Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN: VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ÔNG VĂN TÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.04 KB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

NGUYỄN THỊ THÙY

VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA ÔNG VĂN TÙNG
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60.22.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn: PGS. TS Trần Mạnh Tiến

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, tháng 10, năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Thùy


Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Trần Mạnh Tiến –
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành
luận văn.


Tôi xin chân thành cảm ơn nhà văn Ông Văn Tùng đã tạo điều kiện cho
tôi tiếp cận nguồn tài liệu sáng tác. Tôi xin cảm ơn toàn thể các Thầy Cô
trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các Thầy Cô trong tổ Lí luận văn học đã
nhiệt tình giảng dạy tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập
và nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi để
luận văn được hoàn thành.


MỤC LỤC

BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTQG

: Chính trị Quốc gia

ĐHSP

: Đại học Sư phạm

ĐHQG

: Đại học Quốc gia

ĐHTHCN

: Đại học trung học chuyên nghiệp

GD – ĐT


: Giáo dục Đào tạo

HN

: Hà Nội

HVQG

: Học viện Quốc gia

Nxb

: Nhà xuất bản

KH

: Khoa học

KHXH

: Khoa học xã hội

TCN

: Trước công nguyên

TPHCM

: Thành phố Hồ Chí Minh



A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những chuyển biến cơ bản trong
đời sống kinh tế – xã hội đã ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến đời sống tinh
thần, đến đạo đức con người Việt Nam. Cùng với những thành tựu to lớn mà
chúng ta đã đạt được trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục,…
kinh tế thị trường phát triển cũng làm nảy sinh những vấn đề xã hội nhức nhối:
tham nhũng, buôn lậu, tệ nạn xã hội gia tăng, lối sống thực dụng chạy theo đồng
tiền. Từ đó dẫn đến sự sa sút, xuống cấp về mặt đạo đức, những giá trị xã hội
biến động, đảo lộn, mất định hướng… Nhiều biểu hiện tiêu cực về mặt đạo đức
đã và đang phát sinh và phát triển. Có thể nói những mặt trái đó đã và đang ngày
đêm trực tiếp tác động đến nền đạo đức truyền thống của dân tộc, làm băng hoại
nền đạo đức văn hóa truyền thống của dân tộc. Có thể khẳng định rằng đạo đức
là vấn đề thời sự, đang báo động hiện nay.
Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu các yếu tố đạo đức truyền thống
của dân tộc, tạo cơ sở cho việc xây dựng một hệ giá trị đạo đức mới đáp ứng
yêu cầu phát triển của đất nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Ông Văn Tùng là nhà văn có những thành tựu trong thời kì đổi mới.
Ông không những là nhà văn, nhà giáo mà còn là nhà khảo cứu, dịch thuật
văn học, cho nên vốn hiểu biết của ông rất rộng. Trong chín tiểu thuyết của
ông, mỗi tác phẩm là một câu chuyện, một vấn đề hiện thực mang tính thời
sự. Là một người lấy văn chương làm lẽ sống, ông đã kịp phát hiện ra những
rạn nứt trong mối quan hệ giữa con người với con người trong cơ chế thị
trường đặc biệt là những rạn nứt trong quan hệ gia đình.
Tiểu thuyết của ông quan tâm đến mối quan hệ văn hóa truyền thống và
hiện đại, cùng xu hướng đi lên của đất nước trong hoàn cảnh mới. Vấn đề đạo
đức được nhà văn đặt ra thể hiện quan niệm mới về cuộc sống của nhà văn.
1



Nhưng cho đến nay tác phẩm của ông chưa được nghiên cứu toàn diện và hệ
thống. Vì vậy, việc nghiên cứu Ông Văn Tùng là cần thiết góp phần làm cho
bức tranh văn học Việt Nam thời kì đổi mới đầy đủ và rõ nét hơn.
Đồng thời, nghiên cứu tiểu thuyết Ông Văn Tùng góp phần cho việc
giảng dạy văn học, giáo dục đạo đức trong nhà trường được tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Quan niệm của người xưa: “Thành nhân trước khi thành tài”, đạo đức
truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cốt cách con người
qua mọi thời đại. Về vấn đề đạo đức đã được nghiên cứu từ thế kỉ III TCN bởi
Platon, Aritstot với tư cách được coi như một ngành triết học về đạo đức. Tư
tưởng đạo đức học của người Hi Lạp cổ đại chú trọng lý giải sự hình thành
các chuẩn mực luân lý và tập tục, tìm cách phân biệt thật – giả, thiện – ác,..
Người Trung Quốc cổ đại cũng có những quan niệm đạo đức học rất sớm với
nhiều trường phái như của Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Tuân Tử, và nhiểu
trường phái khác. Trường phái triết lý của Khổng Tử (551- 479.TCN) được
coi như nền tảng cho mọi thiết chế trong xã hội. Dưới thời Xuân Thu, ông đã
dốc hết tâm huyết vào việc giáo dục đạo đức con người làm cho xã hội Trung
Quốc ổn định. Biện pháp của ông là khôi phục đường lối đạo đức và lễ trị.
Ông cho rằng cơ sở của đường lối đức trị là lòng dân, lòng thương người.
Phải biết coi trọng lợi ích của người khác như lợi ích của chính mình.Với
những cống hiến đó Khổng Tử xứng đáng được coi là nhà giáo dục lớn đầu
tiên của Trung Quốc.
Cùng với sự phát triển của xã hội, vấn đề đạo đức ngày càng được quan
tâm hơn nữa bởi các nhà triết học, đạo đức học và các học giả khác. Nhiều
công trình nghiên cứu chuyên sâu về đạo đức đã được thực hiện bởi các nhà
triết học Liên Xô, tạo ra một nền tảng lí luận căn bản về đạo đức… Một số
công trình tiêu biểu của họ đã được dịch sang tiếng Việt như: G.Anghelop


2


(1985), Vị trí của đạo đức trong hệ thống nhận thức khoa học, Nxb Văn hóa
thông tin, HN; A.Coochetop (1985), Những vấn đề lí luận đạo đức, Nxb Giáo
dục Hà Nội; C.Mac, Angghen toàn tập, tập 3, CTQG, H,1995…
Trong cuộc Hội thảo Khoa học tháng 7/2014 về chủ đề “Đạo làm
người trong văn hóa Việt Nam” do Khoa Triết trường Đại học Sư phạm Hà
Nội tổ chức, trong kỷ yếu có nhiều bài viết về đạo đức như:
“Nhân ái – một giá trị văn hóa cao đẹp trong đạo làm người Việt
Nam”, tác giả Võ Văn Thắng, Nguyễn Thị Ngọc Thơ. Bài viết đã tập trung
phân tích làm rõ: “Nhân ái” của người Việt Nam như là một giá trị văn hóa
cao đẹp được hình thành bởi điều kiện lịch sử riêng với những nét độc đáo
của nó. Tác giả đã chứng minh rằng “nhân ái” của người Việt Nam không
phải là “bản sao” của “nhân” trong Nho giáo và “từ bi” trong Phật giáo như ý
kiến của một số nhận định trước đây mặc dù nó bị ảnh hưởng khá sâu sắc
nhưng ảnh hưởng đó đã bị “khúc xạ” bởi sự chắt lọc những nhân tố thích hợp
cùng với sự Việt hóa một cách tinh tế của chúng ta.
Bài viết “Thuần phong mỹ tục về tình yêu và hôn nhân của một dân tộc
thiểu số ở miền núi phía Bắc”, tác giả Trần Mạnh Tiến cho rằng: Đạo đức
không ngừng vận động và biến đổi theo thời gian. Có những giá trị đạo đức
bền vững và có những quy chuẩn đạo đức thay đổi khi hoàn cảnh sống đổi
thay. Phong tục tập quán là yếu tố chi phối đạo đức và có tính bền vững trong
lịch sử như ma chay, cưới xin. Trong bài viết tác giả cũng đề cập đến vấn đề
tình yêu tự do và lòng chung thủy của dân tộc Tày. Quan điểm từ tình yêu đến
hôn nhân rất tiến bộ và những tục lệ ấy đã trở thành thuần phong mỹ tục, là
nét sinh hoạt tinh thần phong phú của không gian văn hóa miền núi.
Bài viết “Đạo làm người trong nhân sinh quan Phật giáo”, tác giả Vũ
Mạnh Tuyên cho thấy: mỗi tín ngưỡng, tôn giáo đều vì con người, do con
người, thông qua các giáo lý của mình, họ đều khuyên răn các đệ tử của mình


3


phải thực hành đạo làm người. Phật giáo mang tính nhân văn sâu sắc khi
trong giáo lý của mình kêu gọi con người biết yêu thương nhau trên tinh thần
“từ bi hỷ xả”, quên mình để cứu độ chúng sinh. Nhân sinh quan Phật dạy con
người một cách an nhiên, tự tại, là tiếng nói chống chế độ phân biệt đẳng cấp,
tố cáo bất công, đòi tự do và đòi bình đẳng xã hội, nói lên khát vọng giải thoát
của con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, đồng thời, nêu cao thiện tâm,
từ bi, bác ái như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội.
Bài viết “Đạo làm người cán bộ trong quan niệm của Hồ Chí Minh”
(Từ góc nhìn ngụ ngôn) của tác giả Nguyễn Thanh Tú đã đi lý giải ngắn gọn
khái niệm và tác dụng của thể loại, những nhà tư tưởng lớn và những phẩm
chất của nhà ngụ ngôn cần phải có, và khẳng định những đặc trưng của ngụ
ngôn rất phù hợp với tâm hồn vĩ đại, trí tuệ trác tuyệt của Hồ Chí Minh. Tiếp
đó, từ góc nhìn ngụ ngôn tác giả bài viết đi tìm hiểu đạo đức của người cán bộ
trong quan niệm của Người để góp phần làm rõ hơn chân dung Hồ Chí Minh
– Nhà giáo dục vĩ đại. Tác giả đã đi sâu tìm hiểu quan niệm toàn diện về
người cán bộ đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng phải có bốn yếu tố đầy đủ,
thống nhất với nhau, đó là: ý thức, tinh thần đoàn kết, lý luận gắn với thực
tiễn, rèn luyện bản lĩnh và đặc biệt tác giả khẳng định đức là nguồn, là cái
gốc, là nền tảng của người cách mạng…
Tiếp đó, trong Kỷ yếu Hội thảo Khoa học với chủ đề: “Vấn đề đạo đức
xã hội trong văn học, nghệ thuật hiện nay”, do Hội đồng lí luận, phê bình văn
học, nghệ thuật Trung Ương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11-12/
11/2014, gồm 84 bài tham luận của các nhà văn, nhà khoa học trên toàn quốc
trong đó có nhiều tham luận quan tâm đến vấn đề đạo đức như:
Tham luận “Vấn đề đạo đức xã hội trong văn học, nghệ thuật hiện
nay” của tác giả Nguyễn Hồng Vinh, đã khẳng định: Giữa văn học, nghệ

thuật và đạo đức có mối quan hệ biện chứng. Đó là mối quan hệ thẩm mỹ

4


giữa văn học nghệ thuật và hiện thực, vừa mang tính chủ quan của người nghệ
sĩ. Vừa tuân theo những đòi hỏi nghiêm ngặt của lí luận phản ánh và quy luật
sáng tạo. Đạo đức là một đối tượng phản ánh rộng lớn của văn học, nghệ thuật.
Những chuẩn mực đạo đức không phải là một quan niệm nhất thành, bất biến mà
được hình thành, kế thừa, phát triển và biến đổi theo quá trình lịch sử. Phản ánh
đạo đức xã hội, đấu tranh chống cái ác, cái thấp hèn, bảo vệ cái cao thượng, cái
tốt đẹp là nhiệm vụ tự thân của văn học, nghệ thuật. Và qua văn học, nghệ thuật,
đạo đức hun đúc, ý thức đẩy lùi cái ác được bồi đắp, cổ vũ khát vọng hướng tới
cái thiện, cái đẹp, thổi lửa tin yêu con người và cuộc sống.
Tham luận “Đạo đức muôn đời vẫn là cỗi rễ của văn chương chân
chính”, tác giả Nguyễn Đình Chú đã phác họa mối quan hệ giữa đạo đức và
văn chương Việt Nam ta từ trong quá khứ đã là thế nào, và hôm nay đang là
thế nào với mong muốn thiết tha nóng bỏng là làm sao cho đất nước hôm nay
có lại được một nền đạo đức thật sự tốt lành bằng nhiều công năng trong đó
văn chương vốn có ưu thế rất lớn trong việc xây dựng đời sống đạo đức đạo
lý cho đất nước.
Tham luận “Về cái tâm và cái tài của người cầm bút trong thời đại
“Mưa Âu gió Mĩ”, tác giả Trần Mạnh Tiến đã cho rằng: Nhà văn thời nào
cũng cần có cái tâm và cái tài trong sáng tác. Trong con mắt của người Việt
Nam ngàn xưa đến nay, nhà văn đồng thời là nhà giáo, văn chương để truyền
bá cái đẹp và cái thiện. Cái tâm, cái tài của người cầm bút bộc lộ trong những
hoàn cảnh gian nan. Các nhà văn có tài đức lương tri trong cơn dâu bể của đất
nước luôn biết ôn lại lịch sử, phê phán cái xấu, cái tham lam độc ác, tầm
thường, sự phản bội, giả dối, tối tăm, nô lệ, ngự trị ở trong mình biết đề ra
nhiệm vụ cách tân, tránh xa khỏi cái hiếu kì thực dụng…

Tham luận “Văn học, nghệ thuật và giáo dục đạo đức – Hiện trạng –
Giải pháp”, tác giả Nguyễn Thanh Tú đã cho rằng: Văn hóa, văn học nghệ

5


thuật và đạo đức có mối quan hệ mật thiết, gắn bó, cùng bản chất ý thức, đều
có giá trị mang tính nhân loại phổ quát là hướng con người đến cái chân,
thiện, mỹ. Văn học, nghệ thuật không chỉ là phương tiện mà còn là nội dung
của đạo đức. Dùng văn học nghệ thuật để giáo dục đạo đức, không phải duy
nhất, nhưng là một trong những cách tốt nhất.
Ông Văn Tùng – nhà văn có nhiều đóng góp song cho đến nay vẫn
chưa được nghiên cứu xứng tầm. Qua khảo sát, chúng tôi thấy hiện có một
số đáng kể như: Bài viết “Tiểu thuyết của Ông Văn Tùng” trong cuốn Tiểu
thuyết đương đại (tiểu luận phê bình), Bùi Việt Thắng đã đánh giá về nhà
văn: “Tiểu thuyết của ông đã vẽ ra nhiều thảm kịch gia đình – đau đớn, gay
gắt… Ở khía cạnh này, ngòi bút của Ông Văn Tùng như có người nói, có vẻ
bạo liệt hơn… Viết về nhiều tai họa, cái ác, nhiều mảng tối. Nhưng đồng thời,
tiểu thuyết của ông cũng có nhiều mảng sáng được tạo nên bởi những con
người sống tự tại, trọng nghĩa, kiên định giữ gìn lương tri” [81, tr.722];
“Tiểu thuyết của ông có sự đối chọi gay gắt giữa thiện – ác; ánh sáng- bóng
tối. Đọc tiểu thuyết của ông người đọc có cảm giác tin tưởng vào phần tốt
đẹp vẫn còn ở trên đời này” [81, tr.273]. Công trình nghiên cứu của Thiều
Thị Huệ (2010), Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Ông Văn Tùng
(Luận văn Thạc sĩ Khoa Ngữ văn ĐHSP HN) đã tìm hiểu thế giới nhân vật
phong phú đa dạng trong tiểu thuyết Ông Văn Tùng. Những nhân vật ấy hiện
lên với bản năng sống, lưỡng hóa đa diện và thể hiện tâm thế con người
trong một giai đoạn lịch sử xã hội mới. Gần đây trong Tập truyện ngắn Ông
Văn Tùng, Nxb Hội nhà văn, 2014 có lời giới thiệu của nhà văn Nguyễn
Khắc Trường – Chủ tịch Hội đồng văn xuôi Hội nhà văn Việt Nam với nhan

đề: “Cần cù Ông Văn Tùng”, tác giả đã đánh giá cao tài năng và thành tựu
của nhà văn Ông Văn Tùng trong sáng tạo: “Ông Văn Tùng là người thông
minh từ bé, học hành sáng láng từ bé, lại con nhà Nho xứ Nghệ, được tính

6


cần cù từ trong máu, nên Ông Văn Tùng vừa thông minh lại vừa cần cù.
Ông miệt mài lao động cả đời, say mê lao động cả đời. Giờ đây đã tròm
trèm ở tuổi 80, nhìn vào khối lượng sách, cả sáng tác và dịch thuật của Ông
Văn Tùng, người ta phát ngốt… Nếu cân số sách của tác giả, dịch giả Ông
Văn Tùng lên thì chắc chắn sẽ nặng hơn cả bản thân Ông Văn Tùng rất
nhiều… Bạn bè đồng nghiệp sửng sốt về sức làm việc của Ông Văn Tùng.
Không biết vốn sống từ đâu, nguồn năng lượng từ đâu trong cơ thể nhỏ bé
gầy gò kia được ẩn náu, được trầm tích ở chỗ nào mà ông “tung chưởng”
ra liên tiếp như thế… Người có một nguồn năng lượng luôn làm bạn bè
thêm quý ông, hiểu ông” [75; tr.5-13]. Các công trình này mới chỉ là những
nghiên cứu khái quát nhất về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của nhà
văn. Chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về những giá trị cụ thể
về nội dung sáng tác của ông. Công trình này của chúng tôi, dưới góc độ một
luận văn lí luận văn học, có thể coi là một hướng đi đầu tiên về một chủ đề
đạo đức để từ đó hiểu sâu hơn về thế giới nghệ thuật của nhà văn – những
vấn đề về đạo đức trong tiểu thuyết Ông Văn Tùng.
Trong quá trình làm luận văn, chúng tôi đã nhiều lần gặp gỡ trực tiếp
để phỏng vấn nhà văn về cuộc sống nói chung và văn học nói riêng. Tuy tuổi
đã cao nhưng là con người thân thiện nhà văn chia sẻ rất cởi mở, chân thành.
Ngày 12/12/2014, tôi được gặp gỡ Ông Văn Tùng tại nhà riêng. Trong cuộc
trao đổi khá dài, tôi có hỏi nhà văn:
- Thưa Ông, ông quan niệm như thế nào về văn chương ạ?
- Ông Văn Tùng: Như nhiều nhà văn khác, tôi cũng cho rằng văn

chương phải phản ánh cuộc sống; và trong tác phẩm, tôi muốn đi sâu khái
thác các mối quan hệ trong gia đình… để rồi từ đó phản ánh hiện thực đời
sống trong hai thập kỉ cuối của thế kỉ XX.

7


- Thưa ông, cháu được biết ông đã từng có một khoảng thời gian khá
dài sinh sống và làm việc tại Trung Quốc. Có phải vì vậy mà trong tác phẩm
của ông có ảnh hưởng những quan niệm đạo đức của Nho gia hay không ạ?
- Ông Văn Tùng: Không hẳn vậy. Tôi nghĩ rằng mọi tôn giáo đều hướng
thiện, đều đề cao con người, lấy con người làm trung tâm. Chính vì vậy trong
các tác phẩm của tôi thấm nhuần tư tưởng đạo đức của nhiều tôn giáo…
Trong qua trình tìm hiểu, thu thập tài liệu chúng tôi nhận thấy vấn đề đạo
đức trong tiểu thuyết Ông Văn Tùng là một đề tài thú vị, cần được quan tâm.
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Trong công trình này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề đạo đức
trong tiểu thuyết của Ông Văn Tùng thông qua một số tác phẩm tiêu biểu:
Khát vọng đau đớn, Nxb Lao Động, 1989.
Những linh hồn bị hành quyết, Nxb Thanh Niên, 1990.
Biệt thự phù du, Nxb Lao Động, 1991.
Gót đỏ quyền uy, Nxb Lao Động, 1992.
Cuộc kiếm tìm vô vọng, Nxb Thanh Niên, 1995.
Những kẻ lắm tiền, Nxb Văn Học, 1995.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Do giới hạn của luận văn cho nên chúng tôi chỉ xin tập trung nghiên
cứu về vấn đề đạo đức trong những tiểu thuyết của Ông Văn Tùng (qua 6 tiểu
thuyết). Để phục vụ cho việc nghiên cứu khi cần thiết chúng tôi còn tham
khảo một số nhà văn cùng bàn về vấn đề đạo đức như: Nguyễn Huy Thiệp,

Ma Văn Kháng, Hồ Anh Thái....
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát 9 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Ông Văn Tùng, với
hướng tìm hiểu về vấn đề đạo đức trong tiểu thuyết của nhà văn - Ở luận văn

8


này, chúng tôi xin được tập trung vào nghiên cứu quan niệm của nhà văn về
vấn đề đạo đức, những bình diện đạo đức trong tiểu thuyết của nhà văn Ông
Văn Tùng được thể hiện như thế nào trong tác phẩm, phương thức nghệ thuật
thể hiện vấn đề đạo đức trong tiểu thuyết của ông, những yếu tố tác động dẫn
đến sự thay đổi về mặt đạo đức trong đời sống con người dưới tác động của
thời kì mới – thời kì kinh tế thị trường.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu về vấn đề đạo đức trong tiểu thuyết của Ông Văn Tùng,
chúng tôi thực hiện đồng bộ nhiều phương pháp như:
- Tập hợp hệ thống: tập hợp thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Ông
Văn Tùng để tìm ra mối quan hệ đạo đức trong đó rồi trên cơ sở đó hệ thống lại.
- Phân tích - tổng hợp: đi sâu vào từng tác phẩm, phân tích, tổng hợp
những giá trị đạo đức thông các mối quan hệ của con người.
- So sánh, đối chiếu: so sánh tiểu thuyết của ông với các nhà văn cùng
thời và khác thời.
- Xã hội học: Liên hệ so sánh tình hình xã hội Việt Nam trong thời kì
đổi mới
- Văn hóa học: tức là nghiên cứu văn học trong mối quan hệ với văn hóa
Các phương pháp trên được chúng tôi phối hợp một cách chặt chẽ làm
nối bật phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5. Đóng góp của luận văn
Vấn đề đạo đức không phải là vấn đề mới, nhưng luôn được văn học quan

tâm, chỉ có điều là cách tiếp cận và thể hiện nó khác nhau ở các nhà văn. Hiện
nay, vấn đề đạo đức là một trong những vấn đề mang tính thời sự, nóng hổi. Có
thể khẳng định đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề đạo đức trong
tiểu thuyết của Ông Văn Tùng. Với luận văn này, chúng tôi hi vọng có thể đi tìm
hiểu sâu hơn về giá trị nội dung, nghệ thuật trong sáng tác của Ông Văn Tùng.

9


Đồng thời, rút ra được những bài học giáo dục đạo đức trong xã hội và đặc biệt
là trong các trường học.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, chúng tôi chia luận
văn thành 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về vấn đề đạo đức và quan niệm sáng tác của
Ông Văn Tùng
Chương 2: Những bình diện đạo đức trong tiểu thuyết của Ông Văn Tùng
Chương 3: Phương thức thể hiện vấn đề đạo đức trong tiểu thuyết của
Ông Văn Tùng

10


B. NỘI DUNG
Chương I
KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC
VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC CỦA ÔNG VĂN TÙNG
1. Khái quát về vấn đề đạo đức
1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức học có gốc từ tiếng Hi Lạp cổ ethos, sau đó chuyển sang tiếng

Latinh thành ethica, nghĩa là: nơi ở, chỗ ở chung, phong tục, luân lý… dần
dần được bổ sung thêm nghĩa: thói quen, tính khí, tính cách, lối suy nghĩ. Thế
kỷ III TCN, từ ethica được Aritstot dùng chỉ đạo đức học, tên gọi này vẫn
dùng cho đến ngày nay.
Từ thời cổ đại, đạo đức học giao thoa với triết học. Đạo đức học nhiều
khi còn là vấn đề trung tâm của nhiều hệ thống triết học. Các bộ phận khác
như bản thể luận, nhận thức luận thường chỉ đóng vai trò cơ sở cho việc xây
dựng hệ thống đạo đức học. Điều này biểu hiện rõ nét trong triết học phương
Tây từ Platon, Aritstot, trường phái Epiquya, Kant. Trong triết học phương
Đông như: Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Tuân Tử và nhiều trường phái khác
cũng có hiện tượng như vậy.
Ở phương Đông, từ thời Trung Quốc cổ đại cũng có những quan niệm
đạo đức học rất sớm. Đạo ban đầu chỉ có nghĩa là con đường, về sau có thêm
nghĩa là con đường có chí hướng nhất định, hướng dẫn hành vi con người
theo một phương hướng nào đó. Nói tóm lại: đạo là con đường sống của con
người trong xã hội. Đức trong nghĩa thông dụng của người Trung Quốc cổ đại
chỉ đức hạnh tốt, phần tốt đẹp, thẳng thắn của con người. Đức thường được
hiểu là biểu hiện của đạo. Nói đạo đức liền nhau thường để chỉ những yêu
cầu, những nguyên tắc cuộc sống đặt ra, đòi hỏi mọi người tuân theo.

11


Ở Việt Nam hiện nay, theo các sách của các trường Đại học, thường
hiểu đạo đức là một lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, có yếu tố tinh
thần cốt lõi là ý thức đạo đức, một trong những hình thái sớm nhất của ý thức
xã hội, bao gồm những nguyên lý (đạo lý), quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành
vi của con người trong quan hệ với người khác và với cộng đồng.
Theo giáo trình Đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia: “Đạo đức
là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều

chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã
hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như trong tương lai, được
thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của lí luận xã
hội” [33, tr.15]. Dưới góc độ nào chúng ta cũng đều thấy đạo đức là một hệ
thống quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ giữa người với
người, giữa con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên, với bản thân.
Trên thế giới, đạo đức là một điểm chung nhưng biểu hiện đạo đức ở mỗi
nơi có những điều khác biệt. Ngay trong một nước, có những quan niệm đạo đức
chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định, khi không còn phù hợp nữa nó sẽ
bị mất đi. Nhưng cũng có những quan niệm đạo đức ngày càng được củng cố,
phát huy, phát triển theo chiều dài lịch sử. Khi đó, đạo đức đã trở thành đạo lí.
Đạo lí là tài sản tinh thần vô giá tạo nên sức mạnh của một đất nước.
1.2. Mối quan hệ giữa đạo đức và văn chương
Với quan niệm văn chương cổ Việt Nam nằm trong quan niệm văn học
cổ phương Đông: “Văn dĩ tải đạo”, “Văn dĩ minh đạo”, “Văn dĩ quán
đạo”… trên con đường nhận chân giá trị luôn luôn tồn tại nhiều quan điểm, ý
kiến khác nhau, thậm chí trái chiều. Mối quan hệ giữa văn chương và đạo đức
đã được đặt ra, trở thành câu hỏi lớn từ xưa đến nay trong văn học Đông –
Tây, kim – cổ. Nhưng rồi theo đúng quy luật của sự phát triển, những nhận
thức chưa đúng, dần bị nhận thức lại. Cùng với lịch sử phát triển của văn học,

12


cùng với sự phát triển trong tư duy, nhận thức của con người về văn học, câu
hỏi lớn – mối quan hệ giữa văn chương và đạo đức đã dần tìm được tiếng nói
chung. Văn học phản ánh cuộc sống, xã hội, con người một cách đa chiều, đa
diện - ở tất cả các phương diện của cuộc sống và theo cách riêng của nó. Nó
phản ánh không chỉ ở thời hiện tại, mà cả quá khứ và tương lai. Đa chiều, đa
diện là vậy nhưng cái gì là gốc rễ của văn chương chân chính? Đạo đức muôn

đời là cội rễ của văn chương chân chính do vậy, nhân loại đã không thể chối
bỏ những giá trị nhân sinh mang tính vĩnh hằng ấy. Mối quan hệ giữa đạo đức
và văn học do vậy là mối quan hệ tự thân muôn thuở. Song, mối quan hệ này
lại được biểu hiện không hề giản đơn trong thực tế đời sống văn học.
1.2.1. Trên thế giới
Vấn đề văn nghệ và đạo đức là vấn đề rất phức tạp; nó tạo nên bầu không
khí sôi động hơn hai nghìn năm và cho tới ngày nay tưởng như là dễ thống nhất
nhưng thực ra vẫn chưa có đáp án chung. Dọc theo chiều dài lịch sử, từ Đông
sang Tây, cuộc tranh luận về vấn đề này diễn ra với nội dung chủ yếu như sau:
Những người chủ trương văn nghệ độc lập thì xem văn nghệ và đạo đức không
có mối liên hệ gì với nhau, nhưng theo các nhà văn thì giá trị văn nghệ tất phải
bao hàm chủ đích giáo huấn về đạo đức. Tiến lên một bước nữa, không còn ở
trạng thái tách rời hai phạm trù, người ta đã tìm ra mối liên hệ giữa văn nghệ và
đạo đức. Vậy mối quan hệ đó như thế nào và phát triển ra sao?
Ở cả phương Đông và phương Tây, các học giả, các triết nhân thường
cho rằng tác phẩm văn chương đích thực luôn bao hàm một giá trị đạo đức
nhất định. Khổng Tử - người sáng tạo ra Nho giáo được Heghen đánh giá là
một triết gia nhưng đó là một triết gia về đạo đức. Ảnh hưởng của Nho giáo là
rất sâu rộng trong đời sống tinh thần cũng như tư tưởng chính trị xã hội.
Chính vì thế, trong văn học Nho giáo, yếu tố đạo đức ảnh hưởng lớn hơn yếu
tố văn chương. Như vậy, Nho giáo đã thiết lập mối quan hệ giữa văn và đạo.

13


Là một bộ phận của đời sống tinh thần con người, văn học gắn liền với
rất nhiều lĩnh vực như chính trị, pháp luật, triết học… Nhưng yếu tố gắn bó
nó nhất vẫn là vấn đề đạo đức. Văn học giúp người ta có thể thiết lập được
một tòa án lương tâm công bằng nhất bởi trong đời sống của con người có
những điều về mặt xã hội không thể đem bỏ tù, kết án… nhưng trong văn học

lại bắt con người tự phán xử bản thân mặc dù âm thầm, lặng lẽ. Đạo đức còn
là sự tu dưỡng mỗi ngày do vậy cần phải suy nghĩ đấu tranh và tự đấu tranh
một cách thường xuyên để tự trau dồi kiến thức.
Tuy nhiên, trên thực tế không chỉ những quan niệm vừa nêu. Trong bầu
không khí chung của người xưa là coi trọng thi nhân và các nhà cầm quyền vì cho
họ là những người làm công việc dạy dỗ và hướng dẫn nhân dân đi vào con đường
thiện thì Platon tỏ ra rất hoài nghi. Ông quy kết cho thi nhân hai tội lớn:
- Một là, những gì họ viết ra là hoang đường và không thể kiếm tìm
chân lí.
- Hai là, thi nhân để đánh mất lí trí và trở thành nô lệ cho tình cảm.
Đây chính là đầu mối của cuộc tranh chấp về sau trong mối quan hệ
giữa văn học nghệ thuật và đạo đức.
Sau Platon, Aristot là thủy tổ của thuyết nghệ thuật độc lập, không xem
thi ca như một thứ giáo huấn. Trong Thi học, khi khảo luận về cách kết cấu của
Hí kịch, Aristot nói rằng đa số khán giả thích xem kết cục “thiện hữu thiện báo,
ác hữu ác báo”. Nhưng sự khoái thích ấy thật là thấp kém, như khoái cảm được
thấy ơn đền oán trả không phải là mĩ cảm. Như vậy, Aristot không thừa nhận
nghệ thuật phải bao hàm tính cách giáo huấn về đạo đức.
Tiếp đó, từ Kant cho đến Corce nối liền thành một hệ thống chặt chẽ đả
kích sự dữ dội thuyết văn nghệ đạo đức. Lí luận ấy được Corce trình bày rất
minh bạch trong quyển: Mĩ học cương yếu, ông cũng cho rằng: Nghệ thuật
không phải là một thứ hoạt động của ý chí. Ý chí tốt chỉ đạo lên một con người
tốt chứ không thể tạo thành một nghệ thuật gia. Vì nghệ thuật vốn không phải là
một thứ hoạt động của ý chí cho nên nó không liên quan gì đến đạo đức.
14


Cho đến tận ngày nay, mối quan hệ giữa đạo đức và văn chương vẫn
còn nhiều ý kiến trái chiều. Xã hội càng hiện đại thì những quan niệm, những
chuẩn mực về đạo đức cũng ngày càng phức tạp, phong phú. Lá thư của một

người Mĩ gốc Nga H. Ayn Rand (1905- 1982) gửi Tôm Girdlen – một nhà sản
xuất thép người Mĩ đã buộc người ta phải quan tâm suy nghĩ xem đâu là
nguyên tắc đạo đức mới trong xã hội đương thời. Bởi theo H. Ayn Rand: “…
Những kẻ theo chủ nghĩa nhân văn - trên nguyên tắc và cả trên thực tế - là
những kẻ bám bởi mối quan tâm hàng đầu của họ là việc phân phát những gì
mà họ không sản xuất ra, những kẻ ăn bám thì không bao giờ đáng kính hay
được xem là tốt cả…” [7, tr.94]. Theo ý tác giả, những nhà văn chủ nghĩa với
xiết bao tác phẩm làm rung động lòng người lâu nay cũng chỉ là thứ hàng xa
xỉ, không thiết thực cho cuộc sống. Những gì nhà văn ban tặng cho độc giả
chỉ là ảo ảnh. Đạo đức thực dụng cũng không nảy sinh từ đó. Xét ra, quan
điểm đạo đức “có rồi hẵng cho” của H. Ayn Rand là một quan điểm không
sai nếu ông cho rằng “có” ở đây chỉ là các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên, dù
thế nào chúng ta cũng thấy vấn đề đạo đức và mối quan hệ của nó với văn
chương cũng như với đời sống xã hội luôn là một vấn đề nghiêm túc, cần luận
giải, chứng minh trong những tác phẩm cụ thể.
1.2.2. Ở Việt Nam.
Quay trở lại với vấn đề này ở Việt nam, chúng tôi đã tìm được không ít
những ý kiến, những công trình nghiên cứu có liên quan ít nhiều đến đề tài.
Song, đáng kể nhất là đánh giá có tính chất định hướng tổng quát của tác giả
Trần Đình Sử (chủ biên) – Nguyễn Nghĩa Trọng - La Khắc Hòa- Lê Lưu Oanh
trong cuốn Giáo trình “Lí luận văn học” tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, 2011:
“Văn nghệ và đạo đức có mối liên hệ bên trong vì cả hai đều quan tâm tới sự ý
thức về lương tâm, trách nhiệm, hành vi của con người trong đời sống xã hội, lí
tưởng về cái đẹp, cái cao cả không tách rời lí tưởng về cái thiện, về sự hi sinh, vị
tha. Văn nghệ xưa nay đều thấm nhuần tinh thần đạo đức và có tác dụng rất lớn
15


đối với đời sống đạo đức của con người. Tuyên truyền tội ác, vô luân, bạo lực là
làm biến chất tác động thẩm mĩ và đạo đức của văn nghệ” [65, tr.72].

Trong chuyên luận riêng Lí luận và văn học, tác giả Lê Ngọc Trà cũng
có dịp đi sâu hơn và đưa ra ý kiến: “Đến cuối thế kỉ XIX, chủ đề đạo đức lần
đầu tiên được thể thiện tập trung nhất trong sáng tác của Nguyễn Đình
Chiểu, tiêu biểu là Lục Văn Tiên” [87, tr.197]. Ông còn chỉ ra một số tiến bộ
cũng như hạn chế của nội dung đạo đức trong tác phẩm của Nguyễn Đình
Chiểu. Tuy nhiên, đây cũng chưa phải là một công trình nghiên cứu đầy đủ,
toàn diện về Nguyễn Đình Chiểu.
Chuyển sang thời kì đổi mới và hội nhập (từ năm 1986), thực trạng xã
hội hoàn toàn thay đổi – nó gắn với nền kinh tế thị trường. Nhìn vào những
cái được trên mọi lĩnh vực: ăn, mặc, ở, nhu cầu đi lại, vui chơi, giải trí… thì
chưa có lúc nào bằng lúc này. Đó là biểu hiện của sự tăng trưởng kinh tế.
Nhưng cùng với những cái được lớn đó thì những mất mát cũng là rất lớn,
mất ở đời sống văn hóa, tinh thần. Trong bài viết “Văn học và đạo đức - nhìn
từ lịch sử văn chương Việt”, Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, tháng 10/2014
cũng khẳng định: “Văn học có quan hệ với đạo đức, ít ra là trên hai phương
diện. Thứ nhất – đạo đức là đối tượng phản ánh rộng lớn của văn học. Bởi
đạo đức là một phương diện sống cơ bản của con người. Là những quy ước –
thành văn hoặc không thành văn mà con người phải tuân thủ, từ đó kiến tạo
nên xã hội người. Thứ hai – văn học từng có chức năng giáo dục đạo đức,
hoặc ít ra phải có hiệu quả đạo đức, xét theo lịch sử tồn tại của nó – cho đến
thời hiện đại” [99].
Bài viết “Văn học nghệ thuật với vấn đề đạo đức xã hội”, nguyên Tổng
Bí thư Đảng, Lê Khả Phiêu, tháng 11/ 2014 cũng nêu rõ vấn đề: “Mối quan
hệ giữa văn học nghệ thuật với đạo đức xã hội là mối quan hệ mang tính bản
chất, biện chứng. Đó là một quá trình vừa tác động, vừa nuôi dưỡng, vừa gợi
mở lẫn nhau. Văn học nghệ thuật không đồng nhất với đạo đức; nhưng thống
nhất rất cao trong mục tiêu kiến tạo đạo đức làm cho con người trở nên
16



người hơn. Vì vậy, quan niệm truyền thống đạo đức là hồn cốt của văn
chương, nghệ thuật vẫn còn nguyên giá trị” [102].
Tóm lại, có thể khẳng định mối quan hệ giữa đạo đức và văn chương là
mối quan hệ biện chứng, mang tính bản chất. Là quá trình vừa tác động, vừa
nuôi dưỡng, vừa gợi mở lẫn nhau. Văn học nghệ thuật không đồng nhất nhưng
thống nhất rất cao trong mục tiêu kiến tạo đạo đức làm cho con người trở nên
người hơn. Văn học nghệ thuật từ sau Đổi mới đến nay có một sự phát triển rất
quan trọng. Đó là trở lại sự hài hòa. Trong chiến tranh, do nhiệm vụ, yêu cầu có
tính thời đoạn, ta nhấn mạnh mặt này, mặt khác là bình thường và cần thiết.
Ngày nay, cuộc sống đã thay đổi, văn học nghệ thuật có thể tiếp cận, phản ánh
cuộc sống từ trên những bình diện lớn của hiện thực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc,
đến những vấn đề riêng tư thầm kín ủ sâu trong lòng người. Nhờ định hướng đó,
văn học nghệ thuật đã có một mùa gặt mới, trong đó chủ đề đạo đức xã hội là
lĩnh vực thu được nhiều thành tựu nổi bật. Văn học, nghệ thuật đã lên tiếng khá
sớm, phê phán, cảnh báo các tệ nạn xã hội, thói hách dịch, cửa quyền, xa dân,
tham nhũng, tham lam, hám lợi, đặt đồng tiền lên trên hết… Đó là căn bệnh
hiểm nghèo “tự diễn biến”, là nguy cơ của mọi nguy cơ.
2. Khái quát về tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới và nhà văn
Ông Văn Tùng
2.1. Khái quát về tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới
2.1.1. Đổi mới về quan niệm hiện thực và con người
Tiểu thuyết Việt nam thời kì đổi mới đang từng bước tham gia vào quá
trình tiếp sức cho sự phát triển của văn học. Chỉ so sánh với giai đoạn trước
năm 1975 đến nay cũng đã minh chứng cho điều đó. Thay đổi quan niệm hiện
thực và con người tạo nên diện mạo mới cho văn học giai đoạn này.
Với quan niệm “văn học phản ánh hiện thực”, văn học giai đoạn sau năm
1975 đã thay đổi so với trước. Trước hết, chúng tôi muốn nói đến quan niệm về
hiện thực giai đoạn 1945 – 1975. Trong văn học giai đoạn này, quan niệm “văn
17



học phán ánh hiện thực” gắn liền với hiện thực xã hội chủ nghĩa, gắn bó với đời
sống và theo sát sự phát triển của phong trào cách mạng. Những tác phẩm này
tập trung vào hiện thực khách quan, tập trung vào đề tài lớn như đề tài công –
nông – binh. Văn học đặt cho mình nhiệm vụ phải phản ánh cuộc sống trong quá
trình phát triển cách mạng, làm cho người ta thấy hướng đi của xã hội. Do đó,
người ta dễ dàng chấp nhận lối viết “tô hồng” hiện thực, hiện thực một chiều,
hiện thực mang tính chất lạc quan. Với quan miệm hiện thực như vậy gắn liền
với cảm hứng ngợi ca, ca ngợi những con người đại diện cho cộng đồng, cho dân
tộc. Điều đó tạo nên một diện mạo riêng cho văn học – văn học sử thi. Những
tác phẩm tiêu biểu thành công của văn học giai đoạn này như: Dấu chân người
lính (Nguyễn minh Châu), Hòn đất (Anh Đức), Mẫn và tôi (Phan Tứ), Vùng trời
(Hữu Mai) đã phản ánh hiện thực đó.
Đề cập tới sự đổi mới quan niệm hiện thực trước và sau chiến tranh
trong tiểu thuyết Việt Nam không phải phủ nhận, đánh giá sự sai lầm trong
quan niệm của giai đoạn trước mà chủ yếu là nhằm nhận diện sự vận động
trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam.
Sự đổi mới quan niệm về hiện thực sau năm 1975 xuất phát từ nhu cầu
nhận định, đánh giá lại chặng đường vừa qua và nhu cầu nói “sự thật”. Trong
cuộc sống và trong tác phẩm, nhà văn không tránh bóng đen, có thể nói rõ
những bóng đen chính là làm nổi bật cuộc sống. Viết cái xấu, cái lạc hậu
chính là để làm nổi bật cái đúng, cái hay và cái đẹp (Phạm Văn Đồng).
Vấn đề hiện thực đã được nhìn nhận lại. Thực tế, những tác phẩm văn
học bắt đầu có sự mở rộng về phạm vi phản ánh như: Đất trắng (Nguyễn
Trọng Oánh), Miền cháy, Những người đi từ trong rừng ra (Nguyễn Minh
Châu),… Trong các sáng tác này, những hy sinh mất mát được đề cập. Khi
viết về đề tài nông thôn mới, văn xuôi đã tấn công vào những vấn đề tiêu cực
của xã hội. Nguyễn Mạnh Tuấn với Cù lao tràm đã gây xôn xao dư luận vì đã
xông vào những vấn đề nóng bỏng này của xã hội. Ở đề tài này, tính chất luận
18



đề đã nổi rõ: nhà văn đã tham gia vào quá trình dân chủ hóa trong xã hội. Sự
bổ sung, mở rộng biên độ hiện thực trong tác phẩm đã đáp ứng được nhu cầu
của công chúng trong giai đoạn mới.
Văn học phản ánh trực diện mặt trái của xã hội, cái xấu, cái ác được
khai thác đến tận cùng. Đây là điều mà văn học giai đoạn trước né tránh. Sự
khác nhau đó xuất phát từ hoàn cảnh sống của dân tộc. Khi chiến tranh đã lùi
vào quá khứ, cuộc sống đòi hỏi con người có cách nhìn khác so với trước đây.
Văn học sáng tác trong hoàn cảnh chiến tranh đã chuyển sang quy luật đời
thường. Vấn đề “phản ảnh hiện thực” được nhìn nhận khác trước.
Nhưng phải đến năm 1986 trở đi, với chủ trương của Đại hội Đảng lần
thứ VI “nhìn thẳng vào sự thật”, miêu tả chân thực cuộc sống đang diễn ra
như nó vốn có, là mốc đánh dấu sự thay đổi và trưởng thành của tiểu thuyết ở
giai đoạn mới. Hàng loạt các tác phẩm viết trong thời kì này xuất hiện như:
Bến quê (Nguyễn Minh Châu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Thời xa
vắng (Lê Lựu), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Bến không chồng (Dương Hướng),
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn kháng), Mảnh đất lắm ngườn nhiều ma
(Nguyễn Khắc Trường),… đã đem một cách nhìn hiện thực đa dạng, nhiều
chiều. Sự thay đổi trong cách nhìn hiện thực tất yếu dẫn tới sự thay đổi về nội
dung và phương thức thể hiện. Các nhà văn không ngừng tìm tòi để khám phá
hiện thực “chưa được biết”. Trong đó, một số nhà văn chú ý quan tâm tới
hiện thực tâm hồn. Từ sự thể nghiệm của Nguyễn Minh Châu (Phiên chợ
Giát) đến tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, Bảo Ninh,… và hàng loạt
những tiểu thuyết ra đời sau năm 1986 đã minh chứng sự đổi mới trong quan
niệm về hiện thực. Không phải ngẫu nhiên mà sau này người ta đề cập tới
nhiều về hiện thực tâm hồn. Hiện thực tâm hồn là cái chưa biết, cái khó nắm
bắt, cái không thể biết, cần tìm tòi và khám phá. Lựa chọn hiện thực là một
trong những phương thức thể hiện ý đồ nghệ thuật, sức sáng tạo của nhà văn.


19


Do đó, hiện thực khách quan trở nên không quan trọng bằng hiện thực được
soi chiếu qua “lăng kính” trải nghiệm của người viết. Những cảm xúc suy tư
về vấn đề cuộc sống trở thành điểm tựa cho sáng tạo nghệ thuật. Chẳng hạn,
trong Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, không phải trực tiếp miêu tả
cuộc sống nông thôn, về cuộc đời người nông dân là lão Khúng mà chính là
“dòng ý thức” của lão Khúng trên suốt đoạn đường dắt bò khoang ra chợ bán
là hiện thực tâm trạng mà nhà văn quan tâm. Nhờ dòng độc thoại nội tâm với
những kí ức xen kẽ hiện thực – quá khứ đã phản ánh số phận lịch sử của người
nông dân Việt Nam. Sự thay đổi đó là do nhà văn không lấy mục tiêu phản ánh
hiện thực khách quan làm chính mà hiện thực ấy được chuyển hóa trong điểm
nhìn, trong mạch hồi tưởng của nhận vật hay nói cách khác, bóng dáng của
hiện thực khách quan hiện lên qua dòng cảm xúc, kí ức của nhân vật.
Cùng với sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực là quan niệm nghệ
thuật về con người. Khi quan niệm văn học phản ánh hiện thực khách quan, phục
vụ nhiệm vụ chính trị, con người được quan niệm là con người cộng đồng. Nhà
văn thông qua con người để phản ánh bức tranh lịch sử cách mạng. Do đó, con
người luôn được đặt trong sự soi chiếu với hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh cộng
đồng dân tộc. Mọi mối quan hệ riêng tư tạm thời “gác lại”, nếu có phải được đặt
trong mối quan hệ với cộng đồng, phục vụ lợi ích cộng đồng. Con người trong
văn học giai đoạn 1945 – 1975 là con người sống vì lợi ích dân tộc, dám hi sinh
bản thân mình vì dân tộc. Kinh, Lữ (Dấu chân người lính), anh hùng Núp (Đất
nước đứng lên),… là những con người như thế. Họ là những người lấy ý thức
cộng đồng chi phối cho mọi hành động, lời nói trong cuộc sống của mình. Quan
niệm con người mang tính chất giản đơn, một chiều. Nhưng khi quan niệm phản
ánh hiện thực thay đổi, con người biểu hiện trong tổng hòa cá mối quan hệ xã
hội. Mỗi con người vừa là thành viên trong cộng đồng vừa là cá nhân trong mối
quan hệ với chính mình, với quê hương, với gia đình và bạn bè. Con người được


20


nhìn nhận với nhiều góc độ khác nhau. Con người không còn được nhìn nhận
một cách giản đơn như trước mà hợp nhất của tốt – xấu đan xen nhau… Thời xa
vắng (Lê Lựu), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Bến không chồng (Dương Hướng),
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn kháng), Mảnh đất lắm ngườn nhiều ma
(Nguyễn Khắc Trường)… là những tiểu thuyết minh chứng cho sự thay đổi quan
niệm nghệ thuật về con người. Con người trong tiểu thuyết ra đời sau năm 1986
đã vượt lên thoát khỏi quan niệm con người gắn với những tiêu chuẩn của cộng
đồng. Giang Minh Sài (Thời xa vắng), Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng), Đông (Mùa
lá rụng trong vườn), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh),… là những con người với sự
phức tạp trong tính cách. Cũng chính vì vậy, con người trong văn học nói chung
và trong tiểu thuyết nói riêng riêng là những con người “không trùng khít với
chính mình”. Nhân vật Quỳ trong tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành của Nguyễn Minh Châu nhận được sự yêu mến của người đọc không phải
vì chị có năng lực xã hội và phẩm chất tốt mà họ yêu chính ở chị có nội tâm
phong phú và phức tạp. Tính cách nhân vật không ngừng biến đổi biểu hiện một
thế giới tinh thần bí ẩn “không bình yên” của con người.
Với quan niệm về con người thế sự đời tư, các nhà văn thời kì đổi mới
quan tâm tới hiện tượng tiêu cực trong đời sống. Những tệ nạn không muốn
có của cơ chế thị trường, đặc biệt là khi nền kinh tế thế giới cũng như trong
nước đang gặp những khó khăn như giai đoạn hiện tại, những mặt trái ấy đang
diễn ra mỗi ngày một nghiêm trọng. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành
Trung Ương Đảng lần thứ IX nhận định: một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trong đó có đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, với những biểu
hiện khác nhau, về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ
hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham

nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... cho thấy tình hình đã trở nên cấp

21


×