Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (3 4 tuổi) trường mầm non ánh sao, xã chiềng pằn huyện yên châu tỉnh sơn la qua tổ chức hoạt động kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

HÀ THỊ DUNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ 3 - 4 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON ÁNH SAO,
XÃ CHIỀNG PẰN - HUYỆN YÊN CHÂU - TỈNH SƠN LA
QUA HOẠT ĐỘNG KỂ TRUYỆN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

HÀ THỊ DUNG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ 3 - 4 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON ÁNH SAO,
XÃ CHIỀNG PẰN - HUYỆN YÊN CHÂU - TỈNH SƠN LA
QUA HOẠT ĐỘNG KỂ TRUYỆN

Chuyên ngành: Khoa học giáo dục

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thùy Dung

SƠN LA, NĂM 2016




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Nguyễn Thùy Dung Người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đến
khi khóa luận hoàn thành và được Hội đồng khoa học nghiệm thu.
Xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong khoa Tiểu học Mầm non Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện giúp đỡ và đóng góp ý kiến cho khóa
luận của tôi được thực hiện thành công.
Xin cảm ơn các cô giáo và các cháu mẫu giáo 3 - 4 tuổi Trường Mầm
non Ánh Sao - Xã Chiềng Pằn - Huyện Yên Châu - Tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện
giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa luận đúng thời gian
Sơn La, Tháng 5 năm 2016
Tác giả khóa luận
Hà Thị Dung


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NXB

: Nhà xuất bản

NXBQG

: Nhà xuất bản quốc gia

NXBGD

: Nhà xuất bản giáo dục

NXBĐHQG


: Nhà xuất bản Đại học quốc gia

NXBĐHSP

: Nhà xuất bản Đại học sư phạm

ĐHSP

: Đại học sư phạm

CĐSP

: Cao đẳng sư phạm

TCSP

: Trung cấp sư phạm

ĐVTCĐ

: Đóng vai theo chủ đề

VD

: Ví dụ



: Mức độ


TC

: Tiêu chí

G

: Giỏi

K

: Khá

TB

: Trung bình

Y

: Yếu


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 4
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 4
7. Những đóng góp của đề tài ............................................................................... 5

8. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 5
9. Cấu trúc của đề tài ............................................................................................. 6
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................... 7
1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm, chức năng, vai trò của ngôn ngữ ............................................. 7
1.1.2. Khái niệm, phân loại, vai trò của kể chuyện ............................................. 12
1.1.3. Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) ........................... 19
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 25
1.2.1. Mục đích khảo sát ..................................................................................... 25
1.2.2. Đối tượng khảo sát .................................................................................... 25
1.2.3. Thời gian khảo sát ..................................................................................... 25
1.2.4. Phương pháp khảo sát ............................................................................... 26
1.2.5. Xây dựng các tiêu chí đánh giá việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ MGB
thông qua hoạt động kể chuyện ........................................................................... 26
1.2.6. Phân tích kết quả điều tra .......................................................................... 26
1.2.7. Những nhận xét từ khảo sát....................................................................... 32
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 33
CHƯƠNG 2 : MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CHO
TRẺ 3 - 4 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KỂ CHUYỆN .................... 34
2.1. Đặc điểm vốn từ và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo (3-4 tuổi) . 34


2.1.1. Đặc điểm vốn từ của trẻ mẫu giáo (3-4 tuổi) ............................................ 34
2.1.2. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo (3-4 tuổi) .................................. 34
2.1.3. Đặc điểm về khả năng kể chuyện của trẻ mẫu giáo (3-4 tuổi).................. 35
2.2. Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (3-4 tuổi) thông qua hoạt động
kể chuyện............................................................................................................. 36
2.2.1. Sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ kể chuyện ...................................... 36
2.2.2 Kể chuyện diễn cảm ................................................................................... 43

2.2.3. Sử dụng phương pháp đàm thoại .............................................................. 46
2.2.4. Sử dụng phương pháp giảng giải .............................................................. 49
2.2.5. Sử dụng hình thức đóng kịch phân vai các nhân vật ................................ 50
2.2.6. Dạy trẻ tự kể lại truyện.............................................................................. 54
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 57
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................... 58
3.1. Mục đích thể nghiệm .................................................................................... 58
3.2. Đối tượng thể nghiệm................................................................................... 58
3.3. Thời gian thể nghiệm ................................................................................... 58
3.4. Nội dung thể nghiệm .................................................................................... 58
3.5. Tổ chức thể nghiệm ...................................................................................... 58
3.6. Chuẩn bị thể nghiệm .................................................................................... 59
3.7. Phân tích kết quả thực nghiệm ..................................................................... 59
3.8. Nhận xét quá trình thực nghiệm ................................................................... 63
3.9. Mẫu thể nghiệm............................................................................................ 63
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 65
1. Kết luận ........................................................................................................... 65
2. Kiến nghị ......................................................................................................... 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….67
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng trong đời sống con người. Nhờ
ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho
nhau những kinh nghiệm. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt. Nó là
phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của các thành viên trong xã hội loài
người. Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy nghĩ, là công cụ của tư duy. Vốn

từ ngữ của cá nhân phản ánh năng lực tư duy, năng lực trí tuệ của cá nhân đó.
Chính vốn từ đã mở rộng tầm hiểu biết của cá nhân đó.
1.2. Nhu cầu nhận thức của trẻ tăng dần theo lứa tuổi, để đáp ứng nhu
cầu chính đáng đó thì những người trực tiếp quản lí và giáo dục trẻ phải luôn
làm mới kiến thức và mở rộng kho tàng tri thức cho trẻ. Để thực hiện được điều
đó đối với đối tượng chưa có khả năng đọc thì phải thông qua lời kể của người
lớn, thông qua các tác phẩm văn học, có kết hợp hình ảnh trực quan. Trẻ có nhu
cầu rất lớn trong nhận thức thế giới xung quanh. Khi đã có một vốn ngôn ngữ
nhất định, trẻ sử dụng ngôn ngữ làm phương tiện biểu hiện nhận thức của mình.
Thông qua ngôn ngữ, trẻ nhận thức được về thế giới xung quanh một cách sâu
rộng, rõ ràng và chính xác. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực, sáng tạo trong hoạt động
trí tuệ. Chính vì vậy, trong công tác giáo dục thế hệ măng non của đất nước,
chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối việc giáo dục trẻ nhỏ. Ngôn ngữ
đã góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện.
1.3. Trẻ lứa tuổi mầm non xuất hiện nhu cầu dùng ngôn ngữ để biểu đạt
thái độ, tình cảm một cách sinh động và truyền cảm. Trẻ đã biết sử dụng ngữ âm
và ngữ điệu khi biểu đạt cảm xúc khi đọc một bài thơ hay kể một câu chuyện.
Vốn từ trẻ mẫu giáo bé tích lũy được khá phong phú không chỉ về danh từ mà
còn về tính từ, động từ… trẻ nắm được vốn từ trong tiếng mẹ đẻ đủ để diễn đạt
các mặt trong đời sống hàng ngày. Nhu cầu đó vừa phản ánh sự phát triển về
ngôn ngữ của trẻ vừa cho thấy khả năng có thể tác động, rèn luyện cho trẻ cách
1


nói tiếng Việt thông qua các tác phẩm thơ, truyện. Phát triển tính linh hoạt, tính
nghệ thuật trong ngôn ngữ nói của trẻ em lứa tuổi 3 - 4 tuổi là một nhiệm vụ cực kì
quan trọng của người giáo viên mầm non. Nhiệm vụ này được thực hiện thông qua
nhiều hình thức dạy học, nhưng chủ yếu nhất và cũng đạt hiệu quả cao nhất là hình
thức cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm truyện qua hoạt động kể chuyện.
1.4. Trong nhà trường mầm non, việc cho trẻ làm quen với tác phẩm văn

học có vị trí quan trọng trong tất cả các môn học. Thông qua hoạt động kể giúp
trẻ phát triển về ngôn ngữ một cách tốt nhất và sâu sắc nhất. Kể chuyện giúp trẻ
tiếp cận cái hay, cái đẹp trong tiếng nói dân tộc từ đó làm giàu và bổ sung một
số lượng lớn vốn từ cho trẻ, làm giàu cảm xúc của trẻ, phát triển trí tưởng
tượng, giúp trẻ khám phá những điều mới lạ xung quanh.
Chính vì những lí do trên, bằng sự tìm hiểu và tâm huyết của mình, đồng
thời dựa trên những tiếp thu, học hỏi những thành tựu nghiên cứu thành công
khác, tôi mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ (3 - 4 tuổi) trường Mầm non Ánh Sao, xã Chiềng Pằn Huyện Yên Châu - Tỉnh Sơn La qua tổ chức hoạt động kể chuyện”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của nhân loại. Nó đi lên và phát triển cùng
xã hội loài người. Nó luôn đồng hành cùng với con người, là phương tiện để
giao tiếp với con người, tồn tại bên trong xã hội loài người. Ngôn ngữ là kho
tàng trí tuệ của loài người, nó chứa đựng và làm sống lại những thành tựu to lớn
do xã hội loài người xây dựng lên, là tượng đài đầy giá trị của nền văn minh
nhân loại.
Vai trò của ngôn ngữ đã có nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước
nghiên cứu. Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ được nghiên cứu kĩ lưỡng
ở Liên Xô cũ với nhiều nhà sư phạm cùng nhiều công trình có tính khoa học,
hiệu quả cao. Hay tác giả Chilshieva là một tác giả có uy tín trong lĩnh vực
nghiên cứu về phát triển ngôn ngữ ở trẻ mẫu giáo. Và còn nhiều tác giả cũng

2


nghiên cứu về lĩnh vực này. Những nghiên cứu tuy khác nhau về phương pháp
nhưng tìm hiểu về một vấn đề chung là ngôn ngữ:
Lý thuyết về các giai đoạn hình thành trí tuệ của P.La_Ganperin, I.M
Veseenốp, Piegiê, Vuwgôtsky... đã có những nghiên cứu lí tưởng về tâm lí ngôn
ngữ, về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ thơ.

Ở Việt Nam cũng có những nghiên cứu:
Trong “Văn học thiếu nhi với giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non’’ của tác
giả Lã Thị Bắc Lý, NXB ĐHSP (2008) dựa trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tiếp
nhận văn học của trẻ mầm non để khẳng định vai trò quan trọng của văn học đối
việc giáo dục trẻ một cách toàn diện. Theo đó các tác phẩm truyện tham gia tích
cực vào phát triển các lĩnh vực phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, phát
triển tình cảm xã hội, phát triển thẩm mỹ và phát triển thể chất cho trẻ là cần
thiết và có ý nghĩa.
Hoàng Thị Hồng Mát - Dạy trẻ 5 - 6 tuổi kể chuyện sáng tạo nhằm phát
triển ngôn ngữ mạch lạc.
Tạ Thị Thanh Ngọc với tác phẩm “Dạy trẻ phát âm đúng và làm giàu vốn
từ cho trẻ”.
Phạm Thị Phú và Lê Thị Ánh Tuyết với “Phương pháp làm quen với văn
học ở mẫu giáo”.
Gần đây vấn đề giúp trẻ mẫu giáo tiếp nhận văn học cũng được nhiều
sinh viên quan tâm: Nguyễn Thị Kim Anh - K45 Đại học Giáo dục Mầm non,
Đại học Tây Bắc (2008) với khóa luận “Nâng cao chất lượng hoạt động cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học lứa tuổi 5 - 6 tuổi”…
Các khóa luận này trên nhiều góc độ khác nhau đã nêu ảnh hưởng to lớn
của văn học đến sự hình thành, phát triển nhân cách của trẻ mầm non cũng như
tầm quan trọng của việc giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và khả năng cảm thụ văn
học qua các câu chuyện, bài thơ của lứa tuổi mầm non.
Những công trình nghiên cứu này đã dựa vào đặc điểm phát triển tâm
sinh lí và ngôn ngữ của trẻ. Đó là những đóng góp vĩ đại trên các phương diện lí
3


luận và thực tiễn. Song nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung và việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động kể chuyện nói riêng vẫn còn
chưa nhiều, gần như chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn

đề này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu:
Thực trạng nhận thức của giáo viên ở trường Mầm non Ánh Sao, xã
Chiềng Pằn - Huyện Yên Châu - Tỉnh Sơn La trong việc tổ chức hoạt động kể
chuyện cho đối tượng trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi).
Qua khảo sát thực tiễn và tìm hiểu cơ sở lí luận chúng tôi đã đề xuất một
số biện pháp nhằm phát triển ngôn ngữ thông qua tổ chức hoạt động kể chuyện
cho trẻ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số đề tài nghiên cứu khoa học và thực tiễn có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
- Xây dựng một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) kể chuyện
nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Tổ chức thực nghiệm để khẳng định tính khả thi của các biện pháp phát
triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) qua hoạt động tổ chức kể chuyện mà
đề tài nghiên cứu.
- Xử lí kết quả nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Địa bàn nghiên cứu
Trường mầm non Ánh Sao, xã Chiềng Pằn - huyện Yên Châu - tỉnh Sơn La.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Nhóm trẻ 3 - 4 tuổi của trường mầm non Ánh Sao, xã Chiềng Pằn huyện Yên Châu - tỉnh Sơn La.
2 lớp = 50 cháu.

4


5.3. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) qua tổ chức hoạt

động kể chuyện nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1.Phương pháp nghiên cứu lí luận: Thu thập và phân tích dữ liệu, sách
báo, tạp chí,... có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lí luận cho đề.
6.2. Phương pháp khảo sát bằng phiếu anket: Nhằm tìm hiểu thực trạng
về việc dạy ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) qua hoạt động tổ chức kể
chuyện, thực trạng hiệu quả của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua các
biện pháp đề xuất.
6.3. Phương pháp quan sát: Quan sát và ghi chép việc sử dụng các biện pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) qua tổ chức hoạt động kể chuyện.
6.4. Phương pháp thống kê toán học: Dùng phương pháp thống kê xử lí
số liệu thu được.
6.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Tác động vào nhóm thực nghiệm 6 biện pháp phát triển ngôn ngữ đã
được đề xuất và soạn giảng theo giáo án nhằm kiểm tra tính khả thi của các biện
pháp này.
7. Những đóng góp của đề tài
Khóa luận được nghiệm thu sẽ bổ sung thêm biện pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) thông qua hoạt động kể chuyện.
Khóa luận còn làm tài liệu tham khảo về công tác nghiên cứu khoa học về
ngôn ngữ ở lứa tuổi mẫu giáo cho sinh viên khoa Tiểu học - Mầm non trường Đại
hoc Tây Bắc nói riêng và những độc giả quan tâm đến vấn đề này nói chung.
Đề xuất và vận dụng được một số phương pháp giúp trẻ mẫu giáo (3 - 4
tuổi) phát triển ngôn ngữ qua tổ chức hoạt động kể chuyện.
8. Giả thuyết khoa học
Trên thực tế, tại các trường mầm non, việc chú trọng phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) thông qua hoạt động kể chuyện chưa được
5



quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng chất lượng của việc tiếp nhận tác
phẩm văn học của trẻ mẫu giáo ở độ tuổi này chưa cao. Nếu biện pháp tôi đề
xuất trong khóa luận nghiên cứu này được ứng dụng thì sẽ góp phần phát
triển ngôn ngữ, hiệu quả của việc kể chuyện cho trẻ nghe và dạy trẻ kể
chuyện đồng thời nâng cao chất lượng hiệu quả của việc tiếp xúc, làm quen
với tác phẩm văn học của trẻ.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục tài liệu tham khảo, nội dung
của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Trong chương này tôi đề cập tới những cơ sở lý luận về ngôn ngữ, truyện
kể và đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi). Đồng thời, nghiên
cứu và đánh giá những số liệu thu được nhằm biết rõ về thực trạng phát triển
ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) qua các tiêu chí cụ thể.
Chương 2: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm
non Ánh Sao, xã Chiềng Pằn - huyện Yên Châu - tỉnh Sơn La qua tổ chức hoạt
động kể chuyện.
Trên cơ sở lý luận thực tiễn chúng tôi đề xuất được 6 phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi) thông qua hoạt động kể chuyện.
Chương 3: Thể nghiệm.
Trong chương này tôi thiết kế giáo án và tiến hành giảng dạy, sau đó xử
lý số liệu, vẽ biểu đồ thể hiện tính khả thi của các phương pháp được đề xuất.

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm, chức năng, vai trò của ngôn ngữ

1.1.1.1. Khái niệm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ bản và
quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng người. Ngôn ngữ đồng thời
là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa lịch sử từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
Ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ trở thành
những con người phát triển toàn diện. Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi sự suy
nghĩ và là công cụ của mọi tư duy. Trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc nhận
thức thế giới xung quanh. Trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng trẻ phải
dùng lời nói để nói lên những suy nghĩ cũng như cảm tưởng của mình về những
vấn đề đó.
1.1.1.2. Chức năng của ngôn ngữ
Một trong những chức năng quan trọng nhất của ngôn ngữ là nó được
làm phương tiện chính cho sự tồn tại, truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm
lịch sử xã hội của toàn nhân loại cũng như của từng cộng đồng người. Những
kinh nghiệm lịch sử xã hội được đọng lại (chứa đựng) trong các công cụ lao
động, đối tượng lao động, trong các chuẩn mực hành vi của các mối quan hệ qua
lại giữa con người với nhau… phần lớn được ghi lại để truyền bá cho thế hệ sau
nhờ ngôn ngữ. Thoạt tiên, đứa trẻ không thể tự nhận thức được thế giới, nó
thường đặt nhiều câu hỏi cho bố mẹ và những người xung quanh. Nhờ những
câu trả lời, giải thích… của người lớn mà trẻ nhận thức được một phần tri thức
chung, trẻ tiếp tục sử dụng trong quá trình hoạt động của mình. Những tri thức
mà trẻ chiếm lĩnh được trong đời sống hằng ngày cũng như thông qua dạy học,
giáo dục cũng được giữ lại dưới dạng ngôn ngữ. Như vậy, hoạt đông ngôn ngữ
có tác dụng xã hội hóa phản ánh của mỗi cá nhân và làm cho nó trở thành có ý
7


nghĩa. Chức năng cơ bản thứ hai của ngôn ngữ là nó được dùng làm phương tiện
chính để giao lưu và điều chỉnh hành vi của con người.

Trong cuộc sống của con người nhiều khi con người trao đổi thông tin
với nhau không chỉ nhằm mục đích truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội
lịch sử và bản thân, thông tin đó cũng không phải là đơn vị tri thức được đưa
vào nhà trường. Song những trao đổi như vậy lại rất cần cho sự định hướng hoạt
động của con người trong mỗi thời điểm hay một tình huống nhất định. Và chính
trong những điều kiện này, con người không có cách nào khác là phải dùng
phương tiện ngôn ngữ. Ở đây cơ chế hoạt động diễn ra như sau:
Khái quát hóa nội dung những điều phản ánh nhằm lập ra được “chương
trình”của lời nói và tìm được từ tương ứng.
Khớp nối chương trình đó vào cơ cấu ngữ pháp tương ứng làm thành các
đoạn, mệnh đề câu.
Chuyển các câu đó vào hoạt động vận dụng tương ứng nói ra hoặc viết ra
hoặc nghĩ thầm.
Chức năng cơ bản thứ ba của ngôn ngữ là nó được dùng làm công cụ của
hoạt động trí tuệ, có chức năng thiết lập và giải quyết các hoạt động trí tuệ của
con người. Nó bao gồm cả việc kế hoạch hóa hoạt động, thực hiện hoạt động và
đối chiếu kết quả hoạt động với mục đích đã đặt ra. Nhờ có ngôn ngữ mà con
người có thể lập ra kế hoạch, định ra mục đích cần đạt tới trước khi tiến hành bất
cứ một công việc gì và kể cả trong khi tiến hành công việc, hoạt động nhận thức
(cảm tính, lí tính). Nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể tổ chức, hướng dẫn,
điều khiển, điều chỉnh được hoạt động lao động chân tay của mình. Điều đó đem
lại cho con người những thành tựu vĩ đại khác xa về chất so với động vật đó là
hành động có ý thức. Ba chức năng cơ bản nói trên của ngôn ngữ có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Dưới một góc độ nào đó, chúng ta có thể quy chúng về một
chức năng là giao lưu (giao tiếp). Hơn nữa, nếu xét vai trò của ngôn ngữ như một
công cụ của hoạt động trí tuệ thì chính công cụ này cũng biểu hiện như một hoạt
động giao lưu với bản thân mà thôi (độc thoại). Mặt khác công cụ đó cũng được
8



bộc lộ như một hoạt động điều chỉnh hành vi và hành động của con người.
1.1.1.3. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người, nhờ có ngôn
ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau
những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những điều thầm kín…
Trong công tác giáo dục thế hệ mầm non cho đất nước chúng ta càng
thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ. Ngôn ngữ đã góp
phần đào tạo các em trở thành con người hoàn thiện.
a. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển trí tuệ
U. Sinxki đã nhận định “tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển, là
vốn quý của mọi tri thức”(phát triển ngôn ngữ. Nguyên bản tiếng Nga. NXB
Matxcơva, tr.3)
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ. Trước hết,
ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh. Song sự lĩnh
hội những tri thức đó lại không thể thực hiện được khi không có ngôn ngữ.
Ngôn ngữ chính là cơ sở của mọi suy nghĩ và công cụ của tư duy. Trẻ em
có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh, trong quá trình
nhận thức những sự vật hiện tượng, muốn cho các cháu phân biệt các vật này
với vật khác, biết được tên gọi, hình dạng, công dụng, và những thuộc tính cơ
bản của vật, nếu chỉ cho các cháu xem xét mà không dùng từ ngữ để giải thích,
hướng dẫn và khẳng định những kết quả đã quan sát được thì những tri thức mà
các cháu thu được đó nhất định sẽ hời hợt, nông cạn, có khi còn sai lệch hẳn.
Trong khi nhận thức các sự vật đó, trẻ phải dùng từ để gọi tên sự vật, tên các chi
tiết, đặc điểm, tính chất, công dụng của sự vật, từ đó trẻ biết phân biệt sự vật này
với sự vật khác.
Khi đứa trẻ đã lớn nhận thức của trẻ phát triển. Trẻ không chỉ nhận thức
những sự vật, hiện tượng trẻ không trực tiếp nhìn thấy. Trẻ muốn biết cả về quá
khứ cả về tương lai: trẻ muốn biết cả công việc của người lớn, của bố mẹ, của
Bác Hồ, của chú bộ đội… Để đáp ững ngững nhu cầu đó trẻ không có cách nào
9



khác là thông qua lời kể của người lớn, thông qua tác phẩm văn học… có kết
hợp với hình ảnh trực quan.
Khi đã có một vốn ngôn ngữ nhất định trẻ sử dụng ngôn ngữ như một
biểu hiện nhận thức của mình. Trẻ có thể dùng lời để diễn đạt những suy nghĩ,
những cảm xúc của mình. Trẻ hiểu được chỉ dẫn của người lớn, của cô giáo thì
các hoạt động trí tuệ, các thao tác tư duy của trẻ được chính xác, kích thích trẻ
tích cực hoạt động, kích thích trẻ nói và sự hiểu biết của trẻ ngày càng được
nâng lên.
Trẻ còn dùng ngôn ngữ để đặt ra muôn vàn câu hỏi, yêu cầu, nguyện
vọng, thể hiện biết bao thái độ, tình cảm yêu, ghét,… Biểu hiện bằng ngôn ngữ
giúp cho nhận thức của trẻ được sâu sắc hơn, tạo điều kiện cho trẻ được sống
trong môi trường có các hoạt động giao tiếp sẽ giúp trẻ nảy sinh những suy nghĩ
sáng tạo mới. Vì vậy trong trường mầm non, khi cho trẻ tiến hành các hoạt động
vui chơi, lao động, học tập, ... cần tạo điều kiện kích thích trẻ nói.
Rõ ràng ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục trí tuệ cho
trẻ. Thông qua ngôn ngữ giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh một cách sâu,
rộng, rõ ràng, chính xác. Ngôn ngữ giúp trẻ tích cực sáng tạo trong hoạt động trí
tuệ, vì vậy việc phát triển trí tuệ không tách rời việc phát triển ngôn ngữ.
b. Vai trò ngôn ngữ đối với việc giáo dục đạo đức
Ở lứa tuổi mầm non, đặc biệt là tuổi mẫu giáo, các cháu bắt đầu hiểu biết
và lĩnh hội những khái niệm, những quy tắc, những chuẩn mực đạo đức của xã
hội. Tuy mới chỉ là những khái niệm ban đầu nhưng lại vô cùng quan trọng, có
tính chất quyết định những nét tính cách riêng biệt của mỗi con người trong
tương lai. Muốn cho các cháu hiểu, và lĩnh hội những khái niệm đạo đức này,
chúng ta không thể thông qua những hoạt động cụ thể hoặc qua những sự vật
hiện tượng trực quan đơn thuần, mà phải có ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ mà các
cháu có thể hiện được đầy đủ những nhu cầu và nguyện vọng đầy đủ của mình.
Cũng nhờ có ngôn ngữ mà các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục có điều kiện hiểu

con cháu mình hơn, để từ đó có thể uốn nắn, giáo dục và xây dựng cho các cháu
10


những tình cảm và những hành vi đạo đức trong sáng nhất.
c. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thẩm mĩ
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có
hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng đắn cái
đẹp trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, giáo dục trẻ lòng yêu cái đẹp và năng
lực tạo ra cái đẹp.
Thông qua ngôn ngữ trẻ nhận thức được cái đẹp ở thế giới xung quanh,
qua đó làm cho tâm hồn trẻ càng thêm bay bổng, trí tưởng tượng càng phong
phú. Đồng thời trẻ càng yêu quý cái đẹp, trân trọng cái đẹp và có ý thức sáng tạo
ra cái đẹp.
Thông qua ngôn ngữ văn học, trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi và cái đẹp trong cuộc sống.
Có thể khẳng định rằng ngôn ngữ đóng vai trò không nhỏ vào quá trình
giáo dục cho trẻ những tình cảm thẩm mĩ cao đẹp.
d. Vai trò của ngôn ngữ đối với việc phát triển thể lực
Để phát triển thể lực cho trẻ cần kết hợp nhiều phương pháp khác nhau,
trong đó ngôn ngữ góp một vai trò quan trọng đáng kể.
Trong các hoạt động góp phần phát triển thể lực như các trò chơi vận
động, các giờ thể dục, trong chế độ ăn,...giáo viên đều cần dùng đế ngôn ngữ để
hướng dẫn trẻ thực hiện tốt những yêu cầu cần đạt.
Hoạt động nói năng liên quan đến các cơ quan hô hấp, thính giác, bộ máy
phát âm. Quá trình phát âm là quá trình rèn luyện bộ máy cầu âm, rèn luyện
phổi, khí quản và các bộ phận khác của cơ thể.
Để có thể lực tốt cần có một chế độ sinh hoạt hợp lý, ngôn ngữ cũng
tham gia vào quá trình chăm sóc sinh hoạt để trẻ phát triển thể lực.
e. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng và trở thành

thành viên của cộng đồng
Nhờ có lời chỉ dẫn của người lớn trẻ dần hiểu được quy định chung của
cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng phải thực hiện. Trước hết là
11


những nề nếp sinh hoạt của gia đình, nhóm trẻ, trường mầm non. Sau đó là một
số quy định ngoài xã hội. Những điều trẻ có thể được phép làm và những điều
trẻ không thể được làm.
Mặt khác, trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ của mình để bày tỏ nhu cầu,
nguyện vọng của mình với người khác, điều này sẽ giúp trẻ dễ hòa nhập với mọi
người hơn.
Nhờ có ngôn ngữ mà khi thông qua các câu chuyện trẻ sẽ dễ dàng tiếp
thu những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hòa nhập vào xã hội dễ dàng hơn.
Tóm lại, ngôn ngữ có vai trò rất lớn, nó là phương tiện quan trọng nhất
để trẻ lĩnh hội nền văn hóa dân tộc, để trẻ giao lưu với những người xung quanh
từ đó trẻ có thể tiếp thu những nền văn hóa, khoa học, bồi bổ tâm hồn và hình
thành phát triển nhân cách trẻ.
1.1.2. Khái niệm, phân loại, vai trò của kể chuyện
1.1.2.1. Khái niệm
Khái niệm truyện kể: Truyện kể là những tác phẩm nghệ thuật được tác
giả sắp xếp các tình huống và xây dựng hệ thống nhân vật theo dụng ý chủ quan
của tác giả nhưng vẫn đảm bảo các yếu tố khách quan.
Khái niệm kể chuyện: Kể chuyện là một hình thức hoạt động của con
người thông qua một sắc thái giọng của mình và các phương tiện kể biểu cảm
khác nhau làm cho tác phẩm cất lên tiếng nói, tạo cho các tác phẩm một bức
tranh âm thanh tương ứng.
Dạy trẻ kể chuyện: Là dạy trẻ biết sử dụng các phương thức kể chuyện,
kể lại những câu chuyện mà mình đã được nghe, được chứng kiến, được tham
gia qua đó để giáo dục tình cảm đạo đức cho trẻ.

1.1.2.2. Phân loại truyện trong chương trình giáo dục mầm non
a. Truyện cổ tích
Truyện cổ tích là sự đúc kết, khái quát những khát vọng từ xa xưa của
loài người, luôn ước mơ vươn tới một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, thấm đượm
tình yêu thương.
12


Truyện cổ tích mang đậm yếu tố kì ảo, hư ảo, trong truyện luôn có một
đáng siêu nhiên như: bà tiên, ông bụt nhưng có thể chỉ là một cây gậy, hạt dẻ,
cái sọ dừa. Đấng siêu nhiên đó luôn ở mọi nơi mọi chỗ, luôn dõi theo mọi người
để khi cần thì sẽ kịp thời ra tay cứu giúp. Đây chính là yếu tố nhân văn cơ bản
của truyện cổ tích làm cho nó tạo được một sức hấp dẫn bền lâu đối với loài
người, đặc biệt là đối với trẻ thơ. Như chúng ta đều biết trẻ thơ luôn có một tâm
hồn trong sáng, luôn nhạy cảm với cái tốt, cái đẹp, cái cao thượng, có thể nói
rằng truyện cổ tích là một bài học đạo đức có tác động mạnh mẽ và hiệu quả đối
với trẻ thơ.
Ví dụ qua truyện “Thạch Sanh” với những nội dung cốt truyện hấp dẫn,
với những tình tiết diễn biến li kì của truyện nó đã làm nên một sức hút mạnh
mẽ đối với trẻ. Trẻ có thể ngồi nghe một cách tập trung, trẻ luôn dõi theo những
nhân vật, có sự căng thẳng, hồi hộp với những tình tiết “gay cấn”. Trẻ dường
như đang sống trong câu truyện Thạch Sanh. Trẻ cũng muốn trở thành một
người dũng cảm như Thạch Sanh.
b. Truyện đồng thoại
Đồng thoại là thể loại truyện cho trẻ em trong đó loài vật và các vật vô tri
vô giác được nhân cách hóa để tạo nên một thế giới thần kỳ, thích hợp với trí
tưởng tượng của các em.
Bằng những hình tượng ngộ nghĩnh ngây ngô của các con vật, truyện
đồng thoại đã khơi dậy ở trẻ những cảm xúc thú vị, khiến cho trẻ từ một thính
giả thụ động trở thành một người tham gia tích cực vào các sự kiện của các nhân

vật vốn chỉ là cây cỏ, vật vô tri vô giác mà trở thành người bạn thân thiết cùng
vui cùng buồn, cùng sung sướng hồi hộp.
Ví dụ: Truyện “Bồ nông có hiếu” khi bồ nông mẹ không còn kiếm được
mồi cho con thì vạch bụng ra cho con mổ thức ăn trong bụng mình, nó tự
nguyện chết cho đàn con được sống. Khi trẻ nghe câu chuyện này trẻ đã có
những biểu hiện cảm xúc của mình như: có trẻ đã khóc khi bồ nông mẹ chết.

13


Như vậy, có thể nói rằng truyện đồng thoại tác động mạnh mẽ đến đời
sống tình cảm của trẻ, trẻ hòa nhập vào tác phẩm mà quên đi ranh giới giữa hư
và thực.
c. Truyện cười
Truyện cười là truyện kể về những nhân vật, những tình huống đáng
cười, gây cười để phê phán, để đả kích.
Truyện cười có những tình huống gây cười, chính vì thế sẽ tạo cho trẻ có
được tâm trạng vui vẻ, những tiếng cười sảng khoái, không khí lớp học trở nên
vui vẻ.
Ví dụ: Truyện “Lợn cưới áo mới” yếu tố gây cười là người muốn được
mời đi ăn cỗ nên nói dối là đi tìm con lợn cưới, còn người muốn khoe cái áo mới
thì nói rằng”kể từ lúc tôi mặc cái áo mới này không có con lợn cưới nào chạy
qua đây cả”.
d. Truyện lịch sử
Truyện lịch sử là truyện nói về một nhân vật lịch sử được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác.
Qua quá trình kể chuyện trẻ được trẻ sẽ hiểu hơn, sẽ tô điểm giữa quá
khứ và hiện tại, khơi gợi về ý thức giống nòi, giúp trẻ hiểu hơn về lịch sử.
Ví dụ: Truyện “Quả bầu tiên” đã giải thích cho trẻ về nguồn gốc con
người, lịch sử mà loài người xuất hiện. Đồng thời nó còn tác động giáo dục về

tinh thần đoàn kết, ý thức về quan hệ giống nòi.
Như vậy, chúng ta thấy rằng mỗi thể loại truyện đều có những đặc điểm
ý nghĩa giáo dục riêng đối với trẻ. Mỗi trẻ, mỗi độ tuổi đều có những cách dạy
khác nhau. Với trẻ 2 - 3 tuổi thì phải chọn những câu chuyện ngắn, dễ hiểu. Còn
trẻ 3-4 tuổi thì chọn những câu chuyện có nội dung sâu hơn một chút. Ngoài ra
mỗi trẻ còn có tâm lý sở thích khác nhau. Chính vì thế mà giáo viên phải hiểu
được tâm sinh lý để từ đó mà lựa chọn những câu chuyện phù hợp với trẻ.
Thông qua hoạt động kể chuyện bồi dưỡng cho trẻ nhữnng tri thức thông
thường về tự nhiên và đời sống xã hội. Song chức năng cơ bản của môn kể
14


chuyện là kích thích sự linh hoạt của trí tuệ, mở ra một chân trời mới cho trí
tưởng tượng, làm phong phú các hình thức màu sắc của lý tưởng sống đang từng
bước hình thành trong tâm trí trẻ. Những ánh mắt vui tươi, những tiếng cười
sảng khoái, không khí thư giãn thoải mái trong giờ kể chuyện tạo ra sự gần gũi
thông cảm, lòng tin cậy giữa người kể và người nghe đặc biệt giữa cô và trẻ. Kể
chuyện cũng là một biện pháp tốt giúp trẻ rèn luyện thói quen chú ý và đó là
điều kiện cần cho sự tiếp thu tri thức khoa học.
1.1.2.3. Vai trò của kể chuyện trong việc giáo dục trẻ
Kể chuyện có vai trò rất quan trọng đối với đời sống của con người nói
chung và đặc biệt đối với trẻ lứa tuổi mầm non nói riêng. Nó như một món ăn
tinh thần không thể thiếu trong đời sống của trẻ, ngay từ khi mới sinh ra trẻ đã
được các bà, các mẹ,... kể cho nghe những câu chuyện cổ tích những câu chuyện
đời thường... tất cả những điều đó dường như nó đã ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi đứa trẻ, nó nuôi dưỡng tâm hồn và phát triển tình cảm của trẻ. Trước hết
phải nói rằng kể chuyện góp phần thỏa mãn nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ. Và
không chỉ dừng lại ở đó kể chuyện còn có vai trò rất quan trọng, nó là một
phương tiện giáo dục toàn diện đối với sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ.
a. Kể chuyện có tác dụng giáo dục đạo đức

Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch nhằm
trang bị cho trẻ những hiểu biết về những quy tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn cho
trẻ những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành những
phẩm chất đạo đức, những nét tính cách tốt đẹp của con người Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, trẻ thơ rất nhạy cảm và sống bằng tình cảm, dễ
rung động, dễ đặt mình vào hoàn cảnh người khác, dễ thông cảm và bộc lộ thái
độ rõ ràng dứt khoát giữa hai mặt tốt - xấu, vui - buồn, yêu - ghét,... Vì vậy mà
giáo dục đạo đức cho con người phải bắt đầu từ lúc trẻ thơ. Đây được coi là thời
điểm giáo dục thuận lợi và hiệu quả nhất. Trẻ em vốn yêu cái tốt, cái đẹp. Nhờ
sự nắm bắt về các đặc điểm tâm lý này mà các nhà văn đã sáng tác những câu
chuyện phù hợp với trẻ. Đặc biệt là những câu chuyện cổ tích với những yếu tố
15


kì ảo, tình tiết hấp dẫn, chứa đựng những nội dung tư tưởng sâu sắc, đó là những
bài học nhân văn, bài học đạo đức sâu sắc. Trẻ biết được giữa cái xấu và cái tốt,
cái thiện và cái ác, cái đúng và cái sai. Qua tác phẩm truyện kể hình thành tình
cảm đạo đức, trẻ biết ủng hộ bênh vực cái tốt, cái thiện, biết đồng cảm và sót xa
với những nhân vật tốt gặp điều không may, rủi ro, hẩm hiu trong cuộc sống.
Bên cạnh sự đồng cảm với những cái tốt thì trẻ biết phê phán các nhân vật xấu
xa, độc ác.
Ví dụ: Truyện “Cây Khế” sau khi trẻ nghe và tìm hiểu câu chuyện này trẻ
biết được người em là người tốt còn người anh là người xấu xa, ích kỉ. Trẻ yêu
quý người em và ghét người anh. Thông qua câu chuyện này hình thành ở trẻ
những bài học đạo đức đầu tiên như biết thế nào là tốt và như thế nào là xấu.
Như vậy, có thể nói rằng truyện kể là những bài học đạo đức sâu sắc, có
tác động mạnh mẽ và có hiệu quả cao đối với việc giáo dục trẻ thơ. Những câu
chuyện kể hơn bất cứ một bài giảng nào về đạo đức cho dù đó là những bài học
được soạn công phu và sinh động.
Trẻ em chưa hiểu được khái niệm đạo đức mà chúng ta muốn hình thành

cho chúng qua con đường giảng giải, nhưng chúng lại dễ dàng tiếp nhận điều đó
thông qua câu chuyện và điều đó sẽ trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn nếu ta biết
biến nó thành trò chơi thông qua các câu chuyện kể. Chính vì thế mà người giáo
viên mầm non cần phải có nghiệp vụ sư phạm tốt, biết cách lựa chọn những tác
phẩm truyện kể phù hợp với tâm, sinh lý của trẻ. Cô phải tự trau dồi khả năng kể
chuyện của mình. Cô cần phải kể chuyện với ngôn ngữ giản dị, truyền cảm, có
như vậy mới thu hút được sự chú ý của trẻ, từ việc gây được sự thu hút đó của
trẻ mà giáo dục đạo đức cho trẻ được dễ dàng hơn.
b. Kể chuyện trong việc giáo dục trí tuệ cho trẻ
Trẻ luôn khao khát nhận thức, khám phá thế giới hiện thực xung quanh.
Thế giới xuất hiện trước mắt trẻ thơ với toàn bộ sự phong phú và phức tạp của
nó. Trong điều kiện ấy, ngoài ca dao, thơ thì truyện kể cũng là bài học đầu tiên
giúp trẻ nhận thức thế giới, chính xác hóa biểu tượng đã có về biểu hiện thực tế
16


xã hội và nó dần dần từng bước cung cấp cho trẻ những khái niệm mới và mở
rộng kinh nghiệm sống.
Theo H. Read một đại diện lớn của nền giáo dục Anh nhận định rằng:
“Mục đích của giáo dục thông qua tác phẩm nghệ thuật chính là khả năng nhận
thức mới liên hệ trong thế giới”.
Ví dụ: Truyện “Chú đỗ con” của Viết Linh đã giúp trẻ có những kiến
thức về khoa học, trẻ sẽ biết được quá trình nảy mầm của hạt thành cây dưới
mưa xuân và ánh nắng mặt trời.
Hay câu chuyện Trăng thức giải thích cho trẻ hiểu những hiện tượng
thiên nhiên về hôm trăng tròn, trăng khuyết, chu kì xuất hiện của trăng.
Hay trong đồng thoại “Mắt Diếc đỏ hoe” của Võ Quảng đã giải thích cho
trẻ thấy về đôi mắt đỏ hoe của con cá Giếc là do quá xấu hổ vì thói lười biếng
không chịu luyện tập, đến khi gặp nguy hiểm, không thể cứu lấy mình còn cá Rô
có những chấm lốm đốm là do Rô chăm chỉ tập luyện và là hoa mà các bạn rải

lên người Rô để tỏ lòng cảm phục sau khi đến dòng nước mát. Đó là giải thích
bằng hình tượng văn học sống động nó khác hẳn với những bài học sinh học khô
cứng mà vẫn đảm bảo cung cấp tri thức cho trẻ một cách chính xác. Từ đó giúp
trẻ có thêm những nhận thức về thế giới xung quanh, đó là môi trường tự nhiên,
con người và cuộc sống. Mặt khác còn phát triển khả năng quan sát, óc tư duy,
sự chú ý, khả năng sáng tạo. Trẻ ghi nhận, lĩnh hội những tri thức đó và biến nó
thành nhận thức của mình.
M.Goocki đã nói: “Tôi không thích những người thông minh mà không
có xúc cảm, những người đó thường độc ác và độc ác một cách hèn hạ”. Chính
vì vậy, muốn giáo dục trẻ ta cần phải biết kết hợp giữa đạo đức với trí tuệ thì
mới có thể khai thác tâm hồn trẻ. Bởi nếu trẻ chỉ cảm nhận giá trị của cuộc sống
nhưng lại không biết cách ứng xử, hành động thì sự phát triển của trẻ không toàn
diện. Bác đã nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không
có tài thì làm việc gì cũng khó”.

17


Như vậy, thông qua những giờ kể chuyện ngoài việc cung cấp tri thức
cho trẻ thì giáo viên cần phải kết hợp với việc giáo dục đạo dức để giúp trẻ có
thể phát triển một cách toàn diện.
c. Kể chuyện trong việc giáo dục thẩm mỹ
Đối với mỗi người nhu cầu về cái đẹp là nhu cầu có tính bản chất, nó gắn
với quá trình phát triển thể chất tinh thần.
Nhà văn Nga Dostoevsky đã có câu nói: “Cái đẹp sẽ cứu thế giới”. Vì thế
giáo dục thẩm mĩ đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của quá trình cho trẻ làm
quen với tác phẩm văn học.
Qua quá trình tiếp xúc với văn học nói chung và truyện kể nói riêng, trẻ
em sẽ hình thành những xúc cảm thẩm mĩ, tình cảm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ.
Thông qua những câu truyện kể trẻ biết và cảm nhận được vẻ đẹp của thế giới

xung quanh mình, đó là vẻ đẹp của con vật, đồ vật,... Chúng ta sẽ thấy điều đó
qua những câu chuyện kể cho trẻ như: Quạ và công, Tấm Cám,...
VD: Trong truyện “Gấu con bị đau răng” nói về một bạn Gấu lười đánh
răng sau khi ăn bánh kẹo xong cậu nhảy lên giường đi ngủ. Gấu con đã bị những
con sâu răng gặm, cạy, đục khoét những chiếc răng bám đầy bánh kẹo. Gấu ta
gào thảm thiết vì nhau nhức răng. Qua câu chuyện giáo dục trẻ phải biết đánh
răng trước khi đi ngủ và mỗi sáng hàng ngày, biết chăm sóc bản thân như vậy
mới khỏe mạnh không bị ốm đau.
d. Kể chuyện trong việc phát triển ngôn ngữ
Kể chuyện không chỉ là một phương tiện hiệu quả mạnh mẽ trong việc
giáo dục trí tuệ, đạo đức, thẩm mĩ mà nó còn ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ. Nhà văn M.Goocki đã khẳng định “Văn học là nghệ
thuật của ngôn từ”. Ngôn từ là chất liệu để xây dựng lên hình tượng văn học.
Các hình tượng làm phong phú thêm xúc cảm, tình cảm đem đến cho trẻ những
hình tượng tuyệt diệu của ngôn từ dân tộc. Từ những hình tượng trong truyện trẻ
nhận thức được tính rõ ràng, chính xác của từ, sự hoàn hảo của câu với cấu trúc

18


ngữ pháp phong phú. Những câu chuyện cổ dân gian là sự mẫu mực của ngôn
ngữ giản dị, có nhịp điệu nó mở ra trước mắt trẻ sự biểu cảm ngôn ngữ.
Kể chuyện giúp trẻ rèn kỹ năng nghe nói, phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Ngôn ngữ mạch lạc là phương tiện vạn năng, đặc sắc, trọn vẹn và có hiệu quả giao
tiếp có văn hóa. Chúng ta đều biết rằng các tác phẩm truyện kể vốn là các văn bản
nghệ thuật, văn bản thẩm mĩ chứa đựng những nội dung, tư tưởng, chủ đề nhất định
và nó được diễn đạt bằng ngôn ngữ hàm xúc, giàu hình ảnh, giàu sức biểu cảm,
sinh động. Tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật ở trẻ nảy sinh thái độ sáng tạo ngôn
ngữ, sáng tạo trong biểu cảm lời nói, ý thức lời hay ý đẹp, hứng thú sáng tạo ra
những câu chuyện sáng tạo, hình thành ở trẻ phong cách sống.

Qua tác phẩm truyện kể trẻ không chỉ học được tiếng mẹ đẻ mà trẻ còn
thấy được sự phong phú của tiếng việt.
Trên thực tế chúng ta có thể thấy rằng những đứa trẻ nếu ít tiếp xúc với
tác phẩm văn học, tác phẩm thơ thì trong ngôn ngữ của trẻ ít xuất hiện ngôn ngữ
mang tính nghệ thuật. Ngược lại khi những đứa trẻ được thưởng thức, tiếp xúc
với văn học, truyện kể, thường xuyên được nghe kể chuyện và tham gia vào hoạt
động kể chuyện thì ngôn ngữ của trẻ phát triển hơn đồng thời còn hình thành và
nảy sinh ngôn ngữ mang tính nghệ thuật.
1.1.3. Đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi)
1.1.3.1. Sự thay đổi hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo (3 - 4 tuổi)
Cuối tuổi ấu nhi, ở trẻ xuất hiện một mâu thuẫn đó là mâu thuẫn giữa một
bên là tính độc lập đang phát triển mạnh và một bên là khả năng còn quá non
yếu của trẻ. Tình trạng trẻ em luôn đòi hỏi “Để con tự làm lấy” còn người lớn thì
luôn “Cấm không được làm” đã dẫn đến những mâu thuẫn giữa trẻ và người lớn.
Để giải quyết mâu thuẫn này, trẻ phải tìm đến một hoạt động mới: Hoạt động
vui chơi mà thực chất là trò chơi đóng vai theo chủ đề (ĐVTCĐ).
Hoạt động với đồ vật nguyên là hoạt đông chủ đạo của tuổi ấu nhi, nay
lùi xuống thứ hai, nhường chỗ cho hoạt động vui chơi nổi lên chiếm vị trí ưu thế
và giữ vai trò chủ đạo để tạo ra một diễn biến cơ bản trong tâm lý của trẻ, tức là
19


×