Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

QLNN về dân tộc, tôn giáo Tìm hiểu về Phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.21 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần của từng con người,
của từng cộng đồng xã hội. Như C.Mác đã nói “Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó
là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. “Tôn giáo là thuốc phiện của
nhân dân”. Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo với cái đích là cứu con
người thoát khỏi nổi khổ.Nó xuất hiện cuối thế kỉ 6 TCN ở Ấn Độ. Nội dung cơ
bản của triết học Phật giáo là đề cập đến việc lý giải căn nguyên của nổi khổ và tìm
con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ triền miên đó. Phật giáo khởi thủy ở
Ấn Độ truyền đi khắp các xứ lân cận.Trước hết sang các nước Trung Á rồi sang
Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản và các nước miền Nam Châu Á.
Việt Nam là một quốc gia phương Đông – nơi mà tôn giáo có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống văn hóa xã hội, tùy giai đoạn phát triển lịch sử của các nước thì
tôn giáo nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh mẽ đến nếp sống tinh thần, thói
quen, suy nghĩ của con người. Phật giáo đến với người Việt Nam từ rất lâu đời. Do
bản chất từ bi hỉ xã, đạo Phật đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng và bám rễ vững
chắc trên đất nước ta. Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của
người Việt.
Ngày nay, để đạt được những tựu trong cuộc cải tiến cách mạng theo định
hướng đi lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì tôn giáo đã có những chuyển biến,
nhưng tôn giáo chưa thể mất đi được, mà nó còn tồn tại lâu dài và có ảnh hưởng
nhất định đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phật giáo cũng không phải là
một ngoại lệ. Với chủ đề tìm hiểu về Phật giáo, nhóm chúng em đã tìm hiểu, chắt
lọc nhiều nguồn tài liệu, sách báo, website,... khác nhau, sau đó tổng hợp lại thành
một bài hoàn chỉnh gồm 2 phần chính:
Phần I: Khát quát chung về Phật giáo
Phần II: Sự hình thành và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam.



Phật giáo

2


Phật giáo

PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG
1. Khái niệm và nguồn gốc Phật giáo

Phật giáo ra đời ở Ấn Độ, vào thời kỳ xuất hiện các trường phái triết học khác
nhau và sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội vào khoảng thế kỷ 6 TCN.
Phật giáo là một tôn giáo vô thần bao gồm một loạt các truyền thống, tín
ngưỡng và phương pháp tu tập dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử là Tất Đạt
Đa Cồ Đàm thường được gọi là Phật Đà, Bụt Đà, gọi tắt là Phật, hay Bụt, có nghĩa
là "người tỉnh thức", "người giác ngộ".
Sau khi Tất Đạt Đa Cồ Đàm qua đời thì Phật giáo bắt đầu phân hóa ra thành
nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng, với nhiều sự khác biệt so với ban đầu. Nhánh
Phật giáo Nam tông (hay Phật giáo Nguyên thủy, Theravada, Tiểu thừa) phát triển
mạnh ở Sri-Lankavà Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar);
nhánh Phật giáo Bắc tông (hay Phật giáo Phát triển, Mahayana, Đại thừa) phát triển
ở Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản), Việt Nam, Singapore. Đại thừa bao
gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn như Tịnh độ tông, Thiền tông, Phật giáo Tây
Tạng, Chân ngôn tông, Thiên thai tông. Ngoài ra, theo một số cách phân loại,
nhánh thứ 3 là Mật tông (vajrayana), phát triển ở Tây Tạng và Mông Cổ, nhưng,
theo một số phân loại khác thì Mật tông được xếp vào Đại thừa.
Mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Đạo Phật được tìm thấy
ở khắp thế giới. Ước tính số người theo đạo Phật vào khoảng 350 triệu đến 1,6 tỷ
người.

Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về bản chất của con đường
đưa đến giải thoát, tính chính thống của các bài giảng đạo và kinh điển, đặc biệt là
ở phương thức tu tập.
2. Giáo luật của Phật giáo
Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều
hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng đoàn,
hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha,
biết làm lành lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát. Cốt lõi của giáo luật Phật
giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
Ngũ giới là 5 giới cấm: Không sát sinh; Không nói sai sự thật; Không tà dâm;
Không trộm cắp; Không uống rượu.
Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:
+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều
ác, không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
3


Phật giáo

Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi
tiết và cụ thể đối với từng loại xuất gia.
-

Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:
• Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định: Tỳ kheo phải giữ 250
giới; Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.
• Theo Nam truyền Luật tạng thì: Tỳ kheo phải giữ 227 giới.


-

Đối với hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài ngũ giới như đã
nói ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa là: Không trang điểm,
không bôi nước hoa hay xức dầu thơm; Không nằm giường đệm cao sang, giường
rộng dùng cho hai người; Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát
nhảy múa; Không giữ vàng bạc; Không ăn phi thời (quá giờ quy định).
Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày.

-

Đối với Phật tử tại gia: Sau khi thụ Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người
Phật tử cần trì Ngũ giới để ngăn cấm những tưởng niệm ác, hành động bất chính,
gieo lòng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh giúp họ được tiến trên con đường giải
thoát, an lạc.
Ngoài ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai giới (8
giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy định nữa:
Không trang điểm; Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng, không ca múa hát
xướng và cũng không xem nghe ...); Không ăn uống không đúng giờ.
Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người trong cách
sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, ví dụ như tinh thần Lục hòa (6 điều
hòa hợp): Thân hòa đồng trụ; Giới hòa đồng tu; Khẩu hòa vô tranh; Ý hòa đồng
duyệt; Kiến hoà đồng giải; Lợi hòa đồng quân.
Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với truyền thống
văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương Đông, trong đó có Việt
Nam. Giáo luật của Phật giáo đã có đóng góp không nhỏ vào việc điều chỉnh hành
vi, hình thành nhân cách, đạo đức lối sống của một bộ phận đông đảo nhân dân Việt
Nam.

4



Phật giáo

3. Giáo lý của Phật giáo
Toàn bộ giáo lý Phật giáo là khối lượng lớn những phương pháp linh hoạt,
thích hợp với nhiều mặt, nhiều lúc, nhiều nơi, và nhất là những căn tính khác nhau
của con người có thể đi từ tự giác, giác tha và cuối cùng đạt đến giác hạnh viên
mãn. Qua giáo lý mang tính khế cơ của đạo Phật, chúng ta thấy không có lời dạy
nào của Ngài mà không bao hàm hai điểm lớn: "Xây dựng trên căn bản của con
người" và "Dẫn đến giác ngộ tối thượng cho mỗi người". Giáo lý cơ bản của đạo
Phật gồm:
3.1.

Duyên khởi

Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận động và
biến đổi không ngừng theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không (mỗi sự vật đều có
quá trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến huỷ
hoại và cuối cùng là tan biến) và đều bị chi phối bởi quy luật nhân - duyên, trong
đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và duyên là sự hỗ trợ, là
phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở.
Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm của một
đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện của một người
là do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không còn tồn tại khi nhân
duyên tan rã. Nhân - duyên ở đây được Phật giáo khái quát thành một chuỗi 12
nhân duyên (Vô minh; Hành; Thức; Danh sắc; Lục nhập; Xúc; Thụ; Ái; Thủ; Hữu;
Sinh; Lão tử.), là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi.
Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là
quả của cái trước nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau. Cuộc đời con người vui

sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối.
Giáo lý duyên khởi được triển khai thành 4 loại duyên căn bản:
- Nhân Duyên: Duyên gần gũi nhất, làm cơ sở, cái này là tiền đề để sinh ra cái
khác.
- Tăng Thượng Duyên: Cái trợ lực cho nhân duyên như nước.
- Sở Duyên Duyên: Những điều kiện làm đối tượng cho quá trình nhận thức.
- Vô Gián Duyên: Sự không gián đoạn cần thiết cho mọi phát triển, trưởng
thành và tồn tại của vật chất, vũ trụ, nhân sinh.
Kinh A Hàm, Phật dạy: "Vì cái này có nên cái kia có, vì cái này không nên cái
kia không, vì cái này sinh nên cái kia sinh, vì cái này diệt nên cái kia diệt". Luật
5


Phật giáo

Nhân quả trong quan niệm đạo Phật cũng được quan sát theo góc độ nguyên tắc
duyên sinh vừa nêu trên.
3.2. Tứ Diệu đế
Một trong những giáo lý cơ bản của đạo Phật là “khổ” và “con đường cứu
khổ” được thể hiện trong bộ “Tứ diệu đế”. Bốn chân lý giải thích bản chất của sự
khổ trong luân hồi, nguyên nhân của sự khổ và làm thế nào để giải trừ đau khổ.
Đức Phật dạy “Ở đời thực có khổ đau (Khổ đế), khổ đau cũng có nguyên nhân (Tập
đế), khổ đau có thể dập tắt (Diệt đế), và Bát chính đạo - Trung đạo là con đường
đưa đến khổ diệt (Đạo đế)”
- Khổ đế - chân lý về sự Khổ: đau trên thân gồm: sinh, già, bệnh, chết; khổ
tâm gồm: sống chung với người mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn
mà không được, chấp vào thân ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn
chạy, không nên phớt lờ, cũng không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau
trước tiên phải thừa nhận nó.
- Tập đế - chân lí về sự phát sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên nhân

thường thấy do tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân
sinh ra khổ, nguồn gốc sâu xa sinh ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái
dục, những mắt xích liên quan nằm trong 12 nhân duyên.
- Diệt đế - chân lí về diệt khổ: là trạng trạng thái không có đau khổ, là một sự
an vui giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt lòng ham
muốn, và có sự hiểu biết của trí tuệ chấm dứt vô minh.
- Đạo đế - chân lí về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đi đến sự
diệt khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo. Phương tiện hay pháp
môn để thành tựu con đường bát chánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.
3.3. Bát chính đạo
3.3.1. Nhóm trí tuệ

- Chính kiến - hiểu biết chân chính: hiểu biết về nhân quả, duyên khởi, hiểu
biết về sự vật hiện tượng chân thực, như chúng đang là, không kèm theo cảm xúc,
cảm tính, hiểu biết 4 chân lý về khổ và cách thoát khổ, từ đó biểu hiện thái độ sống
không làm khổ mình, khổ người.
- Chính tư duy - suy nghĩ chân chính: suy nghĩ dựa trên nền tảng hiểu biết, suy
nghĩ tích cực, suy nghĩ giải quyết vấn đề.
3.3.2. Nhóm đạo đức:

- Chính ngữ - lời nói chân chính: lời nói sự thật, lời nói hòa hợp, đoàn kết,
mang tính xây dựng, mang lại an vui hạnh phúc cho người khác.
- Chính nghiệp - hành vi chân chính: không sát sinh, không trộm cắp, không
ngoại tình, không sử dụng rượu bia ma túy. Các hành vi được khuyến khích: trồng
cây bảo vệ môi trường, chia sẻ sở hữu hợp pháp với những người kém may mắn
6


Phật giáo


hơn, sống chung thủy một vợ một chồng, giữ sức khỏe để chăm sóc bảo vệ người
thân.
- Chính mạng - nghề nghiệp chân chính để nuôi sống thân mạng: không làm
nghề đồ tể vì giết động vật hàng loạt; không làm nghề buôn bán vũ khí vì tạo ra giết
người hàng loạt; không làm nghề buôn bán ma túy vì tiếp tay cho con nghiện, hủy
hoại đời sống cá nhân và mất ổn định xã hội; không làm nghề buôn bán độc dược
vì tổn hại sức khỏe, sinh mạng nhiều người; không làm nghề mại dâm vì phá hoại
hạnh phúc nhiều gia đình.
- Chính tinh tấn - nỗ lực kiên trì chân chính: tiếp tục làm những việc thiện
đang làm, hiện thực hóa những việc thiện có ý định làm, từ bỏ những việc bất thiện
đang làm, loại bỏ ý định về những việc bất thiện sẽ làm.
3.3.3. Nhóm thiền định:

- Chính niệm - sự làm chủ các giác quan trong các tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi,
nói, nín, động, tịnh, thức và ngủ, làm chủ cảm xúc và thái độ sống.
- Chính định - 4 tầng thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền cùng với
những phương pháp hỗ trợ như tứ niệm xứ, định niệm hơi thở, định sáng suốt,v.v...
được đề cập trong kinh tạng Pali. Sau khi đã đạt tứ thiền, hành giả dẫn tâm về Tam
minh gồm: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Chứng tam minh
xong, hành giả giải thoát hoàn toàn, thành tựu thánh quả A-la-hán, các vị A-la-hán
tuyên bố "Tái sinh đã tận, hạnh thánh đã thành, việc nên đã làm, không còn trở lại
sinh tử này nữa".
Những tư tưởng cơ bản của Phật đều được nhắc lại trong các kinh sách, nhưng
có khi chúng được luận giải nhiều cách khác nhau và vì vậy ngày nay có nhiều
trường phái khác nhau, hình thành một hệ thống triết lí hết sức phức tạp.
3.4.

Kinh Tam tạng

Giáo pháp đạo Phật được tập hợp trong Tam tạng, bao gồm:

Kinh tạng: bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử. Kinh
tạng tiêu biểu văn hệ Pali được chia làm năm bộ: Trường bộ kinh, Trung bộ kinh,
Tương ưng bộ kinh, Tăng chi bộ kinh và Tiểu bộ kinh.
Luật tạng: chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng già cũng như các giới luật
của người xuất gia, được xem là tạng sách cổ nhất, ra đời chỉ vài mươi năm sau khi
Phật nhập Niết-bàn.
Luận tạng: chứa đựng các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lí học.

7


Phật giáo

4. Giáo chủ của Phật giáo:
-

-

-

-

-

-

-

Theo kinh sách phát triển đạo Phật có ba vị Giáo Chủ:
Bảy vị Phật giáo Chủ ở quá khứ.

Một vị Phật giáo Chủ ở hiện tại là: Thích Ca Mâu Ni.
Một vị Phật giáo Chủ ở tương lai là: Đức Phật Di Lặc.
4.1. Bảy vị Phật quá khứ:
Đức Phật Tỳ Bà Thi của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại thành Bàn Đầu Ma Na,
và đắc đạo dưới cây Bà La, cách nay 91 kiếp. Ngài có 3 hội thuyết pháp gồm
348.000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Kiển Trà và Chất Sa. Đệ tử chấp sự của ngài
là Vô Ưu.
Đức Phật Thi Khí của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại thành Quang Tướng, đắc
đạo dưới cây Phân Đà Lỵ, cách nay 31 kiếp. Ngài có 3 hội thuyết pháp gồm
250.000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là A Tỳ Phù và Tam Bà Đà. Đệ tử chấp sự là
Nhẫn Hạnh.
Đức Phật Tỳ Xá Ba của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại thành Vô Dụ, đắc đạo
dưới cây Bác Lạc Xoa, cách nay 31 kiếp. Ngài có 2 hội thuyết pháp gồm 130.000
đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Phò Du và Uất Đa Ma. Đệ tử chấp sự là Tịch Diệt
Đức Phật Câu Lưu Tôn của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại thành An Hòa, đắc
đạo dưới cây Thi Lỵ Sa. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm 40.000 đệ tử. Hai đệ tử
đứng đầu là Tát Ni và Tỳ Lâu. Đệ tử chấp sự là Thiện Giác.
Đức Phật Câu Na Hàm của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại thành Thanh Tịnh, đắc
đạo dưới cây Ưu Đàm Bác La. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm 30.000 đệ tử. Hai đệ
tử đứng đầu là Ưu Bà Hiển Xí Đa và Uất Đa La. Đệ tử chấp sự là An Hòa.
Đức Phật Ca Diếp của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại thành Ba La Nại, đắc đạo
dưới cây Thi Câu Loại. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm 20.000 đệ tử. Hai đệ tử
đứng đầu là Đề Xá và Bà La Bà. Đệ tử chấp sự là Thiện hữu.
Đức Phật Thích Ca của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại thành Ca Tỳ La Vệ, đắc
đạo dưới cây Bát Đa (Bồ đề). Hội thuyết pháp của ngài được 1.250 đệ tử. Hai đệ tử
đứng đầu là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Đệ tử chấp sự là A Nan.
Về sự tích các đức Phật, có sách chép: Ca Diếp và A Nan Đà (hay A Nan) là
hai đệ tử của đức Phật Thích Ca
Tại các chùa theo phái Tiểu thừa, trên chính điện chỉ bày tượng Phật Thích Ca,
giáo chủ Phật giáo. Ngoài ra không có pho tượng nào khác. Ngược lại, các chùa

theo phái Đại thừa, chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu, thờ nhiều Phật, nhiều nhân vật
của Phật giáo. Nhiều chùa còn thờ thêm thần thánh của đạo Lão, của tín ngưỡng
dân gian.
4.2.

Phật giáo chủ Thích Ca Mâu Ni:

Siddhārtha Gautama hay Tất Đạt Đa Cồ Đàm (phiên âm Hán Việt từ tiếng
Phạn) cũng được gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni Buddha) hay gọi tắt
8


Phật giáo

là Đức Phật, là một nhà hiền triết và đạo sư Ấn Độ cổ đại,vốn là con đầu vua Tịnh
Phạn. Thích Ca Mâu Ni sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 trước công nguyên, và mất
năm 483 trước công nguyên. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc đời vương giả
của một thái tử để đi tu, tìm đường diệt khổ cho chúng sinh. Sau 6 năm, ông đã
“ngộ đạo” và trở thành Thích Ca Mâu Ni (35 tuổi). Khi ấy ông lấy hiệu là Buddha
có nghĩa là “người giác ngộ” (Trung quốc dịch là Phật). Người ta gọi ông là Sakyamuni (nhà hiền triết xứ Sakya).
Qua 40 năm hoằng pháp và truyền đạt Giáo lý khắp đất nước Ấn Độ,ông mất
ở tuổi 80. Ông để lại cho nhân loại những tư tưởng triết học Phật giáo vô cùng quý
báu. Lời dạy cuối cùng của Đức Phật là: "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường,
chịu biến hoại, hãy tinh tiến tu học (để đạt giải thoát)!"
Phật giáo chủ Đức Phật Di Lặc:
Di Lặc là một vị Bồ Tát hay là Chuyển luân thánh vương và cũng là vị Phật
cuối cùng sẽ xuất hiện trên Trái Đất.
4.3.

Ngài người dòng Bà La Môn ở Nam Thiên Trúc; thân sinh tên là Ba Bà Lợi,

họ A Dật Ða, tên là Di Lặc. Di Lặc dịch là Từ thị, nghĩa là có lòng Từ rộng lớn. Lại
trong một kiếp trước, Ngài làm vị tiên tên là Nhất Thế Trí Quang, nhờ Ðức Phật
dạy pháp tu Từ tâm tam muội, Ngài tu pháp ấy đến khi thành Phật, nên gọi Ngài là
Từ thị.
Sự tích về Phật Di Lặc được tìm thấy trong các tài liệu kinh điển của tất cả các
tông phái Phật giáo và được chấp nhận bởi hầu hết các Phật tử như là một sự kiện
sẽ diễn ra khi Phật Pháp đã bị lãng quên trên Trái Đất, và Bồ Tát Di Lặc sẽ là bậc
giác ngộ Pháp và thuyết lại cho chúng sinh, tương tự như những vị Phật lịch sử đã
làm trong quá khứ.
Có thuyết cho rằng, chính Bồ Tát Di Lặc là người khởi xướng hệ phái Duy
thức của Đại thừa. Một số học giả cho rằng, vị này chính là Maitreyanātha, thầy
truyền giáo lí Duy thức cho Vô Trước. Truyền thống Phật giáo Tây Tạng cho rằng,
Ngài là tác giả của năm bài luận, được gọi là Di Lặc ngũ luận:
- Đại thừa tối thượng luận hoặc Cứu cánh nhất thừa bảo tính luận.
- Pháp pháp tính phân biệt luận.
- Trung biên phân biệt luận.
- Hiện quán trang nghiêm luận.
- Đại thừa kinh trang nghiêm luận.
5. Nghi lễ của Phật giáo:

5.1.

Ban Nghi lễ:

Ban nghi lễ là một thành phần nhân sự thành kính phụ giúp hành lễ đúng nghi
thức, hợp lẽ đạo.
9


Phật giáo


5.1.1. Thành phần:
- Chủ lễ (chủ sám): Thay mặt toàn thể kinh sư và gia chủ thưa thỉnh, điều khiển buổi
lễ
- Cử chuông (duy na): Ðánh chuông trong buổi lễ
- Cử mõ (duyệt chúng): Ðánh mõ trong buổi lễ
- Kích tử: Xử dụng tan, linh...
- Công văn: Thiết lập bàn lễ, sớ điệp
- Kinh sư hộ niệm: góp nguyện lực
5.1.2. Nhiệm vụ
- Chủ lễ (chủ sám): Trước khi lễ phải sắp xếp,kiểm soát kinh sách, kinh sư, gia chủ,
lễ vật và sớ điệp với sự phụ giúp của công văn. Phân nhiệm, mời thỉnh hay cắt cử
nhân sự cho buổi lễ. Trong khi hành lễ phải chú tâm hướng thượng, quán chiếu,
trình thỉnh, tán tụng với lòng chí thành. Tư cách khiêm cung, kính cẩn, tránh lời nói
hay hành động thô, ngoài cuộc lễ.Sau khi lễ khuyến tấn gia chủ, bổ khuyết những
thiếu sót, sám hối những lỗi lầm.
- Cử chuông (duy na): Kiểm soát kinh sách, Pháp khí (chuông), chuẩn bị nhang cho
chủ lễ. Tư thế đứng, cầm dùi chuông cho nghiêm trang, sử dụng chuông đúng chỗ,
đúng lúc để buổi lễ được uy nghiêm, thanh tịnh.
- Cử mõ (duyệt chúng): Kiểm soát kinh sách, pháp khí (mõ), chuẩn bị nhang cho chủ
lễ. Thông thường duy na đốt nhang cho chủ lễ, duyệt chúng nhận nhang từ chủ lễ
cắm vào lư hương sau khi chủ lễ kỳ nguyện xong. Tư thế đứng, cầm dùi mõ nghiêm
trang. Sử dụng mõ đúng bài bản; thông thường mõ giữ đều về trường canh và cao
độ (lớn nhỏ), chỉ thay đổi khi cần.
- Kích tử (sử dụng tan, linh): Tùy theo bài bản của buổi lễ, mục đích làm tăng phần
uy nghiêm, trang trọng của buổi lễ. Cần được thực tập nhiều, tránh lắc người, nhảy
nhót, đứng nghiêng một bên.
- Công văn: Công văn chính là một thư ký phối hợp chặt chẽ với chủ lễ để biết cách
hành lễ như thế nào? Dâng lễ ra sao? Dâng lễ cho ai, phẩm vật gì, nhiều hay ít.
Công cố vấn cách hành lễ cho gia chủ, hoàn thành bản văn dâng cúng gọi là sớ,

điệp..., phụ giúp tiến cử kinh sư hộ niệm để gia chủ mời thỉnh, chỉ cách sắm sửa,
sắp xếp lễ vật qua người “chiếu liệu”
- Kinh sư hộ niệm: Nhất tâm thành kính tụng niệm và sẵn sàng giúp đỡ sử dụng pháp
khí để buổi lễ tăng thêm nguyện lực.
Ðể có những buổi lễ trang trọng, chúng ta cần phải có một ban nghi lễ đơn
giản như trên, nhưng phải thành thục khoa nghi.
5.2.

Bài bản thông thường của một buổi lễ:
10


Phật giáo

5.2.1. Thứ tự một thời kinh:
a. Nghi thức.
b. Niệm hương (nguyện hương), bạch Phật (kỳ nguyện).
c. Tán Phật: (Pháp Vương...)
d. Xướng đảnh lễ (quán tưởng): Năng lễ...
e. Ðảnh lễ tam bảo: Nhất tâm đảnh lễ...
f. Tán hoặc tụng một bài cúng dường hoặc sái lịnh (tùy theo tính cách buổi
lễ).
g. Tụng chú Ðại Bi, tán Cam Lổ Vương hoặc bài Trí huệ..
h. Tác bạch tuyên sớ (nếu không có sớ thì tác bạch mà thôi).
i. Khai kinh kệ (nếu tụng kinh bộ).
j. Tụng kinh: Sám Hối, Cầu An, Cầu Siêu (Quy Y Linh).
k. Niệm Phật: Sám
l. Tụng bát Nhã và Chư Phẩm Thần Chú.
m. Hồi hướng: ...Công đức Thù thắng hạnh...
n. Phục nguyện.

o. Tam tự quy. Nguyện dĩ thử công đức...
5.2.2. Niệm hương bạch Phật:
5.2.2.1. Khóa lễ hằng ngày
Thì thầm đọc hoặc đọc lớn tiếng bài "nguyện hương", trí quán tưởng pháp vị
của hương biến thành đài mây hương thơm ngát để dâng cúng mười phương Tam
bảo.
Nguyện hộ trì cho mình và tất cả chúng sinh nhờ vào công đức này mà tâm bồ
đề kiên cố, lòng đạo mở mang, tu thành chính quả.
5.2.2.2. Các khóa lễ cầu an
Như phần trên, nhưng quán tưởng đến câu "hộ trì cho đệ tử/bệnh nhân...."
được nhờ công đức này, tật bệnh tiêu trừ, thân thể bình phục. Nếu bịnh tình quá
nặng, vô phương cứu chửa thì quán tưởng đến câu "nếu bệnh nhân đã đến ngày
mãn kiếp, xin rủ lòng thương xót, tiếp dẫn về Cực lạc, siêu thoát Luân hồi".
5.2.2.3. Các khóa lễ cầu siêu
Quán tưởng như trên và xin cho hương linh, âm linh được nhờ công đức này,
nghiệp chướng tiêu trừ, trí huệ khai minh, phát bồ đề tâm, siêu sinh Cực lạc, liên
hoa hóa sinh, chứng ngôi bất thoái.
11


Phật giáo

Thời gian (ngày..., tháng..., năm...). Không gian (địa chỉ: nhà, tang nghi quán,
chùa hay bất cứ ở đâu). Nơi này có thờ Phật hay không (phụng Phật, kiến diện
phụng Phật, kiến đàn phụng Phật, hay vọng Phật...), tu hương phúng kinh (lý do
hành lễ). Kim... (tên gia chủ...), cầu nguyện cho ai... (tên người được cầu an, hay
cầu siêu...) phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, vĩnh ly khổ ách. Phổ
nguyện: âm siêu dương thái, hãi yến hà thanh, pháp giới chúng sinh, tề thành Phật
đạo (nếu cầu an). Phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, tốc xã mê đồ, siêu
sinh tịnh độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ bi, phóng quang tiếp độ hương linh vãng sinh

Cực lạc Quốc (Câu Siêu).
5.3.

Những điều cần lưu ý trước khi hành lễ

Những lễ cầu an, cầu siêu hay cúng ngọ Phật, tại chốn Già Lam Tịnh xá hoặc
tư gia Phật tử đã có thờ Phật rồi. Ðánh lễ tam bái xong, trước tiên phải tán một bài
gì có ý nghĩa "cúng hương" như: Giới hương, Lư hương, Hương vân, Tâm diên,
Hương tài v.v.... Cuối bài có câu "Nam Mô Hương vân Cái Bồ tát" (3 lần). Rồi sau
đó mới được tán những bài khác ngoài ý nghĩa nói trên.
Trái lại, những lễ như: Trị quan, Trị huyệt hoặc An Vị Phật hoặc khánh
thành...khi bắt đầu khởi lễ, phải tán một bài có ý nghĩa sái tịnh như: Tào Khê Thùy,
Hải Chấn hoặc Dương Chi (tùy ý chọn)...Cuối bài có câu "Nam Mô Cam Lồ Vương
Bồ tát".
Sau các bài tán, khi bắt đầu buổi lễ, phải tụng "Chú Ðại Bi" và kết thúc phải
tụng "Bát Nhã" áp dụng cho tất cả các lễ trước bàn Phật.
Cuối cùng: Tam tự quy và Hồi hướng.
5.4.

Ý nghĩa của nghi lễ

Khi nói đến Nghi lễ chúng ta cần phải hiểu qua ý nghĩa của nó. Hai chữ nghi
lễ có nhiều ý nghĩa:
- Nghi: Nghi thức, lễ nghi, lễ phép, khuôn phép, oai nghi.v.v..
- Lễ: Lễ giáo, lễ nhạc, (điều hòa), lễ bái, cúng tế, tôn thờ, cung kính.v.v...
- Nghi lễ là chỉ chung cho nghi thức tụng niệm hành lễ, sinh hoạt, trong phạm
vi tín ngưỡng thờ phụng của một tôn giáo.
Bất cứ một tôn giáo nào đều phải có những hình thức nghi lễ để tiêu biểu tinh
thần đạo vị của mình. Mặc dầu trên thể thức và âm điệu của mỗi đạo giáo có phần
sai khác nhưng mục đích vẫn là chí thành cầu nguyện, tán thán công đức vị Giáo

chủ mà mình đã quy ngưỡng tôn thờ.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo chỉ chú trọng về phương diện nghi lễ,
nhưng nhờ có sinh hoạt nghi lễ mà đưa người vào đạo Phật một cách dễ dàng. Ví
dụ: cầu an cho người bệnh hoạn, tai nạn..., cầu siêu bạt độ cho kẻ lâm
chung.v.v...Đó là những phương tiện thực tế để điều hòa lý trí, gieo rắc tình cảm
12


Phật giáo

của con người, an ủi tinh thần cho người còn cũng như kẻ mất.Vì thế, nghi lễ cũng
là vấn đề quan trọng và có nhiều lợi lạc trong đạo Phật.
Vậy kẻ hành giả cần phải học tập và hiểu rõ ý nghĩa những vấn đề thuộc về
nghi lễ trước khi hành lễ. Mỗi khi hành lễ, muốn được điều hòa âm thanh nhịp
nhàng, trầm bỗng để tăng phần trang nghiêm và linh cảm cần phải có những pháp
khí để làm phương tiện hộ tương trong những khóa lễ như sau:
Đây là bài kệ: chuông trống bát nhã (song hành), Bát nhã hội (3lần), Thỉnh
Phật thượng đường (1 lần), Đại chúng đồng văn (1 lần), Bát nhã âm (1 lần), Phổ
nguyện pháp giới (1 lần), Đẳng hửu tình (1 lần), Nhập Bát Nhã (1 lần) Ba La Mật
Môn (5, 10 lần).
Trước hết câu từ 3 hồi chung bản qua chuông trống, phải đổ một hồi ngắn, kế
đánh 3 hồi chính thức dài y đúng bài kệ trên, sau cùng dứt 4 tiếng.
Lễ thường đánh 3 hồi dài, lễ lớn đánh 9 hồi dài.
5.5.

Ý nghĩa đánh chuông mõ

- Tiên khởi tam (trước đánh 3 tiếng)
- Thứ lôi thất (tiếp nhịp 7 tiếng)
- Tịnh đã tam (và đánh 3 tiếng)

- Chung đã thành (giữa đánh 10 tiếng)
- Hậu diệt tứ (sau dứt 4 tiếng)
- Trước đánh 3 tiếng: Ý nói là chúng sinh đều do 3 nghiệp (thân, khẩu, ý) tạo
ác, sau đọa 3 đường khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh). Cũng có nghĩa trừ tam độc
(tham, sân, si), để chứng tam đức (pháp thân, bát nhã, giải thoát).
- Tiếp nhịp 7 tiếng: Là tiêu biểu thất chi tội (thân tam: sát, đạo, dâm. Khẩu tứ:
vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu). Để chứng thất giác chi (trạch pháp, tinh
tấn, hỷ, trừ, xả, định, niệm).
- Và đánh 3 tiếng: Nghĩa là hay tu tam học (giới, định, huệ). Quyết chứng tam
thừa (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát).
- Giữa đánh 10 tiếng: Là để tiêu trừ 10 điều ác (thất chi tội, cộng thêm ý có 3
thành 10 điều ác), để chứng 10 thân (bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực thân,
trang nghiêm thân, oai thế thân, ý sinh thân, phước thân, pháp thân, trí huệ thân).
- Sau dứt 4 tiếng: Là tiêu trừ 4 tướng (sinh, lão bệnh, tử) để chuyển thành tứ
trí:
+ Hành sở tác trí (tiền ngũ thức).
+ Diệu quang sát trí (đệ lục ý thức).
+ Bình đẳng tính trí (đệ thất mạc na thức).
13


Phật giáo

+ Đại viên cảnh trí (đệ bát a lại gia thức).
5.6.

Ý nghĩa tán sám tụng niệm

Tán sám: Là khen ngợi tướng tốt và thâm ân của Tam Bảo.
Tụng: Đọc tụng kinh, chú của Phật dạy.

Niệm: Tưởng niệm danh hiệu và tướng tốt của Đức Phật.
Nếu nói rõ, tụng niệm là mục đích để làm cho tâm và miệng được hợp nhất
vào câu Kinh tiếng Pháp của Phật.
Tụng niệm để giữ 3 nghiệp cho được thanh tịnh, trang nghiêm và huân tập
những điều hay tốt, đồng thời ôn lại những lời Phật dạy để làm phương châm đời
sống hằng ngày và huân tập giống Bồ đề giải thoát tâm thức cho mình cùng người.
Tụng niệm để làm cho Pháp âm lưu chuyển trong nhân gian, cảm hòa mọi
người cải tà qui chánh và khuyến khích nhắc nhở mình cùng người trên đường làm
lành học Đạo.
Tóm lại, người tu hành luôn luôn phải tụng niệm để sám hối tội lỗi cầu mong
sớm đạt được mục đích giải thoát và giác ngộ. Lại nữa, tụng niệm để cầu an cho
người bệnh hoạn và cầu siêu cho kẻ lâm chung chóng thoát luân hồi, siêu sinh Tịnh
Độ.
Vậy, là Phật tử bất luận tại gia hay xuất gia, ai ai cũng cần phải học và hiểu ý
nghĩa Nghi lễ để tụng niệm.
6. Niềm tin của Phật giáo
Niềm tin là cơ sở của mọi tôn giáo, nhưng trong đạo Phật, niềm tin phải đi đôi
với nhận thức đúng đắn. Niềm tin trong đạo Phật là chính tín, tức niềm tin đó phải
chân chính, có chính kiến.
Niềm tin trong đạo Phật là niềm tin trên cơ sở hiểu biết, trí tuệ. Đức Phật đã
từng dạy: “Đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy từng được nghe nói đến, đừng
nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy được quảng bá rộng rãi, đừng nên tin bất cứ
điều gì chỉ vì điều ấy do truyền thống để lại, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều
ấy được kinh điển truyền tụng, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy do một vị
giáo chủ nói ra, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ do suy đoán, đừng nên tin bất cứ
điều gì chỉ do suy luận, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì mình thấy điều đó có lý,
đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều đó phù hợp với thành kiến, quan điểm nhận
thức của mình, đừng nên tin bất cứ điều gì chỉ vì điều ấy do thầy mình nói ra.
Nhưng chỉ khi nào tự mình biết rằng những điều đó là không đúng, những điều đó
không chính đáng, những điều đó bị người hiền trí phê phán, và khi chấp nhận, khi

thực hành sẽ đưa đến tai hại và khổ đau thì các ngươi hãy từ bỏ những điều đó.
Khi nào chính các người biết rằng những điều đó là chân chính, những điều đó
không bị chê trách, những điều đó được người hiền trí khen ngợi, những điều đó
14


Phật giáo

khi được chấp nhận và thực hành sẽ dẫn đến an lạc hạnh phúc, thì các người phải
nỗ lực mà thực hành” (Kinh Kalama, Tăng Chi Bộ kinh I).
Niềm tin của người Phật tử, tức người đã quy y Tam bảo - quay về nương tựa
Phật, Pháp, Tăng - thọ trì năm giới, thực hành đời sống tại gia tu hành, là niềm tin
tuyệt đối vào Đức Phật, Phật pháp và Tăng già. Người Phật tử tin rằng Đức Phật là
bậc giác ngộ hoàn toàn về ba phương diện: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, có
trí tuệ và phương tiện thiện xảo, Đức Phật có thể dìu dắt chúng sinh ra khỏi vòng
vô minh lầm lạc, đạt đến an lạc, cứu cánh Niết bàn. Người Phật tử tin rằng Phật
pháp là chân lý mà Đức Phật đã thân đắc đạo, là phương pháp diệt khổ, là con
đường đưa đến an lạc giải thoát. Luận Đại thừa khởi tín có nói: “Lòng tin có bốn:
Một là lòng tin cội gốc, nghĩa là luôn nghĩ pháp Chân như. Hai là tin Đức Phật có
vô lượng công đức, thường tưởng nhớ, gần gũi cung kính, cúng dường, phát khởi
tâm lành để cầu Nhất thiết trí. Ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu hành
cho rốt ráo. Bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình lợi người, thường gần gũi
các bậc Bồ tát cầu học hạnh như thật”.
Niềm tin là một trong bảy tài sản của bậc Thánh (Thất Thánh tài). Kinh Hoa
Nghiêm, Đức Phật dạy: “Niềm tin là mẹ sinh ra các công đức”. Bởi vì có niềm tin
nơi Đức Phật, có niềm tin nơi Chính pháp, nơi Tăng già, các bậc đạo sư thì mới quy
ngưỡng và tín thọ, phụng hành giáo pháp đưa đến thành tựu phạm hạnh, an lạc giải
thoát. Thấy được giá trị lợi ích của Chính pháp đối với cuộc đời, chúng ta phát khởi
lòng tin, và nhờ niềm tin ấy mà nỗ lực thực hành Chính pháp. Càng thực hành,
càng áp dụng vào đời sống, càng được an lạc hạnh phúc thì niềm tin càng tăng

trưởng và kiên cố thêm. Kinh Niết Bàn nói: “Lòng tin làm nhân cho nghe pháp và
nghe pháp làm nhân cho lòng tin”.
Đến với đạo Phật không phải để cầu đảo van xin, không phải để nương tựa
thần quyền. Niềm tin trong đạo Phật hướng về những điều mà Đức Phật đã giác
ngộ, đó là duyên sinh, nhân quả nghiệp báo, là vô thường, khổ, không, vô ngã…
Nếu xây dựng niềm tin không vững chắc, hoặc niềm tin có được trên cơ sở nhận
thức cảm tính mà không xuất phát từ lý trí, từ kinh nghiệm thực tiễn thì sớm muộn
niềm tin ấy cũng bị đổ vỡ.
Ngoài ra còn một điều hết sức quan trọng là lòng tự tín của người Phật tử. Đây
là niềm tin căn bản nhất không thể thiếu. Lòng tự tín là lòng tin vào khả năng giác
ngộ của chính mình, tin rằng mình sẽ thành Phật nếu nỗ lực tu hành. Đức Phật đã
dạy: “Hãy tự xem con là hải đảo của con. Hãy tự xem con là chỗ nương tựa của
con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác” (Kinh Niết Bàn), và “Các con phải tự
mình nỗ lực, các đấng Như Lai chỉ là người thầy dẫn đường”(Pháp Cú, 276).
Tóm lại niềm tin căn bản trong đạo Phật là niềm tin Tam bảo: Phật, Pháp,
Tăng và niềm tin tự thân, tin vào khả năng giác ngộ của chính mình, tin mình có
thể đạt đến chỗ toàn Chân, Thiện, Mỹ và giác ngộ giải thoát. Một khi có niềm tin
nơi Tam bảo là những gì được xem là chân lý, là thánh thiện thì con người sẽ phấn
đấu hướng đến những gì tốt đẹp nhất để đạt được mục tiêu an lạc hạnh phúc trong
15


Phật giáo

hiện tại và tương lai, cũng như con thuyền đã xác định phương hướng, đã có bến
đỗ.
7. Tổ chức của Phật giáo
Tổ chức Phật giáo không chặt chẽ. Phật giáo không có giáo quyền, không
thống nhất cách tu hành, có nhiều tông phái và sơn môn. Người theo đạo Phật được
chia làm hai loại:

+ Người tu hành: phải thoát ly gia đình và các sinh hoạt xã hội, đi tu ở chùa
theo quy định. Nam tu sĩ gọi là Tăng, nữ tu sĩ gọi là Ni.
+ Người tu tại gia: thờ Phật, lễ Phật tại nhà và tuân theo Ngũ giới và Thập
thiện.
Về hệ thống chức sắc và các nhà tu hành:
- Đối với Tăng:
Hòa thượng: có 40 năm tu, 60 năm tuổi đời, từ Thượng tọa được tấn phong
lên.
Thượng tọa: có 30 năm tu, 50 năm tuổi đời và từ Đại đức được tấn phong lên.
Đại đức: là hàng Tỳ kheo, được thọ giới sau khi xuất gia khoảng 10 năm trở
lên.
Sa di: được thọ giới từ Tiểu lên.
Tiểu: người xuất gia tu hành.
- Đối với Ni: Gồm có Ni trưởng, Ni sư, Ni cô, Sadini, Tiểu cũng phải thọ giới
và tấn phong như bên Tăng.
Phật giáo gồm hai phái là Đại thừa, Tiểu thừa. Từ hai phái đó mỗi phái lại chia
thành nhiều tông nên hay gọi là “tông phái”.
+ Đại thừa (cỗ xe lớn): phái này cho rằng con người có thể giác ngộ bằng tự
lực và bằng tha lực tức bằng sự dẫn dắt của người khác, đặc biệt là của các vị Bồ
Tát. Do đó phải “tự giác giác tha, tự độ độ tha” tức mình đã giác ngộ thì phải giác
ngộ người khác. Ở Việt Nam phái Đại thừa còn gọi là Bắc tông.
+ Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): Mỗi người phải lo tu thân, giác ngộ chỉ bằng tự lực.
Ở Việt Nam phái Tiểu thừa còn gọi là Nam tông.

PHẦN II: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO
Ở VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành Phật Giáo ở Việt Nam

Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu công nguyên
với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc

tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan
trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện
cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được
phiên âm trực tiếp thành Bụt, từ Bụt được dùng nhiều trong các truyện dân gian.
Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị
16


Phật giáo

thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do
ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ Bụt bị mất đi và được thay thế
bởi từ Phật. Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành Phật đà, Phật đồ rồi
được rút gọn thành Phật.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần,
Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn
đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật
giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 18, vua Quang Trung cố gắng chấn
hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều
kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo
Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng
góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
2. Quá trình phát triển Phật giáo ở Việt Nam
2.1.
Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V, thời kỳ du
nhập và hình thành Phật Giáo Việt Nam
Nhờ sự nỗ lực hoạt động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn Độ, tại Luy Lâu, thủ
phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong
vùng. Tại đây, với những sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La (người Ấn Độ

đến Luy Lâu khoảng năm 168-169) đã xuất hiện một mô hình Phật Giáo Việt Nam
hóa đầu tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu (hình
tượng Phật Nữ).
Đến thế kỷ thứ V, thiền sư Đạt Ma Đề Bà (Oharmadeva) là người Ấn Độ đến
Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp thiền học.
Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu kỷ
nguyên Tây lịch, nên danh xưng Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được phiên
âm trực tiếp sang tiếng Việt là Bụt (Trung Hoa dịch là Phật). Điều này trùng hợp
với danh từ Bụt được xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích Việt Nam. Theo từ điển
Phật học Việt Nam, (Minh Châu và Minh Chi, Hà Nội 1991) có ghi: "Tiếng Bụt
phổ biến hơn trong văn học dân gian và là dấu hiệu chứng tỏ Đạo Phật truyền vào
nước ta sớm lắm".
2.2.
Phật giáo Việt Nam từ TK thứ VI đến hết TK thứ IX, thời kỳ phát
triển
Sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo
của Trung Quốc. Sau đó, Phật Giáo Bắc phương (Trung Quốc) đã chiếm ưu thế và
đã thay đổi chỗ đứng của Phật Giáo Nam Tông vốn có từ trước. Trong thời gian
này, từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền vào Việt Nam, đó là Thiền Tông,
Tịnh Độ Tông và Mật Tông.
I.2.1. Thiền Tông
Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập có từ thời Đức Phật Thích
Ca tại Ấn Độ. Đến năm 520 Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa để hoằng dương
Phật pháp. Tại nơi đây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh.
17


Phật giáo

Dòng thiền thứ nhất: được Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) sáng lập. Đây là

dòng thiền có tích các dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu
việt của Phật Giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần chúng
nghèo khổ Việt Nam.
Dòng thiền thứ hai: là thiền phái Vô Ngôn Thông, do thiền sư Vô Ngôn Thông
người Trung Hoa sáng lập. Đây là thiền phái chịu ảnh hưởng Phật Giáo Trung Hoa
sâu đậm.
Dòng thiền thứ ba: là thiền phái Thảo Đường, do thiền sư Thảo Đường (người
Trung Hoa) sáng lập. Thiền phái này có khuynh hướng thiền tông trí thức và văn
chương, do đó chỉ ảnh hưởng được tới một số trí thức và vua quan có khuynh
hướng văn học.
Dòng thiền thứ tư: đó là thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (12581368) khai sáng. Vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia vào năm 1299 với đạo hiệu
là Trúc Lâm Đầu Đà, ngài đã lên tu ở núi Yên Tử (tỉnh Quãng Ninh) và tại đây,
ngài đã lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Việt Nam đầu tiên, mang tính
chất độc lập Việt Nam với sự kết hợp hài hòa của Phật Giáo A Hoa. Lập ra thiền
phái Trúc Lâm này, vua Trần Nhân Tông đã thống nhất được các thiền phái tồn tại
trước đó và toàn bộ Giáo Hội Phật Giáo đời Trần về một mối.
Nhìn chung thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền đại diện cho quý tộc, nông
dân và nho sĩ. Sự tổng hợp đó, đã tạo nên nét đặc thù của thiền phái Trúc Lâm mà
các thiền phái trước đó không có được, đưa Đạo Phật đi vào xã hội với tinh thần
nhập thế cụ thể, giáo hội được tổ chức chặt chẽ, cũng cố tinh thần đạo pháp và dân
tộc xây dựng phồn vinh cho đất nước.
I.2.2. Tịnh Độ Tông
Tịnh Độ Tông chủ trương phải dựa vào tha lực tức sự giúp đỡ từ bên ngoài.
Chính Đức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến giác ngộ thì sự giúp
đỡ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Sự giúp đỡ đó còn cho thấy bản thân
của người tín đồ cần thường xuyên đi chùa dâng hương, cúng dường, bố thí, làm
những điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di
Đà.
Nhờ cách thức tu tập đơn giản như vậy nên Tịnh Độ Tông là tông phái phổ
biến khắp Việt Nam. Tượng Phật A Di Đà cũng thuộc loại tượng Phật lâu đời và

phổ biến ở Việt Nam. Điển hình là pho tượng Phật A Di Đà bằng đá, cao gần 2m,
thờ tại chùa Phật Tích, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh. Đây là một bằng chứng
đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Độ Tông đầu tiên ở Việt Nam.
I.2.3. Mật tông
Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ thể và những mật ngữ, mật
chú để khai mở trí tuệ giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Đại Nhật chủ
xướng và có hai bộ kinh chính là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương. Mật tông
truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng
hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như chẩn tế, cầu đồng,
18


Phật giáo

dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có dấu hiệu phát
triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng chùa và của mỗi cá
nhân có cơ duyên đến với tông phái này.
I.3.
Phật giáo Việt Nam từ TK thứ X đến hết TK thứ XIII, thời kỳ cực
thịnh
Đến thế kỷ thứ X- trải qua 1000 năm Bắc thuộc, Phật giáo Việt Nam mới phát
triển tới mức toàn vẹn, cực thịnh và có những đóng góp tích cực cho đất nước. Tinh
thần Phật Giáo đã khiến cho các nhà chính trị đời Trần áp dụng những chính sách
bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong đời Trần là quốc giáo, mọi người
dân trong xã hội điều hướng về Phật Giáo.
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây dựng
trong thời Lý Trần như chùa Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Linh Xứng, chùa Một
Cột, chùa Phổ Minh. Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của Phật Giáo Việt
Nam thời Lý Trần mà sách vở Trung Hoa truyền tụng nhiều về 4 công trình nghệ
thuật lớn mà họ gọi là An Nam Tứ Đại Khí. Đó là: Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm ở

chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng Ninh); Tháp Bảo Thiên ở chùa Sùng
Khánh, phía Tây Hồ Lục Thủy (tức Hồ Gươm Hà Nội ngày nay); Chuông Quy
Điền chùa Diên Hựu; Vạc Phổ Minh tại chùa Phổ Minh (làng Tức Mặc, Nam Hà).
I.4.
Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX, thời kỳ phục hưng
Sang đến đời Hậu Lê rồi Nguyễn Triều, Phật Giáo nhường bước cho Nho giáo,
lúc ấy đang chiếm vai trò độc tôn. Ngoài ra, Ki Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam
và dân tộc Việt Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy tinh
thần khai phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không còn được thể
hiện trong chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo
vẫn là tôn giáo chính của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực tranh chấp,
góp phần xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập của quốc gia.
Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí tưng bừng của phong
trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới, một số tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong
trào chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật
Giáo Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và xuất bản
tạp chí Đuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt tại chùa Từ
Đàm và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934. Tại miền Nam, năm 1920, Hội
nghiên cứu Phật Học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp chí
Từ Bi Âm (1932).
Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo này mà chùa chiền được xây dựng khắp
nơi, nhất là hệ thống chùa phật học ở các thành thị.. Bên cạnh đó, trong thời kỳ này,
có nhiều hệ phái, tôn phái phật giáo ra đời, như giáo phái Khất Sĩ Việt Nam, Phật
Giáo Hoa Tông ...
Đến tháng 11/1981, thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng
Thích Đức Nhuận làm pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương, Hòa Thượng
Thích Trí Thủ làm chủ tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương.
19



Phật giáo

Như vậy, ngay từ buổi du nhập vào đất Việt, Phật giáo đã hòa quyện, hội nhập
trong lòng Dân tộc. Khẳng định tinh thần gắn liền Đạo pháp với Dân tộc của Phật
giáo Việt Nam, là điểm son, là dấu ấn truyền thống đặc thù của Phật giáo Việt Nam
trong lòng Dân tộc.
Ngày nay, phương châm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là: "Đạo pháp -Dân
tộc - Chủ nghĩa xã hội” Càng khẳng định tính chất gắn bó giữa Phật giáo với Dân
tộc Việt Nam.
3. Giáo hội Phật giáo tại Việt Nam
Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam. Theo thống kê
của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam năm 2009, hiện có gần 6.802.318 tín đồ Phật
giáo, còn theo số liệu thống kê của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cả nước có gần 45
triệu tín đồ quy y tam bảo, có 839 đơn vị gia đình Phật tử và khoảng 44.498 tăng ni,
hơn 14.775 tự, viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường. Hệ thống tổ chức Giáo hội
Phật giáo Việt Nam gồm có:
- Hội đồng Chứng Minh: Thành viên Hội đồng Chứng Minh là các Hòa
thượng. Đứng đầu Hội đồng Chứng Minh là Pháp Chủ, dưới là các Phó pháp chủ
và các thành viên khác.
- Hội đồng Trị sự: Thành viên Hội đồng Trị sự là các Hòa thượng, Thượng tọa,
Đại đức, Ni trưởng, Ni sư, Sư cô, Cư sĩ. Đứng đầu Hội đồng Trị sự là Chủ tịch Hội
đồng Trị sự, tiếp đó là các Phó chủ tịch, các Trưởng ban.
- Tại cấp Tỉnh/thành, mỗi tỉnh/thành có Tỉnh/Thành hội Phật giáo, lãnh đạo
bởi Ban trị sự Tỉnh/Thành hội, người đứng đầu là Trưởng ban trị sự.
- Tại cấp Quận/huyện/thị xã/ thành phố trực thuộc tỉnh, lãnh đạo bởi Ban Trị
sự Quận/Huyện/Thị/Thành hội, đứng đầu là Trưởng ban Trị sự Phật giáo quận,
huyện, thị xã, thành phố (trực thuộc tỉnh).
4. Ảnh hưởng của Phật giáo ở Việt Nam
Trong quá trình hội nhập văn hóa sự ảnh hưởng của Phật Giáo đã tác động và
đã tạo cho Phật Giáo Việt Nam có những nét đặc thù sau đây:

4.1.
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng truyền
thống
Khi được truyền vào Việt Nam, Phật Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng
bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Có thể kể đến như: biểu
tượng chùa Tứ Pháp là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây,
Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là tiền Phật hậu
Thần cùng với việc thờ trong chùa các vị thần, các vị thánh, các vị thành hoàng thổ
địa và vị anh hùng dân tộc... Chính vì tinh thần khai phóng này mà về sau phát sinh
những hậu quả mê tín dị đoan bên trong Phật Giáo như bói quẻ, cầu đồng…

20


Phật giáo

Ngoài ra, đối với người Việt Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng
phật giáo khá nhiều như tập tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí, tập tục
cúng rằm, mùng một và lễ chùa, nghi thức ma chay, cưới hỏi,…
4.2.
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các tôn giáo khác
Đây là kết quả của sự phối hợp và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho và đạo
Lão, được các nhà vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính
dung hòa và điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưỡng truyền
thống của dân tộc Việt. Phật giáo thực hiện bằng con đường trí tuệ giác ngộ để đạt
tới chỗ nhất quán Chân, Thiện, Mỹ. Đó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam
Giáo Việt Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở
giữa, Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phải đã in sâu vào tâm thức người dân Việt.
4.3.
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa giữa các tông phái Phật

Giáo
Đây là một nét đặc trưng rất riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các
quốc gia Phật Giáo láng giềng. Việt Nam thì dung hòa và điều hợp cả Nam Tông và
Bắc Tông. Chính vì tinh thần khế lý khế cơ của Phật Giáo cộng với tinh thần khai
phóng của Phật Giáo Việt Nam mới có được kết quả như vậy. Tuy thiền tông chủ
trương bất lập văn tự, song ở Việt Nam các thiền viện điều tụng kinh gõ mõ như
các tự viện Tông Tịnh Độ. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì kết hợp với Mật Giáo,
có nhiều thiền sư phái này như ngài Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh
Không điều nổi tiếng là giỏi phép thuật trong việc trừ tà, chữa bệnh.
4.4.
Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự dung hòa với các thế hệ chính trị xã
hội
Phật giáo tuy là một tôn giáo xuất thế, nhưng Phật Giáo Việt Nam có chủ
trương nhập thế, tinh thần nhập thế sinh động này nổi bật nhất là các thời Đinh, Lê,
Lý, Trần. Trong các thời này các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh điều được
mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của quốc
gia. Trong đó đặc biệt thiền sư Vạn Hạnh đã có công xây dựng triều đại nhà Lý khi
đưa Lý Công Uẩn lên làm vua. Ngày nay, tinh thần nhập thế này cũng không ngừng
phát huy, đó là sự có mặt của các thiền sư Việt Nam trong quốc hội của nước nhà.
4.5.
Ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học và nghệ thuật Việt Nam
3.5.1. Văn học
Trong đời sống thường nhật cũng như trong văn học Việt Nam ta thấy có
nhiều từ ngữ chịu ảnh hưởng của Phật Giáo. Tuy nhiên không phải ai cũng biết
những từ ngữ này được phát xuất từ Phật Giáo, chẳng hạn như tội nghiệp, từ bi, hỷ
xã, giác ngộ, sám hối đã được người dân Việt Nam quen dùng như tiếng mẹ đẻ mà
không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự ảnh hưởng phật giáo không ngừng ở phạm vi
từ ngữ mà nó còn lan rộng, ăn sâu vào những ca dao dân ca và thơ ca của người dân
Việt Nam. Hình ảnh đất vua, chùa làng, phong cảnh, hình tượng Bụt, tiếng chuông
chùa, quan niệm hiếu hạnh,… đã đi vào những bài ca dao, điệu hát nhằm nhắc nhở,

21


Phật giáo

khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với
truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
3.5.2. Nghệ thuật
Nghệ thuật sân khấu là một loại hình văn hóa đặc trưng mang tính bản sắc của
văn hóa dân tộc Việt. Một số loại hình mang tính dân gian như: hát bội, tuồng,
chèo, kịch nói,… có tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo đóng vai trò
quan trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý phương đông và nếp
sống truyền thống của dân tộc. Bên cạnh đó, nghệ thuật tạo hình cũng chịu ảnh
hưởng từ Phật giáo. Về kiến trúc: Chùa tháp ở Việt nam thường xây dựng với lối
kiến trúc đặc biệt, mái chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa
hay ở một nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Về điêu khắc: Nhiều cốt
tượng, phù điêu của Phật giáo được trưng bày, đó không những là một niềm tự hào
của nền văn hóa dân tộc Việt mà còn là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật
giáo trong lĩnh vực này. Và về hội họa: Mái chùa cổ kính giữa núi non tĩnh mịch
hay các lễ hội viếng chùa ngày đầu xuân hoặc tư tưởng độc đáo của thiền học Phật
giáo luôn là đề tài cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ. Tiêu biểu của nghệ thuật
tạo hình có các tác phẩm như chùa Một Cột, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở
Chùa Hạ (Vĩnh Phú, Bắc Việt, cao 3,2m), tác phẩm "chùa Thầy" của Nguyễn Gia
Trí (1938), "Lễ Chùa" của Nguyễn Siêu,...
4.6.
Ảnh hưởng Phật Giáo trong đời sống người bình dân và giới trí thức
Việt Nam
Lúc sơ khởi người Việt Nam tín ngưỡng và tôn thờ tất cả sức mạnh hữu hình
hay vô hình mà họ cho là có thể giúp đỡ họ hoặc làm hại đến họ như mây, mưa,
sấm, sét, lửa, gió.. Trong bối cảnh tín ngưỡng đa thần này, Phật Giáo đã xuất hiện

và nhanh chóng quá thân qua hình ảnh của bộ tượng Tứ Pháp ở chùa Dâu, ngôi
chùa Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam ở Luy Lâu (Hà Bắc ngày nay), đó là bộ
tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điễn, một hình ảnh sống động, gần
gũi với người dân trong việc cầu xin phước lộc, cầu đảo, cầu siêu, cầu xin tất cả
những gì mà cuộc sống con người đòi hỏi. Người Phật tử trong thời kỳ sơ khai này
quan niệm rằng Phật là đấng cứu thế, có thể ban cho con người mọi điều tốt lành.
Chùa làng đã từng một thời đóng vai trò trung tâm văn hóa tinh thần của cộng
đồng làng xã Việt Nam, chùa không những là nơi giảng đạo cầu kinh, thờ cúng Phật
mà còn là nơi hội họp, di dưỡng tinh thần, tham quan vãn cảnh.
Nhìn chung không khó khăn gì khi ta đi tìm dấu ấn Phật Giáo trong quan niệm
dân gian và ta có thể phát hiện rằng nếu không có sự hiện diện của Phật Giáo ở Việt
Nam thì ta sẽ mất đi hơn một nữa di tích và danh lam thắng cảnh mà hiện nay ta tự
hào, sẽ không có chùa Hương rộn ràng, nhộn nhịp sầm uất trong ngày trẩy hội đầu
xuân, không có chùa Keo bề thế, không có chùa Thiên Mụ soi mình trên dòng sông
Hương. Và cũng không có những chuyện dân gian đầy tính nhân bản như truyện
Tấm Cám, truyện Quan Âm Thị Kính…. Sẽ không có những lễ hội tưng bừng như
hội Lim, hội Chùa Hương…. và trong tâm tư truyền thống cũng vắng tư tưởng bố
22


Phật giáo

thí vị tha, lòng hưởng thiện và niềm tin vững chắc vào một tương lai sáng sủa, vắng
tinh thần lạc quan ngây thơ của người dân Việt.

23


Phật giáo


KẾT LUẬN
Đạo Phật là một hệ thống tư tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp.
Tất cả giáo lý Phật là nền tảng cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống
vị tha là lý tưởng cao quý nhất của đời mình. Những tư tưởng triết học của Phật
Giáo đã từng tỏa sáng đến nhiều quốc gia trên thế giới. Phật Giáo từ lâu đã thâm
nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam, nó đã trở thành bản
chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Cùng với sự phát triển của đất nước Phật
Giáo đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam nhiều thành tựu đáng kể về kinh tế, chính
trị, văn hóa nghệ thuật điêu khắc...tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình hội nhập vào trào lưu phát triển của thế
giới, để tiếp thu và học tập những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại, để nhanh
chóng hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Điều đó sẽ
dẫn đến sự du nhập nhiều luồng văn hóa ngoại lai có cái tốt, cái xấu. Làm sao
chúng ta có thể phân biệt và tiếp thu cái tốt và giải trừ cái xấu để tiếp tục phát huy
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam. Đây đã trở thành một
vấn đề của quốc gia chứ không phải chỉ là chuyện cá nhân hay riêng tư nữa. Và nếu
chúng ta có một nền văn hóa lành mạnh; đậm đà bản sắc dân tộc với những tư
tưởng truyền thống tốt đẹp sẽ giúp chúng ta nhận định, chắt lọc và cũng là liều
thuốc tốt nhất giúp chúng ta chống lại những mặt tiêu cực văn hóa ngoại nhập hoặc
văn hóa mê tín phát sinh từ bản địa. Những yếu tố tích cực của Phật Giáo là Phật
giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến đời sống tinh thần của người Việt Nam một
phần ảnh hưởng văn hóa Việt Nam sẽ cùng với văn hóa dân tộc Việt Nam làm
nhiệm vụ chọn lọc và phát triển văn hóa Phật Giáo và văn hóa dân tộc Việt Nam
trong thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.

 HẾT 

24




×