi phát âm còn nhiều và giờ học chưa sôi nổi. Trong giờ dạy cô
Hoàng Thị Ngoan - GV chủ nhiệm lớp 3A việc vận dụng các phương pháp, hình
thức tổ chức giờ dạy còn chưa đạt hiệu quả cao.
Về phía nhà trường tôi nhận thấy Trường Tiểu học Lục Sơn là trường có
cơ sở vật chất khá tốt. Có thư viện đọc và các cây thư viện đọc dành cho HS
được đặt quanh sân trường. Tuy nhiên, nhà trường còn chưa đạt hiệu quả cao
trong việc lôi cuốn các em tham gia đọc, số lượng truyện thiếu nhi, báo nhi
đồng, báo thiếu niên tiền phong,... trong các cây thư viện ít được luân chuyển,
đổi mới. Các cơ sở vật chất khác như phòng học khang trang, đồ dùng dạy - học
khá đầy đủ, máy tính, máy chiếu của nhà trường đã được trang bị, tuy nhiên còn
thiếu. Nhiều GV có trình độ tin học còn thấp nên việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học phân môn Tập đọc cũng như các môn học khác còn hạn
chế, chưa phát huy hết được hiệu quả của giờ học.
1.2.1.2. Về phía HS
Qua dự giờ, khảo sát kĩ năng đọc (bằng phiếu học tập) tôi thu được một số
kết quả sau :
Bảng 3 (câu 1) : Em có thích học phân môn Tập đọc lớp 3 không ?
Mức độ

Thích

Bình thường


Không thích

Số lượng

53/74

20/74

1/74

Tỉ lệ

72%

27%

1%

17


Bảng 4 (câu 2) : Em thích đọc loại bài nào ?
Loại bài

Tổng

Bình thường

tập đọc


số HS

SL

%

SL

%

SL

%

Thơ

74

74

100%

0

0%

0

0%


Văn xuôi

74

48

65%

24

32%

2

3%

Thích

Không thích

Bảng 5 (câu 3) : Em có những sách gì phục vụ cho việc học tập đọc ?

STT

Tên sách

Số HS

1


SGK

2
3



Không có

SL

%

SL

%

74

74

100%

0

0%

Vở bài tập Tiếng Việt

74


74

100%

0

0%

Các tài liệu khác

74

28

38%

46

62%

Bảng 6 (câu 4) : Trong quá trình học tập đọc em có thích chơi trò chơi không ?
Thích

Tổng số HS
74

Bình thường

Không thích


SL

%

SL

%

SL

%

68

92%

6

8%

0

0%

Bảng 7 (câu 5) : Ở nhà em có thường xuyên luyện đọc không ?
Lớp

Số HS


3A

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

Không bao giờ

SL

%

SL

%

SL

%

25

7

28%

15

60%


3

12%

3B

25

5

20%

16

64%

4

26%

3C

24

10

42%

13


54%

1

4%

18


Bảng 8 : Một số lỗi phát âm sai phụ âm đầu của HS lớp 3 Trường Tiểu học
Lục Sơn.
Lỗi phát âm
Lớp

Số HS

3A

25

3B

25

3C

24

l/n


tr/ch

r/d/gi

s/x

(%)

(%)

(%)

(%)

14/25

8/25

5/25

6/25

(56%)

(32%)

(20%)

(24%)


12/25

9/25

6/25

7/25

(48%)

(36%)

(24%)

(28%)

15/24

5/24

4/24

2/24

(63%)

(21%)

(17%)


(8%)

Bảng 9 : Một số lỗi phát âm phần vần của HS lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn
Lỗi phát âm
Lớp

Tổng số HS

3A

25

3B

25

3C

24

eo/oeo

iu/uyu

iêt/iêc

(%)

(%)


(%)

6/25

8/25

3/25

(24%)

(32%)

(12%)

7/25

6/25

4/25

(28%)

(24%)

(16%)

2/24

3/24


1/24

(8%)

(13%)

(4%)

19


Bảng 10 : Lực học phân môn Tập đọc của HS lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn.
Lớp

Tổng số

Lực học
Giỏi

HS

Khá

Yếu

Trung
bình

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

3A

25

100

3

12%

8


32%

12

48%

2

8%

3B

25

100

3

12%

9

40%

11

44%

2


8%

3C

24

100

9

38

13

54%

2

8%

0

0%

Tổng số

74

100


15

20%

30

41%

25

34%

4

5%

Từ các dữ liệu thu được tôi đi đến kết luận như sau :
Nhìn chung các em HS lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn đều có hứng thú
học phân môn Tập đọc (chiếm 72%). Nhưng bên cạnh đó còn một bộ phận HS
còn chưa có hứng thú cao trong học phân môn này (chiếm 27%), và không có
hứng thú học phân môn này (1%). Đây là một khó khăn đầu tiên đối với việc rèn
kĩ năng đọc cho các em vì hứng thú học là một trong những nhân tố quyết định
đến hiệu quả rèn kĩ năng đọc. Vì vậy cần tìm ra biện pháp để nâng cao hứng thú
học tập đọc cho HS.
Đối với loại bài đọc, thể loại mà các em thích đọc là thơ (100%), văn xuôi
gồm nhiều loại như truyện, văn bản khoa học, Văn bản hành chính các em ít
thích đọc hơn (thích 65%, bình thường 32%, không thích 1%). Kết quả đó cũng
không gây cho tôi sự bất ngờ vì thơ giúp các em dễ thuộc, còn văn xuôi thì đa
dạng về thể loại. Ở các bài văn nói về danh nhân, truyện,... với nhiều từ ngữ
miêu tả, hình ảnh giúp các em dễ tiếp cận với nội dung bài đọc nên các em thích

đọc. Nhưng bên cạnh đó còn có các văn bản theo phong cách khoa học, hành
chính lời đọc thường nhanh, mạnh, gọn, rứt khoát, trang nghiêm khó đọc nên
hứng thú đọc của các em chưa cao. Vì vậy, GV cần giúp HS nâng cao hứng thú
đọc các thể loại này.
Trò chơi là một biện pháp dạy học được vận dụng trong các môn học ở
tiểu học rất phổ biến, nó phù hợp với đặc điểm HSTH. Qua kết quả khảo sát cho
20


thấy tỉ lệ HS thích tham gia chơi trò chơi trong giờ Tập đọc cao (92%). Điều đó
cho thấy trò chơi có tác dụng rất lớn đối với HS, tạo cho các em niềm tin hứng
thú khi đọc. Do đó, GV cần thiết kế những trò chơi hay, thu hút HS tham gia
chơi, thực hiện được mục đích học mà chơi - chơi mà học trong giờ Tập đọc.
Giáo dục đổi mới cả nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và cách
nhận xét, đánh giá. Giờ đây GV không còn giao cho HS bài tập về nhà nhiều
như trước, việc rèn đọc được thực hiện chủ yếu trên lớp. Tuy nhiên đối với
những HS yếu thì sự hỗ trợ từ gia đình giúp các em rèn đọc ở nhà là rất cần
thiết. Kết quả trên cho thấy việc rèn đọc ở nhà của các em bị coi nhẹ. Bên cạnh
những HS dân tộc Kinh, điều kiện gia đình khá (nhiều HS là con em cán bộ)
được gia đình quan tâm rèn đọc cho con thì các em HS dân tộc lại không được
gia đình quan tâm như vậy. Các em HS dân tộc thường đọc yếu hơn, vì vậy mà
hứng thú đọc chưa cao, về nhà các em lười đọc. Điều đó giải thích vì sao ở lớp
3C (lớp chọn) chiếm tới 54% HS dân tộc Kinh lại có khả năng đọc tốt hơn hẳn 2
lớp còn lại.
Rèn kĩ năng đọc không tách khỏi yêu cầu sửa lỗi phát âm cho HS, dù HS
đọc nhanh, diễn cảm tốt đến đâu nhưng phát âm sai thì chưa được coi là có kĩ
năng đọc tốt. Kết quả điều tra cho thấy nhìn chung HS lớp 3 Trường Tiểu học
Lục Sơn đều mắc lỗi phát âm. Hai phụ âm mà các em mắc lỗi phát âm nhiều
nhất là l/n (HS dân tộc Kinh hầu như phát âm sai hai phụ âm này), tiếp theo là
các phụ âm tr/ch, r/d/gi, s/x. Nhiều HS chỉ phát âm sai 1 đến 2 phụ âm nhưng có

những em phát âm sai nhiều phụ âm, vần. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến phát
âm sai tôi rút ra được mấy nguyên nhân chủ yếu sau :
Thứ nhất, do ảnh hưởng của vùng phương ngữ.
Thứ hai, do GV chưa chú trọng hoặc thường sửa lỗi phát âm cho HS
nhưng hiệu quả chưa cao.
Thứ ba, do các em chịu ảnh hưởng bởi cách phát âm sai từ gia đình và mọi
người ở nơi mà em sống.
Thứ tư, do khả năng đọc của nhiều em HS dân tộc còn chưa cao vì vậy các em
còn chú trọng vào việc đọc lưu loát hơn chứ chưa chú trọng đến sửa lỗi phát âm.
21


Tóm lại qua phần tìm hiểu thực trạng học phân môn Tập đọc của HS lớp 3
Trường Tiểu học Lục Sơn tôi thấy nhìn chung các em đã có hứng thú học học
phân môn này nhưng hứng thú chưa cao. Khả năng đọc của HS là đa trình độ,
số HS giỏi chiếm 20%, Số HS khá chiếm 41%, số HS trung bình chiếm 34 %,
còn lại số HS yếu chiếm 5 %. Lớp 3C có lực học khá cao là do đây là lớp chọn,
các HS trong lớp chiếm phần lớn là HS người Kinh có điều kiện gia đình khá.
Bên cạnh đó số HS dân tộc được lựa chọn vào lớp này cũng là những em có
khả năng học tốt. Trong khi đó lực học phân môn Tập đọc của hai lớp còn lại
kém hơn hẳn. Từ thực trạng trên đòi hỏi trong giờ dạy Tập đọc GV phải linh
hoạt sử dụng kết hợp nhiều phương pháp để mọi HS đều có thể nắm được bài
và ngày càng có kĩ năng đọc tốt hơn. Đây cũng chính là cơ sở để tôi đề xuất
các biện pháp vào dạy học phân môn Tập đọc lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn,
huyện Lục Nam - tỉnh Bắc Giang.
TIỂU KẾT
Về cơ sở lí luận, người viết đi tìm hiểu đọc và rèn kĩ năng đọc ở nhà trường
tiểu học (khái niệm đọc, khái niệm kĩ năng đọc, ý nghĩa của đọc và rèn kĩ năng
đọc, nhiệm vụ của đọc và rèn kĩ năng đọc); cơ sở tâm sinh lí của việc dạy đọc; cơ
sở ngôn ngữ và văn học; một số phương pháp đặc trưng của dạy học môn Tiếng

Việt ở tiểu học có thể áp dụng vào dạy phân môn Tập đọc lớp 3. Đây là vấn đề
người viết tìm hiểu qua tài liệu tham khảo. Thông qua cơ sở lí luận cho thấy rèn kĩ
năng đọc cho HS có vai trò quan trọng và cấp thiết, nó là tiền đề giúp các em học
tốt môn học này và cũng là cơ sở để học tốt các môn học khác trong chương trình
lớp 3 cũng như chuẩn bị cho yêu cầu về kĩ năng đọc cao hơn ở các lớp trên.
Về cơ sở thực tiễn, người viết tìm hiểu về nội dung chương trình phân môn
Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 3; tìm hiểu về thực trạng dạy và học phân môn
Tập đọc lớp 3 Trường Tiểu học Lục Sơn. Qua khảo sát người viết nhận thấy rằng
nội dung chương trình phân môn Tập đọc trong SGK Tiếng Việt 3 rất phù hợp
với sự đổi mới giáo dục hiện nay, nhìn chung HS đã có hứng thú học phân môn.
này. Tuy nhiên khả năng đọc của các em còn chưa cao, các cô đã có sự quan tâm
đến việc luyện đọc cho HS nhưng kết quả đạt được còn chưa như mong muốn.
22


Trong quá trình giảng dạy còn nhiều khó khăn vì các cô còn gặp không ít bỡ ngỡ
trong việc tiếp cận với chương trình mới. Mặt khác, các GV dạy phân môn Tập đọc
khối 3 đều có nhiều năm thâm niên công tác, các cô đã quá quen với cách dạy cũ
nên việc chuyển sang cách dạy mới theo thông tư 30 là cả một quá trình đổi mới
cần phải có sự kiên trì, yêu nghề thì mới đem lại được hiệu quả cao. Việc đổi mới
nội dung, phương pháp, hình thức dạy học vào dạy học phân môn Tập đọc cần phải
được GV nghiên cứu kĩ lưỡng để vận dụng sao cho phù hợp với đặc điểm, trình độ
HS của mình nhằm đạt được hiệu quả của việc rèn kĩ năng đọc.

23


CHƯƠNG 2
BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG
TIỂU HỌC LỤC SƠN, HUYỆN LỤC NAM - TỈNH BẮC GIANG

2.1. Tạo hứng thú học tập cho HS trong giờ Tập đọc
Sự thành công của bất cứ giờ học nào cũng cần đến sự hứng thú học tập
của HS. Hứng thú học tập của HS có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó phát huy
tính độc lập, tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của HS trong hành trình chiếm
lĩnh tri thức mới và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp.
Để tạo được hứng thú cho HS trong tiết học thì việc tạo được hứng thú
ngay từ đầu tiết học là rất quan trọng, bởi vậy phần giới thiệu bài mới phải có
nghệ thuật, thu hút được sự hứng thú, tò mò của HS. Với Trường Tiểu học Lục
Sơn, HS học ngày hai buổi trên lớp, GV không còn giao cho HS nhiều bài tập về
nhà nên không còn nặng về kiểm tra bài cũ, tuy nhiên GV cũng có thể cho HS
liên hệ với những kiến thức đã học để dẫn dắt vào bài mới. GV có thể đưa ra
một vài câu hỏi, chẳng hạn, khi dạy bài tập đọc : Hội vật (tuần 25, trang 58,
tập 2) GV có thể đưa ra câu hỏi sau : Trước khi vào bài học hôm nay, em nào
cho cô biết bài tập đọc : “Nhà ảo thuật” thuộc chủ điểm nào ? Khi HS trả lời
GV nhận xét (khen HS nhớ bài) rồi dẫn vào bài mới : Tuần này cô sẽ giới thiệu
với các em một chủ điểm mới - chủ điểm “Lễ hội”. Ở chủ điểm này các em sẽ
được biết về rất nhiều lễ hội trên đất nước ta và mở đầu cho chủ điểm này là bài
tập đọc “Lễ hội”, đây cũng chính là bài học Tập đọc ngày hôm nay, các em mở
vở ra và ghi đầu bài vào vở nào ! Như vậy, về hình thức là không kiểm tra bài
cũ nhưng thực tế lại là kiểm tra bài cũ. Ngoài ra GV cũng có thể vào bài bằng
các hình thức khác như dùng tranh ảnh, đặt câu hỏi nêu vấn đề để gây hứng thú,
tạo nhu cầu học bài của HS. Tuy nhiên, GV không nên nói hết nội dung bài
trong phần giới thiệu vì sẽ áp đặt nội dung trước cho HS trong khi lẽ ra nó là cái
đích mà HS cần khám phá ra được.
Để duy trì hứng thú của HS trong suốt tiết học thì ngoài việc có trình độ
chuyên môn tốt, GV cần nắm vững đặc điểm, trình độ HS của mình từ đó áp
dụng các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp, vừa sức (phương
24



pháp luyện tập theo mẫu, phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp gợi
mở vấn đáp, phương pháp trò chơi,... kết hợp các hình thức dạy học linh hoạt
theo nhóm 2, nhóm 4,... cả lớp hoặc cá nhân) như vậy HS sẽ tiếp thu bài tốt, có
hứng thú cao trong việc đọc bài, tìm hiểu bài, không gây cảm giác mệt mỏi.
Việc đánh giá, khen thưởng, ghi nhận sự tiến bộ của HS cần được đưa ra
kịp thời, như vậy sẽ là nguồn động viên lớn đối với các em. Điều đó đòi hỏi sự
khéo léo trong giao tiếp sự phạm của GV, GV cần đưa ra được những lời nhận
xét chính xác và thiên về khuyến khích HS để các em cố gắng tiến bộ. GV tránh
dùng những lời làm tổn thương đến HS, ảnh hưởng đến hứng thú học tập của các
em. Ví dụ, sau khi gọi một HS đọc cá nhân xong, GV yêu cầu cả lớp nhận xét
bài đọc của bạn, rồi đưa ra lời nhận xét của mình : Cô cũng đồng ý với ý kiến
của các bạn trong lớp, cô thấy bạn Phương hôm nay đọc rất hay, cả lớp khen
bạn nào ! (vỗ tay) Ngoài ra GV có thể khen nhóm nào đó đọc tốt, khen một cá
nhân đọc kém đã có tiến bộ trong rèn đọc : Cả lớp thấy hôm nay bạn đọc tốt
chưa ? HS trả lời, GV nhận xét thêm : Cô thấy bạn Lâm đã rất lỗ lực trong rèn
đọc, bài hôm nay bạn đọc khá tốt. Cả lớp khen bạn nào ! (vỗ tay)
Có thể nói tạo được hứng thú cho HS trong suốt tiết học là một việc không
phải dễ dàng nhất là đối với những lớp có khả năng đọc chưa cao. Vì vậy GV
cần có lòng yêu trò, yêu nghề, có trình độ chuyên môn cao, nghệ thuật giao tiếp
sư phạm tốt thì mới tạo được hứng thú cao cho HS.
2.2. GV rèn kĩ năng đọc mẫu
Mục đích của việc đọc mẫu là đưa ra mẫu về đọc thành tiếng. Đây chính là
cái đích, mẫu hình thành kĩ năng đọc mà HS cần đạt được. Đồng thời GV dùng
giọng đọc mẫu cho HS có một biểu tượng ban đầu về nội dung văn bản. Lúc này
đọc mẫu lại là phương tiện để HS bước đầu làm quen với văn bản để chiếm lĩnh
nội dung của nó. Bước đọc mẫu rất quan trọng vì cách tiếp xúc trực tiếp ấn
tượng đầu tiên rất quan trọng. Nó góp phần quyết định việc HS yêu thích hay
không yêu thích văn bản được đọc.
Để chuẩn bị tốt cho việc đọc mẫu, trước khi soạn giáo án GV cần đọc bài
để tìm hiểu nội dung bài đọc. Sau khi tìm hiểu sâu sắc được nội dung bài đọc kết

25


×