Tải bản đầy đủ (.pdf) (271 trang)

Quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại học vùng đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 271 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thúc đẩy mạnh quá
trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức phát triển thì
con người và tri thức trở thành nhân tố quyết định cho sự thành công và phát triển
của mỗi quốc gia. Cuộc chạy đua và cạnh tranh gay gắt để phát triển nhanh về kinh
tế - xã hội tất yếu dẫn đến nhu cầu nhân lực chất lượng cao làm nòng cốt cho sự
phát triển bền vững. Để có được nguồn nhân lực trên đòi hỏi hệ thống giáo dục và
đào tạo, đặc biệt là ở các cơ sở đào tạo (CSĐT) bậc đại học (ĐH) phải linh hoạt, đa
dạng trong tổ chức và triển khai đào tạo. Trong các hình thức đào tạo thì đào tạo từ
xa (ĐTTX) đã và đang phát triển trên thế giới, được đánh giá cao về tính hiệu quả,
sự linh hoạt cũng như khả thi khi áp dụng.
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển, thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa (CNH – HĐH) đất nước và hội nhập quốc tế (HNQT), tất cả các vấn
đề về kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa và giáo dục đều đặt ra những mục tiêu,
yêu cầu cấp bách cần giải quyết nhưng nổi trội hơn cả vẫn là lĩnh vực giáo dục
và đào tạo nhân lực. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực”.
Trước nhu cầu bổ sung nhanh nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước
trong giai đoạn hiện nay, ĐTTX sẽ phát huy tốt vai trò và nhiệm vụ, vì đây là hình
thức đào tạo có nhiều thuận lợi và phù hợp với bối cảnh, điều kiện của đất nước
cũng như điều kiện, nguyện vọng đại đa số nhân dân, đồng thời cũng phù hợp với
các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là tạo cơ hội cho người dân tiếp
cận với tri thức, hỗ trợ học tập suốt đời. Nghị quyết số 29/NQ-TW về đổi mới cơ
bản và toàn diện giáo dục đào tạo định hướng: “Hoàn thiện mạng lưới cơ sở giáo
dục thường xuyên và các hình thức học tập, thực hành phong phú, linh hoạt, coi
trọng tự học và giáo dục từ xa” và Quyết định số 89/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ban hành ngày 9/01/2013 về việc phê duyệt đề án Xây dựng xã hội học tập giai
đoạn 2012-2020 nhấn mạnh: “Đẩy mạnh các hoạt động ĐTTX ở các cơ sở giáo dục


và đào tạo, đặc biệt là các cơ sở giáo dục đại học”.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), nơi có nhiều tiềm năng phát triển, là
một trong những vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, tuy nhiên về mặt dân trí và
chất lượng nguồn nhân lực lại là “vùng trũng” so với các vùng khác trong cả nước.
Các số liệu thống kê cho thấy, dân số vùng ĐBSCL tính đến năm 2011 là 17.330,9
nghìn người, nhưng tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo của toàn vùng chỉ đạt
8,6% và đặc biệt tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ ĐH trở lên chỉ chiếm 3,4% thấp


2
nhất so cả nước. Mặc khác, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm của vùng ĐBSCL lại
cao nhất, với tỷ lệ 4,3% trong tổng lực lượng lao động toàn vùng, tương ứng 400,1
nghìn người. Số người thiếu việc làm trong độ tuổi lao động là 1.285,8 nghìn người,
chiếm 93,9% tổng số người thiếu việc làm. Lĩnh vực giáo dục và đào tạo (GD&ĐT),
tỷ lệ học sinh tốt nghiệp bậc trung học phổ thông (THPT) trong năm học 2010-2011
của vùng chỉ đạt 91,28%; số sinh viên (SV) đại học, cao đẳng (CĐ) năm 2011 toàn
vùng là 117.500 nghìn người và trong đó số SV tham gia học ĐTTX của vùng chỉ đạt
con số khiêm tốn 14.000 người.
Các số liệu thống kê đã phản ánh một cách khái quát, khá chân thực bức
tranh toàn cảnh về công tác đào tạo nhân lực vùng ĐBSCL. Về tổng thể công tác
đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực cho toàn vùng vẫn chưa đạt được yêu cầu đặt ra
trong giai đoạn xây dựng và phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như đảm bảo
an ninh quốc phòng hiện nay.
Đào tạo từ xa ở Việt Nam có những nét đặc thù riêng, đó là hình thức đào tạo
có sự kết hợp hướng dẫn, hỗ trợ của người dạy đối với người học và so với các hình
thức đào tạo khác của vùng ĐBSCL, thì đây là hình thức đào tạo còn khá mới, dù có
nhiều nỗ lực và đạt được một số thành tựu nhưng trong quá trình tổ chức, đào tạo
vẫn còn nhiều hạn chế, cần sớm tìm hướng giải quyết, thúc đẩy phát triển. Một
trong những vấn đề được đặt ra là muốn ĐTTX phát triển, đảm bảo chất lượng thì
quản lý ĐTTX phải được xem trọng và đặt ở vị trí, vai trò quan trọng, quyết định.

Để thực hiện được tốt công tác trên, bên cạnh đội ngũ giảng viên (GV), cán bộ quản
lý (CBQL) thật sự năng động, tâm huyết, các CSĐT cần phải không ngừng nghiên
cứu, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, phương pháp quản lý, dạy học mới,
để có thể triển khai, phổ biến, phát triển ĐTTX đến với người dân vùng ĐBSCL,
nơi còn nhiều khó khăn, cách trở về địa lý, giao thông và vốn vẫn còn xa lạ với hình
thức đào tạo này.
Trong vai trò đào tạo nhân lực trình độ cao cho vùng ĐBSCL, trước cũng
như hiện nay, không thể không nói đến vai trò của trường ĐH Cần Thơ - trường ĐH
lớn, trọng điểm và lâu đời của vùng, song song với hình thức đào tạo chính quy
(CQ), vừa làm vừa học (VLVH), trường ĐH Cần Thơ cùng với các trường ĐH
Đồng Tháp, trường ĐH Trà Vinh, đã sớm nghiên cứu triển khai ĐTTX cho toàn
vùng ĐBSCL. Quá trình triển khai, tổ chức quản lý ĐTTX thời gian qua, tập thể
lãnh đạo nhà trường cũng như bản thân người nghiên cứu đã có nhiều trăn trở trước
những khó khăn, vướng mắc, hạn chế trong việc quản lý và phát triển ĐTTX.
Với mong muốn góp phần giải quyết những khó khăn, đồng thời nâng chất
lượng ĐTTX nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH của vùng
ĐBSCL, luận án đã chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu
cầu nhân lực trình độ đại học vùng Đồng bằng sông Cửu Long”.


3
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận, hình thành khung lý luận và từ thực tiễn ĐTTX, quản
lý ĐTTX để đề xuất các giải pháp quản lý ĐTTX nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực
trình độ ĐH phục vụ cho quá trình phát triển KT - XH, đẩy mạnh sự nghiệp CNH HĐH và HNQT của vùng ĐBSCL.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý ĐTTX ở các trường ĐH đáp ứng nhu cầu nhân
lực trình độ ĐH vùng ĐBSCL.
4. Giả thuyết khoa học

Quản lý ĐTTX dù đạt được một số kết quả nhưng còn nhiều hạn chế và bất
cập, chưa phát huy tối đa lợi thế để đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH cho vùng
ĐBSCL trong tình hình hiện nay. Nếu vận dụng các tiếp cận theo các thành tố của
quá trình ĐTTX, tiếp cận cung – cầu và tiếp cận các chức năng quản lý để xây dựng
các giải pháp về xây dựng quy hoạch, quản lý phát triển chương trình đào tạo, đổi
mới tuyển sinh, hình thành mạng liên kết mở nguồn học liệu, quản lý hoạt động dạy
và học từ xa, kiểm tra, giám sát đảm bảo chất lượng và liên kết ĐTTX giữa CSĐT
và cơ sở sử dụng nhân lực (CSSDNL) sẽ đáp ứng thiết thực nhu cầu nhân lực trình
độ ĐH phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH và HNQT của vùng ĐBSCL.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình
độ ĐH.
- Đánh giá thực trạng ĐTTX và quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực
trình độ ĐH vùng ĐBSCL.
- Đề xuất các giải pháp quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ
ĐH vùng ĐBSCL.
- Khảo nghiệm và thử nghiệm giải pháp nhằm chứng minh tính cấp thiết và
khả thi của các giải pháp đề xuất.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu nội dung quản lý của Hiệu
trưởng các CSĐT vùng ĐBSCL trong quản lý ĐTTX có hướng dẫn trình độ ĐH
nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH.
- Phạm vi đối tượng khảo sát: 03 CSĐT chủ trì, tổ chức ĐTTX (trường ĐH
Cần Thơ; trường ĐH Trà Vinh; trường ĐH Đồng Tháp); 24 các đơn vị liên kết
(ĐVLK) đào tạo; 24 cán bộ quản lý; 120 giảng viên; 545 sinh viên (SV); 117 sinh viên
tốt nghiệp (SVTN); 30 cơ sở sử dụng nhân lực đã tham gia quá trình đào tạo và tuyển
dụng sinh viên tốt nghiệp ĐTTX vùng ĐBSCL.
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu và thử nghiệm: Trường ĐH Cần Thơ và các



4
đơn vị liên kết trong ĐTTX trình độ ĐH vùng ĐBSCL.
7. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp tiếp cận
Để triển khai nghiên cứu đề tài, Luận án sử dụng một số phương pháp tiếp
cận để nghiên cứu quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH như sau:
7.1.1. Tiếp cận theo các thành tố của quá trình ĐTTX
Trong luận án, xem xét ĐTTX theo mô hình CIPO của UNESCO gồm các
thành tố từ đầu vào, quá trình đào tạo, đặc biệt là đầu ra và yếu tố bối cảnh.
Hướng tiếp cận trên sẽ cho cái nhìn tổng quát nhưng cụ thể về các thành tố
trong ĐTTX, từ đó có hướng quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH.
Kiểm tra, giám sát được các thành tố trong quá trình triển khai đào tạo, mục tiêu
cuối cùng là đảm bảo được chất lượng đào tạo và đầu ra là “sản phẩm” – nhân lực
trình độ ĐH đáp ứng ”cầu” - nhu cầu các bên có liên quan, đặc biệt là CSSDNL.
7.1.2. Tiếp cận theo nhu cầu của các cơ sở sử dụng nhân lực (cung – cầu)
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lợi thế cạnh tranh
giữa các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới không còn là nguồn tài
nguyên thiên nhiên mà kinh tế tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao đã dần
thay thế. Việc quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH cũng phải tuân
thủ theo các quy luật cơ bản của thị trường là quy luật cung - cầu, quy luật giá trị và
quy luật cạnh tranh.
Do đó, trong luận án cần đặt vấn đề nghiên cứu theo quan điểm tiếp cận thị
trường, đặc biệt thị trường lao động, về cung - cầu nhân lực trình độ ĐH, tức đầu ra
của quá trình đào tạo (outcome) phải đáp ứng cầu của CSSDNL cả về thời gian, số
lượng, chất lượng và cơ cấu lĩnh vực/ngành đào tạo.
ĐTTX đáp ứng nhu cầu cũng cần thực hiện tiếp nhận thông tin, tiến hành phân
tích, đánh giá các phản hồi từ phía người học, từ CSSDNL và từ thị trường lao động
để kịp thời điều chỉnh, bổ sung và đề ra những giải pháp thúc đẩy ĐTTX phát triển.
7.1.3. Tiếp cận theo các chức năng quản lý
Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc

của các thành viên thuộc một hệ thống, đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù
hợp để đạt được mục đích đã định.
Trong luận án, quan niệm về quản lý ĐTTX bao gồm: xây dựng quy hoạch;
quản lý thực hiện quy hoạch; quản lý các tác động của bối cảnh; quản lý kiểm tra,
giám sát, và đánh giá ĐTTX nhằm mục đích tạo môi trường thuận lợi để ĐTTX
phát triển, đào tạo đáp ứng đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo về chất
lượng nhân lực trình độ ĐH, góp phần phát triển KT - XH của vùng và cả nước.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu


5
7.2.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các tài liệu và báo cáo khoa học, các tài liệu của Đảng, Nhà nước về
chủ trương, chính sách trong ĐTTX, quản lý ĐTTX. Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa
để tổng quan các nghiên cứu, kế thừa và phát triển cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Hồi cứu tư liệu và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn:
Thu thập những thông tin, dữ liệu thông qua những tài liệu khoa học, báo
cáo, tổng kết, báo cáo thống kê, các cuộc hội thảo, tọa đàm với sự tham gia của
CBQL, GV, SV, SVTN, CSSDNL và ĐVLK về quản lý ĐTTX qua đó nắm tình
hình KT - XH, văn hóa, giáo dục, quy hoạch phát triển nhân lực, giáo dục và đào
tạo, mạng lưới trường lớp, các chương trình ĐTTX, quy mô ĐTTX, nhu cầu ĐTTX,
quy hoạch phát triển nhân lực thông qua hình thức ĐTTX… là các cơ sở thông tin
bổ sung cho lý luận và thực tiễn của luận án.
Khảo sát bằng phiếu hỏi: Xây dựng bộ công cụ khảo sát nhằm đánh giá thực
trạng ĐTTX và quản lý ĐTTX trên diện rộng ở một số tỉnh, thành phố vùng
ĐBSCL, với các đối tượng: 30 CBQL, 150 GV, 570 SV, 150 SVTN, 45 CSSDNL,
03 CSĐT và 35 ĐVLK…về các nội dung: chương trình đào tạo; tuyển sinh; đội ngũ
GV; phương tiện kỹ thuật, học liệu; tài chính; hoạt động dạy, hướng dẫn SV; hoạt
động học, tự học của SV; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; kiểm tra, giám sát quá

trình ĐTTX; liên kết giữa CSĐT và CSSDNL, các bối cảnh tác động ĐTTX.
Phương pháp chuyên gia: lấy ý kiến đánh giá, nhận xét của các nhà khoa
học, các nhà giáo dục, các nhà quản lý giáo dục có nhiều kinh nghiệm đặc biệt là
trong lĩnh vực ĐTTX, quản lý ĐTTX.
Phương pháp khảo nghiệm và thử nghiệm: Đánh giá tính cấp thiết và khả thi
của các giải pháp đã đề xuất.
Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng một số phần mềm, công thức toán
thống kê để xử lý các số liệu thu được.
8. Những luận điểm bảo vệ
- ĐTTX trình độ đại học là hình thức đào tạo đóng vai trò quan trọng trong
việc đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học, của cộng đồng, của các đơn vị sử
dụng nhân lực; người học có thể học ở mọi nơi, mọi lúc; phù hợp với những đặc thù
về địa lý, kinh tế - xã hội của các địa phương, vùng miền. ĐTTX ở Việt Nam có
những điểm đặc thù và lợi thế so với hệ thống đào tạo chính quy.
- Tiếp cận theo các thành tố của quá trình ĐTTX, nhu cầu của các cơ sở sử
dụng nhân lực (tiếp cận cung – cầu) và theo các chức năng quản lý sẽ là các hướng
tiếp cận lý thuyết phù hợp, có tính bao quát trong nghiên cứu quản lý ĐTTX trong
điều kiện thực tiễn vùng ĐBSCL.


6
- Đào tạo từ xa và quản lý ĐTTX nhân lực trình độ đại học vùng ĐBSCL
thời gian gần đây đã có những bước phát triển, nhưng xét trong mối quan hệ với
nhu cầu xã hội, thỏa mãn nhu cầu nhân lực vùng ĐBSCL thì còn nhiều hạn chế, bất
cập cần được khắc phục.
- Để nâng cao chất lượng và hiệu quả ĐTTX nhân lực trình độ đại học,
đáp ứng nhu cầu của vùng ĐBSCL, đòi hỏi có các giải pháp động bộ, trước hết
là xây dựng quy hoạch theo nhu cầu xã hội và căn cứ năng lực thực tế của các
cơ sở ĐTTX, tiếp đến là quản lý thực hiện các nhân tố của quá trình đào tạo và
kiểm tra, giám sát chất lượng các khâu của quá trình đào tạo, trong đó thu hút

sự tham gia hiệu quả của các ĐVLK đào tạo và các CSSDNL trình độ ĐH.
9. Đóng góp mới của luận án
- Bổ sung và phát triển lý luận ĐTTX và quản lý ĐTTX trình độ đại học theo
tiếp cận các thành tố của quá trình đào tạo, tiếp cận cung - cầu và tiếp cận theo các
chức năng quản lý, đáp ứng nhu cầu đa dạng nhân lực trình độ ĐH của người học,
cộng đồng và các đơn vị sử dụng nhân lực, góp phần xây dựng hệ thống giáo dục
mở và từng bước xây dựng xã hội học tập (XHHT) ở Việt Nam.
- Từ thực tiễn ĐTTX và quản lý ĐTTX, đề tài đã xác định được các nhân tố
mới, những điểm mạnh cũng như các hạn chế trong ĐTTX, trong quản lý ĐTTX,
nguyên nhân của những thành công cần phát huy, những hạn chế cần khắc phục và
các nhân tố ảnh hưởng ở các cơ sở ĐTTX trong việc đáp ứng nhu cầu nhân lực
vùng ĐBSCL.
- Đề xuất được 7 giải pháp về quản lý ĐTTX theo các thành tố của quá trình
đào tạo, hướng tới đáp ứng nhu cầu của người học, cộng đồng và các CSSDNL trình
độ ĐH, phát huy hiệu quả tiềm năng của các CSSDNL và các ĐVLK đào tạo phù
hợp với điều kiện thực tiễn vùng ĐBSCL.
- Thử nghiệm giải pháp nhằm chứng minh tính đúng đắn của các giải pháp
quản lý ĐTTX được đề xuất.
10. Cấu trúc của luận án
- Phần mở đầu.
- Phần nội dung: gồm có 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực
trình độ đại học.
Chương 2: Thực trạng quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình
độ đại học vùng ĐBSCL và kinh nghiệm của một số quốc gia.
Chương 3: Giải pháp quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình
độ đại học vùng ĐBSCL.


7

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO TỪ XA ĐÁP ỨNG
NHU CẦU NHÂN LỰC TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu về đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại
học
Lịch sử phát triển GD&ĐT đã có nhiều công trình nghiên cứu về ĐTTX.
Theo thời gian, từ lúc sơ khai của ĐTTX là đào tạo hàm thụ, thông qua việc giảng
dạy cho các giáo sĩ nhà thờ bằng cách gửi thư trao đổi vào những năm 50 - 60 sau
công nguyên theo lối gửi thư (correspondence study) nhưng chỉ giới hạn tổ chức
trong giáo hội. Mãi cho đến những năm 1840 tại Anh, Isaas Pitman đã tổ chức đào
tạo tốc ký theo hình thức hàm thụ, đây là lớp học hàm thụ đầu tiên được ghi nhận
trong lịch sử ĐTTX [90].
Năm 1922, ở NewZeland đã bắt đầu nghiên cứu và tổ chức loại trường hàm
thụ. Giai đoạn này, ĐTTX vẫn là dạng ĐTTX cấp thấp, người học chủ yếu vẫn
thông qua thư từ tài liệu, sách vở. Ở Canada cũng thế đến năm 1929, Vancouver
sáng lập trường hàm thụ nhưng chỉ triển khai ở bậc sơ trung học.
Tiếp đến, vào năm 1927 lần đầu tiên ở Anh đã thực hiện chương trình giảng
dạy đầu tiên trên đài BBC. GV đến đài phát thanh để ghi âm bài giảng và sau đó phát
sóng, đây vẫn chỉ là hình thức truyền thụ kiến thức chưa có tổ chức quản lý đào tạo.
Năm 1939, tại trường ĐH IOWA - Hoa Kỳ, người ta đã tổ chức giảng dạy có
sự hỗ trợ của các thiết bị kỹ thuật thông qua phương tiện điện thoại, kết hợp với
biên tập và phát tài liệu hướng dẫn tự học cho SV.
UNESCO từ những năm 1996 và 2009 [87] đã có những nhận định, đánh giá
về ĐTTX: “ĐTTX là hình thức giáo dục có triển vọng nhất của thế kỷ 21 và là hình
thức giáo dục sẽ ngự trị trong tương lai vì nó hỗ trợ tích cực xã hội học tập” vì “giáo
dục là một quyền con người cơ bản và là một giá trị nhân bản phổ quát và nó sẽ
được làm cho hiện hữu trong cả cuộc đời của mỗi cá nhân”. Thông báo do
UNESCO công bố tại Hội nghị thế giới về Giáo dục ĐH tại Paris năm 2009
(WCHE-2009) cũng đã khuyến cáo: “Cần hỗ trợ khai thác tích hợp đầy đủ hơn ICT
và thúc đẩy giáo dục từ xa nhằm đáp ứng nhu cầu tăng nhanh giáo dục ĐH”.

Trong nước, những năm gần đây xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để
người dân được học tập suốt đời, vấn đề liên quan đến ĐTTX trong đào tạo nhân
lực cho sự nghiệp CNH - HĐH và HNQT đã được sự quan tâm của xã hội, là hướng
nghiên cứu của giới khoa học với nhiều luận án, công trình nghiên cứu:
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn (2001) [64] trong tác phẩm Tự đào tạo, tự học,
tự nghiên cứu, tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh khác nhau trong


8
ĐTTX. Tác giả đã đưa ra quan điểm về ĐTTX, đặc biệt nhấn mạnh đến việc tự học,
tự nghiên cứu của người học bên cạnh sự hỗ trợ, phụ đạo, hướng dẫn của đội ngũ
GV trong ĐTTX. Tác giả nêu việc chú trọng phát triển ĐTTX với quan điểm đây là
hình thức đào tạo góp phần quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đồng
thời, tác phẩm cũng nêu rõ những điểm cơ bản để phát huy năng lực tự học.
Tác giả Tạ Thế Truyền (2001) [70] đề tài Bồi dưỡng CBQL ngành giáo dục và
đào tạo theo hình thức giáo dục từ xa, tác giả đã đề cập đến vai trò GV về giảng dạy,
hướng dẫn trong ĐTTX, ĐTTX được nhìn nhận và phân tích dưới nhiều góc độ khác
nhau như: góc độ về kinh tế học giáo dục, góc độ về giáo dục học. Tác giả đã có đánh
giá tình hình chung về ĐTTX ở Việt Nam, thực trạng triển khai ĐTTX ở Việt Nam.
Tác giả Triều Hải Hoàng (2004) [38] với bài viết ĐTTX – Một hình thức thực
hiện xã hội hóa giáo dục cần nhân rộng, tác giả đề cập đến việc thực hiện sự công
bằng trong giáo dục, tạo điều kiện mọi người dân có cơ hội học tập, để đáp ứng yêu
cầu này thì ĐTTX phù hợp nhất đối với tiến trình xã hội hóa giáo dục cho người dân.
Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến những kinh nghiệm ban đầu đạt được về ĐTTX của
các CSĐT trên cả nước, đặc biệt là các CSĐT có ĐTTX.
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn, Lê Hải Yến (2012) [65] tác phẩm Xã hội học
tập, học tập suốt đời và các kỹ năng tự học, đề cập đến những hạn chế của đào tạo
CQ và bối cảnh xã hội đòi hỏi cần phải có ĐTTX. Triết lý của sự thống nhất giữa
chất lượng và số lượng, vai trò trọng tâm của ĐTTX trong hệ thống giáo dục không
CQ. Các tác giả còn phân tích những yếu tố cần thiết chứng minh để ĐTTX trở

thành mũi nhọn trong chiến lược giáo dục của Việt Nam. Đồng thời cũng nêu
những kỹ năng cần thiết trong việc tự học, tự nghiên cứu, bên cạnh sự hướng dẫn
của giáo viên mà nói theo ngôn ngữ của các tác giả là “thầy ngoài”, đây là vấn đề
cốt lõi trong học tập theo ĐTTX, có tính đến đặc thù của Việt Nam.
Từ các công trình nghiên cứu kể trên, có thể khái quát rằng: ĐTTX đã và
đang được các nhà khoa học trong nước cũng như trên thế giới quan tâm nghiên cứu
và vận dụng vào thực tiễn phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo, trong đào tạo
nhân lực, việc triển khai đào tạo trên ngày càng được tổ chức khá rộng rãi với mục
tiêu đáp ứng được các nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho nhiều trình độ khác nhau.
Tuy nhiên, vấn đề ĐTTX đáp ứng nhu cầu trình độ ĐH trong điều kiện và yếu tố
vùng miền cụ thể đang là vấn đề bỏ ngõ. Trong đề tài này, tiếp tục được tác giả
nghiên cứu với nội dung ĐTTX đáp ứng nhu cầu trình độ ĐH vùng ĐBSCL.
1.1.2. Các nghiên cứu về quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực
trình độ đại học
Quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH, cũng đã được quan
tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước với một số công trình và tác


9
giả nghiên cứu tiêu biểu như:
Tác giả Keegan [7] khi nghiên cứu về quản lý ĐTTX đã đưa các đặc điểm
trong cách thức quản lý của ĐTTX được khái quát như sau: GV và SV ít gặp nhau
trong quá trình học tập, điều này giúp phân biệt ĐTTX với đào tạo truyền thống.
Ảnh hưởng của việc tổ chức đào tạo trong việc lập kế hoạch, chuẩn bị tài liệu học
tập và hỗ trợ cho SV trong học tập, tiếp thu kiến thức. Sử dụng phương tiện kỹ
thuật, in ấn, hệ thống đài phát thanh, truyền hình, video hoặc máy vi tính để liên kết
GV với SV và nhằm truyền đạt các nội dung giảng dạy. Có nội dung liên hệ hai
chiều để SV tiếp nhận được những điều bổ ích từ cuộc đàm thoại, trao đổi. Điều này
phân biệt ĐTTX với việc sử dụng công nghệ vào mục đích khác trong giáo dục đào tạo. Sự phân tán thường xuyên của lớp học trong một quá trình học tập nhằm để
cho mỗi cá nhân có điều kiện và thời gian tự học.

Tác giả Taylor (2000) [86] cũng đã đề cập đến vấn đề QLGD đại học thế giới
với hệ thống ĐTTX và phân chia các mô hình công nghệ và phương tiện sử dụng
cho ĐTTX, theo tác giả đã trải qua 5 giai đoạn phát triển: Mô hình hàm thụ chủ yếu
qua trao đổi thư từ, vào các tài liệu ấn in là chính; Mô hình đa phương tiện
(multimedia) phát triển vào những thập niên 70, 80 của thế kỷ XXI, đó là sự kết hợp
bởi tổ hợp tài liệu in ấn với các phương tiện nghe nhìn và cùng sự kết hợp các
phương pháp có sự hỗ trợ của máy tính; Mô hình học tập viễn thông (tele-learning)
bao gồm cả phương pháp giao tiếp đồng bộ giữa GV và SV; Mô hình học tập linh
hoạt (flexible learning): phối hợp mô hình viễn thông trước đây với sự hỗ trợ đặc
biệt của Internet và World-Wide-Web (www). Giao tiếp giữa GV-SV và giữa SVSV có thể thực hiện bằng các phương pháp nhờ các công cụ e-mail và các cuộc gặp
gỡ trao đổi đồng bộ và không đồng bộ trực tuyến; Mô hình học tập linh hoạt trí tuệ
(intelligent flexible learning) chỉ khác mô hình trên nhờ vào việc bổ sung sử dụng
các công nghệ trực tuyến bao gồm các cơ sở dữ liệu và hệ thống trả lời tự động.
Theo tác giả Amena Begum và Jesmin Pervin [89] đề cập đến vấn đề lớn và
quan trọng nhất của ĐTTX là chất lượng ĐTTX. Cốt lõi chính là quản lý như thế nào
để hướng đến chất lượng, bài viết đề cập và khảo sát một số khía cạnh về quản lý chất
lượng nói chung và đảm bảo chất lượng nói riêng của ĐTTX.
Trong nước, một số đề tài, công trình nghiên cứu về quản lý ĐTTX có tính lý
luận và thực tiễn cao như:
Tài liệu Hỗ trợ học từ xa (Dự án Việt - Bỉ) (2000) [7] là công trình tổng quát
về ĐTTX, đề cập cụ thể đến phương pháp giáo dục cho người trưởng thành và
ĐTTX, xây dựng công nghệ ĐTTX. Đồng thời, tài liệu cũng nêu lên các cách thức
đào tạo GV từ xa cùng các điều kiện, yêu cầu để tổ chức thực hiện.
Tác giả Bùi Thanh Giang (2008) [27] trong tác phẩm Các công nghệ ĐTTX


10
và học tập điện tử (e-learning), đã phân tích, nêu rõ các mặt ưu điểm cũng như hạn
chế của ĐTTX. Tác giả xây dựng quy trình phát triển học liệu cho ĐTTX, đồng thời
giới thiệu các công nghệ trong ĐTTX như các tài liệu giấy in; thiết kế học liệu bằng

công nghệ giấy in; các công nghệ âm thanh/lời thoại...
Tác giả Trình Thanh Hà (2011) [30] Luận án tiến sĩ Cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc bảo đảm chất lượng đào tạo ĐH từ xa ở Việt Nam, tác giả đã góp phần
làm rõ cơ sở lý luận về đảm bảo chất lượng đào tạo ĐH từ xa, các yếu tố cần quan
tâm, các thành tố đảm bảo tính hệ thống, đảm bảo chất lượng cho đào tạo ĐH từ xa.
Trên cơ sở các lý luận đã được nghiên cứu, tác giả đề xuất các giải pháp cần thiết
nhằm bảo đảm chất lượng ĐTTX theo hướng đổi mới và đáp ứng nhu cầu của xã
hội trong bối cảnh của Việt Nam.
Tác giả Đặng Văn Dân (2014) [21] Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cầu
ĐTTX ở Việt Nam, tác giả đã phân tích và làm rõ các nhân tố tác động đến cầu
ĐTTX. Tác giả còn đề cập đến các kinh nghiệm tổ chức và quản lý ĐTTX tại các
nước ở Đông Nam Á và khu vực, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam trong việc thúc đẩy và phát triển ĐTTX tại Việt Nam. Ngoài ra, tác giả đánh
giá thực trạng và nêu rõ các mặt yếu kém của ĐTTX ở Việt Nam, đề xuất các
khuyến nghị về chính sách và tác động của Nhà nước đến ĐTTX.
Từ các công trình nghiên cứu về quản lý ĐTTX trong và ngoài nước, tổng
quát về quản lý ĐTTX đáp ứng trình độ ĐH. Mỗi tác giả có quan điểm riêng nhưng
đều có những điểm chung khi nghiên cứu, đó là đánh giá cao vai trò, nhiệm vụ và ý
nghĩa của việc quản lý ĐTTX; thống nhất quản lý có vai trò quan trọng, quyết định
trong việc đảm bảo chất lượng, hiệu quả ĐTTX. Tuy vậy, việc nghiên cứu quản lý
ĐTTX có hướng dẫn trình độ ĐH trong điều kiện đặc thù vùng miền, đáp ứng nhu
cầu nhân lực trình độ ĐH chưa được khai thác, đề tài tiếp tục thực hiện nghiên cứu
theo hướng trên.
Tóm lại, qua tìm hiểu các tác phẩm, các công trình, các luận án nghiên cứu
của các tác giả trong và ngoài nước, đã cho cái nhìn khái quát về nhân lực, nhu cầu
đào tạo nhân lực; ĐTTX và quản lý ĐTTX có hướng dẫn nhằm đáp ứng nhu cầu
nhân lực. Hiện tại, việc tổ chức, quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ
ĐH hiện đang là vấn đề được quan tâm, từng vấn đề, các ưu điểm cùng những hạn
chế và những nguyên nhân của những thành công và hạn chế trong hoạt động trên
cần được tìm hiểu, phân tích ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh và trong điều kiện cụ

thể khác nhau về hình thức lẫn nội dung. Thực tế, vẫn chưa có công trình, đề tài nào
nghiên cứu chuyên sâu về quản lý ĐTTX có hướng dẫn đáp ứng nhu cầu nhân lực
trình độ ĐH cho sự nghiệp CNH - HĐH và HNQT của đất nước nói chung và đặc
thù vùng ĐBSCL nói riêng.


11
Việc nghiên cứu “Quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ
ĐH vùng Đồng bằng sông Cửu Long” là các cơ sở khoa học, hình thành khung lý
luận chung về ĐTTX, quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH, triển
khai nghiên cứu thực trạng và tìm ra một số giải pháp nâng cao chất lượng, đồng
thời phát triển hoạt động ĐTTX đáp ứng yêu cầu nhân lực trình độ ĐH của cả nước
nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng. Đây cũng là yêu cầu, vấn đề cấp thiết, cần
giải quyết, đáp ứng mục tiêu, chủ trương nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực của
Đảng và Nhà nước.
1.2. Đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại học
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Đào tạo từ xa
Về khái niệm "đào tạo từ xa" hay “giáo dục từ xa” vẫn còn nhiều quan điểm
và nhìn nhận khác nhau, nhiều cách gọi như giảng dạy hàm thụ, giảng dạy vô tuyến,
truyền hình học đường, giảng dạy ngoài trường, việc truyền tài liệu sư phạm thực
hiện qua vệ tinh, bằng mạng cáp thông tin… đôi lúc đã gây nên sự không chính xác
xung quanh khái niệm trên, đó là do cách tiếp cận, nhìn nhận vấn đề ở các khía cạnh
khác nhau. Nhiều quan điểm về ĐTTX của một số tác giả tiêu biểu [7] như: Moore
(1973); Keegan (1980); Holinberg (1981); Kaye và Rumble (1981); Wedemeyer
(1982), theo đó một số tác giả quan niệm rằng ĐTTX là đào tạo “mặt không giáp
mặt” trong quan hệ thầy trò, một số tác giả quan điểm ĐTTX với vai trò tự học là
chính nhưng bên cạnh đó có sự hỗ trợ, phụ đạo, hướng dẫn của giáo viên, nhưng cũng
có một số tác giả quan niệm ĐTTX chỉ là đào tạo thông qua việc sử dụng các phương
tiện truyền thông và công nghệ thông tin (video, truyền hình, mạng máy tính,

internet…).
Theo tác giả France Henri [81] ĐTTX không chỉ là việc giảng dạy đơn thuần
mà là một hệ thống phức tạp trong tổ chức và hoạt động sư phạm. Học từ xa, dạy từ
xa đòi hỏi sự thay đổi triệt để cách thực hiện, các phương tiện, phương pháp sư
phạm nhằm khắc phục khó khăn về khoảng cách, sự cách biệt nhất định giữa người
học và người dạy. Từ đó dẫn đến thay đổi sâu sắc về vai trò và nhiệm vụ của GV
cũng như các bước tiến hành, phương pháp phù hợp với yêu cầu của học từ xa, đó là
việc tự học có hỗ trợ.
Tự điển Giáo dục học [36] ĐTTX là hình thức đào tạo không tập trung, qua
các phương tiện phát thanh, truyền hình, bưu điện, báo chí... qua công nghệ thông tin
hiện đại như máy tính cá nhân, máy tính cá nhân nối mạng internet... dành cho những
người có nguyện vọng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và văn
hóa. Cơ sở ĐTTX có trách nhiệm chuyển tải các nội dung học tập bằng các phương
tiện tới người học, qua đó người học lĩnh hội và cũng bằng các phương tiện quy định,


12
gửi các bài làm, bài kiểm tra về nơi đào tạo để được nhận xét và đánh giá. Người học
hoàn thành chương trình đào tạo và thi đạt yêu cầu tốt nghiệp quy định của bậc học,
cấp học, ngành học nào thì được cấp bằng tốt nghiệp ĐTTX tương ứng với cấp, bậc
ngành đó và có giá trị tương đương với bằng tốt nghiệp của hình thức CQ.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo [8] thì ĐTTX hay còn gọi là giáo dục từ xa
thuộc phương thức giáo dục không CQ trong hệ thống giáo dục quốc dân. ĐTTX là
một quá trình giáo dục, trong đó phần lớn có sự gián cách giữa người dạy và người
học về mặt thời gian và không gian. Người học theo ĐTTX chủ yếu là tự học qua
học liệu như giáo trình, băng hình, băng tiếng, đĩa CD-ROM, phần mềm vi tính,
bằng việc sử dụng các phương tiện nghe nhìn cá nhân, phát thanh, truyền hình, các
tổ hợp truyền thông đa phương tiện, mạng Internet dưới sự tổ chức, trợ giúp của nhà
trường. ĐTTX lấy tự học là chính, đòi hỏi người học phải tự giác, kiên trì và quyết
tâm cao để hoàn thành chương trình học tập của mình. Số giờ tập trung để nghe

hướng dẫn, giải đáp thắc mắc, phụ đạo chiếm từ 15% đến 25% số giờ kế hoạch toàn
khóa. Tùy theo tính chất và mức độ khó (cho người tự học) của mỗi học phần, Hiệu
trưởng các CSĐT có thể quy định số giờ tập trung tăng thêm nhưng không vượt quá
30% số giờ kế hoạch dành cho học phần đó. Tùy vào cách thức tổ chức, ĐTTX
phân thành nhiều hình thức khác nhau như đào tạo theo chương trình ĐH có cấp
bằng; theo chương trình cấp chứng chỉ; đào tạo các học phần, tín chỉ theo yêu cầu
của người học; đào tạo các chuyên đề bồi dưỡng nâng cao trình độ, cập nhật kiến
thức, kỹ năng... nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, công việc.
Từ các quan điểm, khái niệm trên, luận án xuất phát từ các quan điểm chỉ
đạo về GD&ĐT của Nhà nước; từ đặc thù ĐTTX ở Việt Nam; điều kiện kết cấu hạ
tầng công nghệ thông tin và truyền thông; quan niệm, tập quán học tập của người
học; thực tiễn tổ chức ĐTTX có hướng dẫn, hỗ trợ của GV đối với SV trong quá
trình học tại CSĐT.
Khái niệm “Đào tạo từ xa trình độ đại học” được hiểu trong luận án là:
“Đào tạo trình độ đại học, trong đó vai trò tự học của người học là chính cùng với
sự hỗ trợ, hướng dẫn trực tiếp/mặt giáp mặt và gián tiếp của người dạy, với sự hỗ
trợ của hệ thống nguồn học liệu mở và các phương tiện công nghệ thông tin và
truyền thông hiện đại của các cơ sở đào tạo nhân lực.
1.2.1.2. Nhân lực
Nhiều tác giả, tác phẩm nghiên cứu về khái niệm nhân lực, tiêu biểu như:
Tác giả Phan Văn Kha [41] Nhân lực là người lao động được đào tạo ở một
trình độ nào đó để có năng lực tham gia vào lao động xã hội. Được cấu thành bởi
các yếu tố: kiến thức, kỹ năng, thái độ và thói quen làm việc.
Tác giả Nguyễn Hồng Tây [55] trong luận án tiến sĩ, cho rằng nhân lực là


13
tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia
trong thể thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính
năng động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia.

Theo Tổng cục thống kê [67] trong điều tra về lao động và việc làm hàng
năm, thuật ngữ “dân số trong độ tuổi lao động” được sử dụng thay thế cho “nhân
lực” phân theo các trình độ đào tạo, đây cũng là khái niệm khá phổ biến, thông dụng
được nhiều công trình, tác giả sử dụng.
Trong phạm vi vĩ mô, “Nhân lực” có thể hiểu là lực lượng lao động, là tổng
số những người tham gia lao động và những người thất nghiệp, có nhu cầu tìm kiếm
việc làm, sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động, đóng góp cho sự phát triển về
kinh tế - xã hội ở từng vùng và quốc gia.
Trong phạm vi một tổ chức, nhân lực được hiểu với nghĩa hẹp là nhân sự
của tổ chức.
1.2.1.3. Nhu cầu nhân lực trình độ đại học
Nhu cầu nhân lực trình độ ĐH [39], [49], [55] là nhu cầu thuộc phạm trù lịch
sử - xã hội, tương ứng với mỗi hình thái KT - XH, mỗi giai đoạn lịch sử sẽ có nhu
cầu khác nhau nhằm đảm bảo tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lịch sử xã hội loài người đã chỉ rõ trình độ kinh tế phát triển tuần tự từ nền kinh tế
nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp đến nền kinh tế tri thức, tương ứng với mỗi
thời đại kinh tế sẽ có cơ cấu nhân lực phù hợp và kéo theo là nhu cầu nhân lực
nhằm đáp ứng cho các yêu cầu khách quan của thời đại đó. Như vậy, trong nền kinh
tế tri thức nhân lực có trình độ, đặc biệt là trình độ ĐH có vị trí vô cùng quan trọng
cho sự phát triển của từng cơ sở, tổ chức, địa phương cũng như quốc gia.
Trong luận án “Nhu cầu nhân lực trình độ đại học” là nhu cầu sử dụng
người lao động đã được đào tạo trình độ đại học về số lượng, cơ cấu ngành nghề và
chất lượng đào tạo, đóng góp cho sự phát triển về kinh tế - xã hội ở các địa
phương, vùng miền và quốc gia.
1.2.1.4. Đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại học
Sự tiến bộ nhanh của khoa học kỹ thuật - công nghệ đòi hỏi mỗi cá nhân phải
tự đào tạo hoặc được đào tạo để thích ứng, cập nhật tiến bộ, đáp ứng sự thay đổi,
thích nghi với sự phát triển chung của xã hội hiện đại [27], [30], [65]. Trong các
hình thức đào tạo thì ĐTTX là hình thức đào tạo hiệu quả, thiết thực, khắc phục
được các trở ngại về mặt không gian, thời gian, điều kiện độ tuổi, giới tính, kinh tế,

trình độ … và quá trình đào tạo luôn có sự linh hoạt cả về chương trình, phương
pháp, thời gian, không gian, chi phí đào tạo... sẽ là cơ hội tiếp cận học tập cho mọi
người, đặc biệt là người lao động ở vùng sâu, vùng xa, đảm bảo thực hiện công
bằng trong tiếp cận giáo dục. Mặt khác, ĐTTX đáp ứng nhu cầu về đào tạo, đào tạo


14
lại ở các cấp trình độ, đặc biệt là nhu cầu nhân lực trình độ ĐH một cách hiệu quả,
cho số đông, thiết thực phục vụ cho quá trình CNH – HĐH và HNQT trong giai
đoạn hiện nay.
Khái niệm “Đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại học” được
hiểu trong luận án là: “Đào tạo trình độ đại học đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng
của cá nhân và cộng đồng, nhằm đáp ứng đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và đảm
bảo chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển về kinh tế - xã hội ở các địa phương,
vùng miền và quốc gia; người học có thể học ở mọi nơi, mọi lúc, trong môi trường
giáo dục mở, trong đó vai trò tự học của người học là chính cùng với sự hỗ trợ,
hướng dẫn trực tiếp/mặt giáp mặt và gián tiếp của người dạy, với sự hỗ trợ của hệ
thống nguồn học liệu mở và các phương tiện công nghệ thông tin và truyền thông
hiện đại của các cơ sở đào tạo nhân lực.
1.2.2. Vai trò và đặc điểm đào tạo từ xa
1.2.2.1. Vai trò
Nhiều tác giả, tác phẩm [30], [38], [50], [63], [65] khi nói về vai trò của
ĐTTX, đã có những nhận xét và đánh giá ở nhiều góc độ khác nhau nhưng đều
thống nhất ĐTTX có vai trò tích cực, hiệu quả và quan trọng như sau:
a. Đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục - đào tạo
Thời đại khoa học và công nghệ phát triển nhanh, yếu tố quyết định cho sự
tồn tại và phát triển hiện nay là kiến thức, kỹ năng và phẩm chất của đội ngũ nhân
lực. Bên cạnh đó, nhu cầu đào tạo, đào tạo lại số lượng lớn, trong thời gian ngắn lực
lượng lao động có trình độ cao, chiếm tỷ trọng lớn là điều không thể thực hiện với
đào tạo CQ bởi sự khống chế về quy mô, điều kiện đảm bảo và các quy định trong

đào tạo, quản lý nên vai trò của ĐTTX là lời giải cho bài toán trên.
Sự linh hoạt về chương trình, thời gian, không gian, điều kiện kinh tế, trình
độ và chi phí đào tạo sẽ là cơ hội học tập cho mọi đối tượng, đặc biệt là người lao
động vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo. Góp phần thực hiện nâng cao dân trí, đào
tạo và cung cấp nhân lực cho xã hội và nền kinh tế.
b. Thỏa mãn nhu cầu học tập suốt đời
ĐTTX góp phần tạo mọi điều kiện để cá nhân, đặc biệt là người lớn tuổi,
người đang có việc làm phát huy năng lực sáng tạo và học tập của bản thân, mọi
người có thể đáp ứng sở thích và thực hiện việc học nâng cao trình độ, cập nhật kiến
thức của bản thân nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống.
Trong thực tế, nếu để từng người tự đào tạo thì chỉ có một số ít người có
điều kiện làm được trong cuộc đời, còn đại đa số sẽ khó thực hiện. Do đó, ĐTTX
với chương trình, tổ chức đào tạo mềm dẻo, linh hoạt không đòi hỏi phải tập trung
học tập tại một nơi, tại một thời điểm như hình thức đào tạo truyền thống; có thể


15
học mọi nơi, mọi lúc với sự hướng dẫn của đội ngũ GV, các CSĐT, cùng sự hỗ trợ
bởi hệ thống công nghệ thông tin và truyền thông và học liệu, có thể giúp họ có
điều kiện học tập với chất lượng tốt hơn, giá thành thấp hơn và có thể thực hiện
trong suốt cuộc đời.
c. Thực hiện công bằng trong giáo dục
Muốn thực hiện được mục tiêu rút khoảng cách về trình độ sản xuất và đời
sống xã hội so với các quốc gia đang phát triển trong khu vực và trên thế giới,
ngoài việc nâng cao trình độ dân trí, phát triển nhanh lực lượng lao động trí tuệ
thì việc tạo môi trường, điều kiện cho đông đảo người dân có cơ hội được học
tập, được sử dụng hiểu biết của mình trong các hoạt động xã hội là yêu cầu cấp
thiết và quan trọng.
ĐTTX với nhiều thuận lợi cho phép phát triển nhanh, mạnh về số lượng, cơ
cấu ngành đào tạo, thực hiện mọi lúc, mọi nơi với mọi đối tượng, thỏa mãn nhu cầu,

nguyện vọng được học tập cũng như hỗ trợ tích cực công tác đào tạo nhân lực trình
độ ĐH, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu học suốt đời của người
dân, thiết thực xây dựng xã hội học tập, đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cho xã
hội trong quá trình HNQT như hiện nay. Hướng phát triển, các CSĐT cần đa dạng
hóa các hình thức trong ĐTTX bằng việc tổ chức nhiều trình độ, lĩnh vực/ngành đào
tạo nhằm đảm bảo cho mọi người dân, mọi tầng lớp được học tập, thiết thực đảm
bảo công bằng trong tiếp cận GD&ĐT.
d. Tính kinh tế và hiệu quả
ĐTTX tiêu biểu về tính kinh tế và hiệu quả, dù giai đoạn đầu, các CSĐT
thường phải đầu tư kinh phí lớn cho việc xây dựng, bố trí hạ tầng kỹ thuật, trang
thiết bị, tổ chức biên soạn học liệu, tài liệu hướng dẫn học tập, tổ chức hướng dẫn,
đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ về các vấn đề có liên quan đến ĐTTX… thường là
cao hơn so với đào tạo truyền thống nhưng sẽ thật sự giảm khi sỉ số SV các khóa
học tăng lên, số lượng SV càng đông thì càng kinh tế, càng hiệu quả. Mặc khác,
những chi phí liên quan đến SV và quản lý quá trình đào tạo trong ĐTTX thấp hơn
nhiều so với các hình thức đào tạo truyền thống.
Việc tổ chức và triển khai ĐTTX tại các CSĐT sẽ góp phần tận dụng được
đội ngũ GV, CBQL vốn có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm, hạn chế chi phí tuyển
dụng, đào tạo; tận dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn học liệu, các chương
trình CQ hiện đại; thậm chí tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi từ các CSĐT, xã hội
… sẽ góp phần giải quyết vấn đề kinh tế cho nhiều phía và nâng cao hiệu quả trong
đào tạo cho xã hội. Nếu cho rằng, hình thức đào tạo CQ góp phần bồi dưỡng nhân
tài thì đào tạo không CQ, trong đó có ĐTTX, là hình thức góp phần nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực cho đất nước hiệu quả và kinh tế nhất.
1.2.2.2. Đặc điểm


16
Qua các thông điệp của UNESCO, các tác giả [38], [56], [65] và từ thực tiễn
vận hành, tổ chức cho thấy ĐTTX có những đặc điểm rất riêng biệt, dễ nhận dạng

hơn so với các hình thức đào tạo khác:
a. Quá trình đào tạo, phần lớn có sự tách biệt giữa người dạy và người học,
khoảng cách (hay còn gọi là gián cách) giữa người dạy và người học là đặc điểm
đầu tiên để phân biệt ĐTTX. Tuy nhiên, đặc điểm này không phải của riêng ĐTTX,
thực tế, cũng có những “khoảng cách” giữa GV và SV trong một số hình thức đào
tạo khác. Ví dụ: nếu xem xét trong đào tạo truyền thống, sẽ nhận thấy một tỷ lệ nào
đấy của việc dạy và học cũng được thực hiện qua khoảng cách, như việc làm bài tập
ở nhà của SV, tỷ lệ đó tăng dần khi người học đạt đến trình độ ĐH. Khoảng cách,
yếu tố gắn liền hầu hết các hình thức đào tạo nhưng là yếu tố trội nhất của ĐTTX.
Cần lưu ý, khoảng cách trong ĐTTX có hai dạng: một dạng có khoảng cách
hoàn toàn, trong cách thức tổ chức đào tạo này có sự cách biệt hoàn toàn giữa người
dạy và người học, mọi hoạt động dạy và học thông qua phương tiện kỹ thuật, công
nghệ bởi sự quản lý, giám sát của CSĐT; một dạng có khoảng cách một phần giữa
người dạy và người học, trong hoạt động dạy và học này, người học bên cạnh việc
tự học là chính thông qua phương tiện kỹ thuật và học liệu nhưng có sự "xuất hiện"
và hỗ trợ với tính chất hướng dẫn của người dạy, thường là giai đoạn đầu (giới thiệu
nội dung chương trình, khái quát môn học…) và giai đoạn cuối (trao đổi, giải đáp
thắc mắc, hướng dẫn bài tập ...) của quá trình học một môn học, đây là dạng đào tạo
mà phần lớn các CSĐT có tổ chức ĐTTX ở Việt Nam đang tổ chức thực hiện.
b. Tổ chức và hỗ trợ của các CSĐT để phát huy cao nhất sự nỗ lực tự học của
người học. Khả năng tự học của SV trong ĐTTX tuy được đề cao nhưng vai trò
quản lý và hỗ trợ của CSĐT vẫn giữ chủ đạo. Thông qua các nội dung: đội ngũ
CBQL, GV tư vấn, hướng dẫn; nội dung, chương trình, kế hoạch đào tạo; biên soạn
và phân phối học liệu; tổ chức hướng dẫn, giải đáp; kiểm tra học phần; kết quả khóa
học; cấp bằng tốt nghiệp; hỗ trợ sau tốt nghiệp ... Ngoài ra, công tác quản lý của
CSĐT đối với ĐTTX còn thể hiện trong việc chịu trách nhiệm với Nhà nước, người
học, CSSDNL, xã hội về chất lượng “sản phẩm” đào tạo - SVTN.
c. Sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật, các loại học liệu, thể hiện rõ qua
việc thông tin tuyển sinh; kế hoạch, thời khóa biểu; tổ chức học tập; kiểm tra và các
thông tin có liên quan ... trên hệ thống website, tin nhắn của CSĐT, đặc biệt thấy rõ

hơn cả là ở các hình thức lớp học trực tuyến.
d. Thông tin hai chiều trong quá trình dạy – học, có một vai trò quan trọng vì
ĐTTX bị chi phối bởi khoảng cách không gian, thời gian và đặc biệt là khoảng cách
tâm lý. Muốn khắc phục vấn đề trên cần tổ chức tốt tương tác giữa GV và SV, giữa
SV và SV, giữa SV với CSĐT để duy trì động cơ, nhịp độ học tập của người học.
đ. Sự trợ giúp của đội ngũ GV hướng dẫn và tỷ lệ hướng dẫn tập trung tùy


17
thuộc vào nội dung, phương tiện giảng dạy của từng chương trình, từng môn học.
Đây cũng là điểm đặc thù của ĐTTX ở Việt Nam, gặp gỡ giữa SV và GV tham gia
học tập từ xa có ý nghĩa, vai trò và đặc biệt hiệu quả trong điều kiện, hoàn cảnh hiện
nay ở nước ta, vì bên cạnh việc tạo điều kiện cho SV có thể trực tiếp trao đổi ý kiến,
thảo luận, nêu những thắc mắc, khó khăn trong quá trình tự học, giúp SV hiểu rõ,
chắc và sâu về vấn đề, thông qua đó còn giúp SV duy trì động cơ học tập và hoàn
chỉnh nhân cách, khi SV được tiếp xúc với đội ngũ GV tâm huyết, trình độ.
e. Theo năng lực cá nhân, trong quá trình học, SV luôn hoàn toàn tự chủ, tự
xác định được nhu cầu, kế hoạch học tập khi phải đối mặt với một nội dung, tình
huống, vấn đề khó khăn hoặc cần quan tâm, người học tự chủ biết thu thập thông tin
mình cần, thực hiện các kỹ năng, cố gắng giải quyết các vấn đề, cuối cùng đạt được
những mục tiêu đã xác định. Từ năng lực của mình, SV tự quyết định nhịp độ, quá
trình học tập thông qua sự hướng dẫn GV, kế hoạch, quy trình tổ chức các CSĐT.
f. ĐTTX có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ cho việc học tập suốt đời
(HTSĐ) trong xã hội học tập và hệ thống giáo dục thường xuyên (GDTX). Sự kết
nối, hỗ trợ và tác động qua lại giữa ĐTTX, học tập suốt đời, xã hội học tập và
GDTX sẽ góp phần bổ sung, hỗ trợ nhằm hoàn thiện và lớn mạnh của từng hình
thức trong hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam hiện nay cũng như tương lai.
1.2.3. Nhu cầu đào tạo nhân lực trình độ đại học thông qua đào tạo từ xa
1.2.3.1. Nhu cầu nhân lực trình độ đại học thông qua đào tạo từ xa gắn với việc
xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời và giáo dục thường xuyên

Bàn về ĐTTX, quản lý ĐTTX đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH không
thể không nói đến các nội dung, các vấn đề có liên quan mật thiết đó là các chủ
trương, chính sách, chiến lược ủng hộ cho ĐTTX tồn tại và phát triển, thông qua nội
dung HTSĐ và chủ trương xây dựng XHHT tập và vai trò song hành, mối quan hệ
giữa GDTX [35], [50], [60], [62] với ĐTTX trong đáp ứng nhu cầu nhân lực trình
độ ĐH.
a. Học tập suốt đời là một quá trình học tập có mục đích, có định hướng
trong suốt cuộc sống của một cá nhân từ lúc chào đời cho đến lúc rời xa cuộc sống,
không phải học tùy hứng, ngẫu nhiên mà được thực hiện theo các hình thức đào tạo
CQ, không chính quy và cả phi chính quy. Ở đó, mỗi người đều có mục đích học
tập riêng của mình, mà theo UNESCO đó là: “Học để biết, học để làm, học để
chung sống, học để làm người”.
Với đối tượng HTSĐ, thực tế luôn đa dạng, phong phú về trình độ, kiến thức,
giới tính, độ tuổi, điều kiện kinh tế, sức khỏe, việc làm, nhu cầu … thì việc học mọi
lúc mọi nơi bởi ĐTTX sẽ hữu hiệu và tác dụng tích cực hơn. ĐTTX đáp ứng nhu
cầu nhân lực trình độ ĐH sẽ là cơ hội, động lực cho quá trình HTSĐ của mỗi cá


18
nhân; góp phần đào tạo, đào tạo lại nhân lực cho xã hội.
b. Xã hội học tập là một xã hội trong đó tất cả các tổ chức và cá nhân trong
xã hội đều là người cung cấp giáo dục, chứ không riêng gì các cơ quan quản lý nhà
nước. Mặt khác, toàn thể công dân trong xã hội đều phải tích cực tham gia học tập
và triệt để tận dụng các cơ hội, theo đuổi bằng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng do
xã hội học tập cung cấp nhằm đạt mục tiêu học tập.
Như vậy, việc tốt nghiệp một trình độ, một chương trình đào tạo nào đó, với
những kiến thức được trang bị, kỹ năng có được và lao động suốt đời đã không còn
phù hợp. Mỗi người lao động cần được bồi dưỡng thường xuyên hoặc được đào tạo
lại để có thể thích ứng với những thay đổi của ngành nghề hoặc để có thể chuyển
đổi nghề. Cần thiết phải tổ chức đa dạng các hình thức, nội dung, chương trình đào

tạo về thời gian, không gian, phương pháp học tập trong ĐTTX trình độ ĐH góp
phần hỗ trợ nhu cầu HTSĐ và ủng hộ thiết thực xây dựng XHHT của vùng và quốc
gia.
c. Giáo dục thường xuyên (Continuing Education) [35], [50] là một khái
niệm rộng rãi bao gồm toàn thể các cơ hội học tập mà mọi người đều mong muốn
hoặc cần có sau xóa mù chữ cơ bản và giáo dục tiểu học; là giáo dục tiếp tục sau khi
biết chữ nhằm thúc đẩy sự phát triển tài nguyên con người; có chức năng thay thế,
tiếp nối, bổ sung và hoàn thiện kiến thức cho giáo dục CQ; GDTX cung cấp cơ hội
để mọi người được HTSĐ, hỗ trợ xây dựng XHHT.
Trong xã hội luôn biến đổi và phát triển, hoạt động đào tạo chỉ diễn ra trong
CSĐT trở nên phiến diện và lạc hậu. Thay vào đó là quan niệm rộng về đào tạo, diễn ra
cả trong và ngoài CSĐT gồm có đào tạo CQ, không CQ, phi CQ và thực hiện trong
suốt cả cuộc đời của mỗi người học, việc đi học trong CSĐT chỉ chiếm một phần nhỏ
của cuộc đời, còn phần lớn là học theo các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
… như thế phối hợp và song hành cùng GDTX, hình thức ĐTTX sẽ cung ứng thường
xuyên cơ hội học tập suốt đời; bổ sung và cập nhật những kiến thức, kĩ năng còn thiếu
trong đào tạo CQ; đồng thời bảo đảm một sự phát triển và nâng cấp không ngừng về tài
nguyên con người trong suốt cuộc đời của toàn thể công dân.
Các điều trên đã được quy định rõ trong Luật Giáo dục năm 2005 [15],
nhiệm vụ của GDTX: “Giúp mọi người VLVH, học liên tục, học suốt đời nhằm
hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn,
nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích
nghi với đời sống xã hội.” (Điều 44).
GDTX và ĐTTX đặc biệt ở trình độ ĐH, đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ
ĐH đã và đang song hành và bổ sung cho nhau, vừa là môi trường vừa là điều kiện
hỗ trợ cho sự tồn tại và phát triển của nhau. Điều cần làm của hệ thống GD&ĐT và


19
các CSĐT là cần nghiên cứu, bổ sung các quy định, chính sách hỗ trợ và khai thác

thế mạnh của mỗi bên để góp phần thúc đẩy GDTX và ĐTTX ngày càng phát triển,
đóng góp nhiều và tốt hơn cho xã hội và đất nước trong công tác đào tạo và đào tạo
lại nhân lực, trọng tâm hiện nay là nhân lực trình độ ĐH.
1.2.3.2. Phát triển kinh tế - xã hội cùng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nhu cầu
nhân lực trình độ đại học thông qua đào tạo từ xa
Phát triển KT – XH luôn gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dẫn đến
nhu cầu nhân lực đáp ứng, đặc biệt là nhân lực trình độ ĐH, giữa các yếu tố trên có
mối quan hệ gắn bó, nhân - quả với nhau [25], [31], [39]. Giai đoạn hiện nay, giai
đoạn thực hiện CNH, HĐH, đây là quá trình chuyển đổi KT - XH để phát triển từ
một nước nông nghiệp, lạc hậu, với lao động thủ công là chủ yếu, chiếm đa số sang
một nước công nghiệp hiện đại, ứng dụng ngày càng rộng rãi các công nghệ,
phương tiện tiên tiến vào các lĩnh vực sản xuất và đời sống xã hội. Quá trình đó, tất
yếu sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế, kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động, làm
thay đổi tỷ lệ lao động trong tất cả các lĩnh vực và tất yếu dẫn đến nhu cầu nhân lực
qua đào tạo, đặc biệt là nhân lực trình độ ĐH để đáp ứng.
Mặt khác, KT - XH càng phát triển thì khả năng đầu tư của Nhà nước và xã
hội cho công tác đào tạo nhân lực trình độ ĐH càng tăng, nhận thức và sự quan tâm
của xã hội càng tăng sẽ tạo cơ hội và môi trường thuận lợi cho công tác đào tạo
nhân lực trình độ ĐH phát triển. Nhờ vậy, đào tạo nhân lực trình độ ĐH càng có đủ
điều kiện để đào tạo đội ngũ nhân lực có chất lượng, đáp ứng nhu cầu về số lượng,
cơ cấu. Nhân lực được đào tạo tốt sẽ góp phần đẩy mạnh, nhanh hơn phát triển KT XH. Ngược lại, nếu nền KT - XH kém phát triển dẫn đến đầu tư cho đào tạo nhân
lực trình độ ĐH thấp, thiếu phương tiện kỹ thuật hiện đại, đội ngũ chất lượng, kết
quả đội ngũ lao động được đào tạo không cao nên năng suất và hiệu quả tham gia
lao động ở các lĩnh vực thấp, sẽ lại càng làm cho nền kinh tế khó khăn, chậm phát
triển, kéo theo là chất lượng cuộc sống thấp, xã hội chậm phát triển.
Đáp ứng được đội ngũ nhân lực trình độ ĐH cho các CSSDNL, cộng đồng
và xã hội nhanh, trong thời gian ngắn, đảm bảo cả về số lượng, cơ cấu ngành nghề
và chất lượng phục vụ cho quá trình chuyển đổi là vấn đề quan trọng nhưng hết sức
nan giải đối với hệ thống GD&ĐT, đặc biệt là hệ thống đào tạo ĐH chính quy trong
giai đoạn hiện nay, vì các lý do: quan điểm về đào tạo trình độ ĐH lạc hậu; vấn đề

về tuyển và sử dụng đội ngũ GV, CBQL; sự hạn chế trong đầu tư cơ sở vật chất,
trang thiết bị, học liệu và tài chính trong thời gian khá dài, đã làm cho hệ thống
nặng nề, chậm thích ứng … Để đáp ứng cho sự phát triển KT - XH, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và nhu cầu nhân lực trình độ ĐH nêu trên, trong hiện tại và tương lai thì
không thể không nói đến ĐTTX với nhiều tính năng ưu việt, khả năng thích ứng và


20
sự linh hoạt, đây sẽ là hướng lựa chọn trong chiến lược phát triển nhân lực và
GD&ĐT của vùng và đất nước trong hiện tại và tương lai.
Sự đáp ứng nhân lực trình độ ĐH thông qua ĐTTX cần phải được xem xét
trên cơ sở số lượng, cơ cấu và chất lượng đào tạo như sau:
Về số lượng nhân lực trình độ ĐH thông qua ĐTTX phải được thể hiện qua
các chỉ tiêu tuyển sinh, quy mô đào tạo, số lượng nhân lực qua đào tạo tính trên vạn
dân, mức độ phổ cập của hình thức trong hệ thống giáo dục ĐH quốc dân, tốc độ
tăng nguồn nhân lực trình độ ĐH qua ĐTTX, cơ cấu độ tuổi, giới tính và số lượng
nhân lực trình độ ĐH được đào tạo thông qua ĐTTX, tỷ lệ được đào tạo và tốt
nghiệp được phân bổ theo khu vực thành thị và nông thôn, vùng miền… Việc xác
định thông qua các số liệu trên sẽ hỗ trợ thiết thực cho xây dựng quy hoạch ĐTTX,
tổ chức đào tạo đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực trình độ ĐH.
Về cơ cấu nhân lực trình độ ĐH thông qua ĐTTX gồm các nội dung: trình độ
(bậc học, trình độ đào tạo, cấp bằng và không cấp bằng); ngành đào tạo (nhóm
ngành, lĩnh vực/ngành, chuyên ngành rộng, hẹp); vùng miền (thành thị, nông thôn,
đồng bằng, miền núi, hải đảo); giới tính (nam, nữ); độ tuổi (trẻ, già). Tìm hiểu rõ sẽ
giúp công tác xây dựng các chương trình, nội dụng đào tạo phù hợp, tạo sự cân đối
giữa các lĩnh vực/ngành đào tạo, chú trọng các lĩnh vực/ngành công nghệ, kỹ thuật
cao, những ngành đào tạo Việt Nam có ưu thế cạnh tranh, tránh tình trạng vừa thừa
vừa thiếu nhân lực trình độ ĐH, đặc biệt nhân lực thông qua ĐTTX.
Về chất lượng là những đặc trưng về trạng thái, thể lực, trí lực, phong cách,
lối sống và đạo đức của người lao động. Được đánh giá trên ba mặt: sức khỏe; trình

độ học vấn, trình độ CMKT và năng lực phẩm chất đạo đức của người lao động, hay
nói cách khác đó là ba yếu tố: thể lực, trí lực và tâm lực. Việc xác định các nội
dung, yếu tố trên, sẽ là cơ sở cho việc xây dựng và thiết kế các chương trình, nội
dung đào tạo vừa phù hợp với điều kiện thể lực người học, phát huy năng lực mỗi
cá nhân, đồng thời đảm bảo việc cung ứng nhân lực trình độ ĐH đa dạng, phong
phú, năng động, thích ứng và đóng góp hiệu quả cho sự phát triển của xã hội.
1.2.4. Nội dung đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại học
Đào tạo [31], [37], [52] là hoạt động chuyển giao có hệ thống, có phương
pháp những kinh nghiệm, những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp
chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị
tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng bảo
vệ đất nước.
Đây là hoạt động mang tính phối hợp giữa các chủ thể dạy học (người dạy và
người học), là sự thống nhất hữu cơ giữa hai mặt dạy và học tiến hành trong một
CSĐT, được quy định một cách chặt chẽ, cụ thể về mục tiêu, chương trình, nội


21
dung, phương pháp, hình thức tổ chức, phương tiện kỹ thuật, học liệu cũng như về
thời gian và đối tượng đào tạo cụ thể. Được triển khai thực hiện theo một quá trình
xuyên suốt từ đầu vào, quá trình cho đến đầu ra. Điểm quan trọng của ĐTTX đáp
ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH là đầu ra của quá trình đào tạo, là SV tốt nghiệp
phải thỏa và đáp ứng những yêu cầu về vị trí việc làm của các CSSDNL, có thể
nhanh chóng thích ứng và sẵn sàng tích cực tham gia vào hoạt động của các
CSSDNL và thị trường lao động.
Với những yêu cầu trên, nội dung quá trình ĐTTX được thực hiện như sau:
1.2.4.1. Yếu tố đầu vào
a. Chương trình ĐTTX: chương trình đào tạo phải dựa vào chuẩn đầu ra, tức
vị trí việc làm của SVTN từ đó tham khảo, xây dựng, thẩm định và ban hành
chương trình đào tạo. Các chương trình phải đảm bảo đa dạng, phong phú ở nhiều

lĩnh vực/ngành, chuyên ngành sâu … đáp ứng với nhu cầu đa dạng, phong phú của
từng đối tượng người học trong một XHHT, nhu cầu của từng CSSDNL và thị
trường lao động trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển nhanh, nhiều ngành,
nghề cũ mất đi và nhiều ngành nghề mới xuất hiện.
Trong ĐTTX, chương trình đào tạo cần lưu ý đến việc tương thích giữa nội
dung chương trình với các phương tiện kỹ thuật và học liệu, đảm bảo sự thuận tiện
và tạo động lực trong học tập cho SV.
Các chương trình đào tạo phải được công bố công khai đến tất cả các đối
tượng có liên quan, có nhu cầu về nội dung, thời gian, phương pháp đào tạo cũng
như đảm bảo thực hiện đúng các nội dung đã được công bố.
b. Tuyển sinh: với đối tượng và hình thức tổ chức đào tạo đa dạng và linh
hoạt, nên trong tuyển sinh, các CSĐT cần tiến hành tổ chức tư vấn hướng nghiệp,
giúp các thí sinh cũng như CSSDNL lựa chọn và quyết định các lĩnh vực/ngành và
thời gian đào tạo phù hợp với điều kiện và nhu cầu. Tiến hành quảng bá định kỳ,
thường xuyên và rộng rãi đến tất cả các đối tượng, đồng thời với ứng dụng công
nghệ thông tin trong thông tin, xét tuyển để đảm bảo công tác tuyển sinh được thực
hiện đúng đối tượng, ngành đào tạo và số lượng.
Công tác phân loại, lưu trữ và quản lý hồ sơ tuyển sinh cũng phải được tiến
hành khoa học, cẩn thận và nghiêm túc.
c. Đội ngũ Giảng viên: xác định đặc thù của hình thức và đối tượng người
học, trong ĐTTX cần sàng lọc, chọn và ký hợp đồng với đội ngũ GV cơ hữu của
CSĐT, thỉnh giảng là quan trọng nhằm đáp ứng việc giảng dạy đúng các môn học,
đúng đối tượng và cho các ngành đào tạo theo từng năm học. Cần lưu ý đến tổ chức
cho GV nghiên cứu, thống nhất và cam kết thực hiện đúng nội dung, chương trình,
kế hoạch giảng dạy phù hợp với từng đối tượng người học, từng CSSDNL.
Đáp ứng nhu cầu CSSDNL còn thể hiện ở việc mời đội ngũ chuyên viên


22
giỏi, lành nghề từ các CSSDNL tham gia ngoài việc xây dựng, thẩm định các

chương trình đào tạo còn tham gia giảng dạy, hướng dẫn và đánh giá kết quả học
tập và tốt nghiệp cho SV.
d. Phương tiện kỹ thuật, học liệu: trong ĐTTX ngoài việc khai thác hợp lý cơ
sở vật chất của CSĐT, vấn đề quan trọng là việc khai thác hiệu quả và hợp lý các
phương tiện kỹ thuật, nguồn học liệu phục vụ cho từng chương trình, đối tượng đào
tạo theo kế hoạch giảng dạy học kỳ, năm và khóa học.
Đáp ứng cho sự phát triển về khoa học công nghệ, nhu cầu của CSSDNL,
các CSĐT luôn có kế hoạch đầu tư mua sắm, đổi mới, nâng cấp thường xuyên
phương tiện kỹ thuật: máy móc, thiết bị, phần mềm...phù hợp và hiện đại.
Ngoài ra, cần lưu ý với đến đặc thù các buổi học trực tuyến hoặc các buổi
học có hướng dẫn nhằm bố trí, khai thác và sử dụng hiệu quả các phương tiện kỹ
thuật tương ứng, tạo thuận lợi cho người học. Phân phối học liệu phù hợp với từng
chương trình đào tạo, đảm bảo giúp SV tự học, tự nghiên cứu.
e. Tài chính: chi phí luôn là vấn đề được quan tâm của cả CSĐT và SV, để
thực hiện được nhiệm vụ và vai trò của ĐTTX trong đào tạo nhân lực trình độ ĐH,
các CSĐT phải quan tâm và xác định mức học phí từng ngành thật phù hợp; công
khai tài chính, đặc biệt là học phí cho SV và cộng đồng nắm; tổ chức thu, chi theo
định mức và kế hoạch được phê duyệt.
1.2.4.2. Yếu tố quá trình
a. Hoạt động dạy và hướng dẫn sinh viên: điều kiện, đặc điểm của đối tượng
tham gia học từ xa, nên GV cần phải thực hiện kế hoạch, nội dung chương trình và
đảm bảo chất lượng giảng dạy theo đúng như cam kết ban đầu.
GV soạn giáo án, tài liệu hướng dẫn công phu, chuyển tải được các nội dung
môn học, có cập nhật, áp dụng và sử dụng hiệu quả phương pháp dạy học đa dạng
như học tập nhóm, xem người học làm trung tâm, cũng như các phương tiện kỹ
thuật hỗ trợ sẽ góp phần hỗ trợ hiệu quả quá trình tự học, tự nghiên cứu, lĩnh hội các
tri thức của SV.
Việc xác định và thực hiện đúng kế hoạch trong dạy và hướng dẫn SV, có tác
dụng thúc đẩy quá trình và tạo động cơ học tập của SV.
b. Hoạt động học và tự học của sinh viên: tự học, tự nghiên cứu là một trong

những đặc điểm nổi bật của hình thức ĐTTX, tính tự giác và ý thức học tập phải
thật sự được phát huy cao để đạt đến kết quả. Do đó, phải luôn hướng tới việc tư
vấn, hướng dẫn để SV tự xác định kế hoạch học tập, khối lượng kiến thức cần tích
lũy, nắm vững các kiến thức chuyên môn, chủ động trong học tập, thảo luận, đạt
được mục đích học tập … thực hiện được các nội dung trên, SV cần được sự hỗ trợ,
đầu tiên là hệ thống học liệu phong phú; phương tiện kỹ thuật để truy cập bài giảng,


23
tài liệu tham khảo có liên quan; tham khảo và tiến hành làm các bài tập trên hệ
thống trực tuyến; sự hỗ trợ tích cực, nhiệt tình của đội ngũ GV và CSĐT; SV thuận
tiện trong thảo luận, trao đổi giữa GV với SV, giữa SV với SV về các vấn đề có liên
quan đến kế hoạch, môn học và các vấn đề liên quan đến học vụ.
c. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên: đây là được xem là khâu
quan trọng nhằm giúp các CSĐT thông qua công tác trên, nhận thức được sự thích
ứng và hiệu quả của các chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp giảng dạy,
hướng dẫn của GV, khả năng học và tự học của SV.
Để đảm bảo việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV được tiến hành
tốt, đồng bộ và đảm bảo đúng kế hoạch, khách quan, công bằng và chính xác, đòi
hỏi SV phải được cung cấp đủ và đúng các kế hoạch cùng yêu cầu, nội dung cần
chuẩn bị cho các đợt kiểm tra, đánh giá. GV và các CSĐT cần tiến hành tổ chức
kiểm tra, đánh giá và phản hồi thông tin, kết quả đánh giá theo đúng kế hoạch, nội
dung đối với các môn học đến SV. Đến lượt SV đảm bảo tham gia đầy đủ các đợt
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trên lớp cũng như các môn học tổ chức đánh giá
trực tuyến.
1.2.4.3. Yếu tố đầu ra
Đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực trình độ ĐH, đòi hỏi các CSĐT có hình
thức ĐTTX không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và tốt
nghiệp của SV và theo mô hình CIPO tức là không chỉ dừng lại ở output, mà đòi hỏi
các CSĐT phải tiến tới thực hiện thu thập và đánh giá được các thông tin có liên

quan đến SV sau khi tốt nghiệp - tức outcome, từ đó có bước điều chỉnh, bổ sung
nhằm đáp ứng nhu cầu người học và CSSDNL.
a. Thông tin việc làm của SV sau khi tốt nghiệp: tìm hiểu, thu thập và nắm
thông tin khả năng tìm việc của SV sau khi tốt nghiệp, thời gian tìm được việc làm,
vị trí việc làm, khả năng tự học, tự nghiên cứu và học tập ở trình độ cao hơn.
b. Thông tin phát triển nghề nghiệp của SV: được tuyển dụng và bố trí đúng
ngành đào tạo, không phải đào tạo lại, thu nhập ổn định, có cơ hội phát triển và
thăng tiến trong nghề nghiệp của SV, khả năng thích ứng với sự biến đổi của môi
trường và sự thay đổi của kỹ thuật, sản xuất, xã hội.
c. Thông tin sự thỏa mãn nhu cầu của CSSDNL và cộng đồng: quan trọng
hơn cả là đánh giá được sự hài lòng, thỏa mãn nhu cầu của CSSDNL về “sản phẩm”
– SVTN hình thức ĐTTX gồm số lượng, cơ cấu và chất lượng cũng như thời gian
cung cấp, đáp ứng nhân lực.
1.2.4.4. Yếu tố bối cảnh
a. Chính sách cho ĐTTX: các chủ trương, chính sách của các cơ quan quản
lý Nhà nước từ trung ương đến địa phương, các chính sách của các bên có liên quan


24
trong GD&ĐT, cũng như ở các CSĐT, CSSDNL nếu được ban hành phù hợp, rõ
ràng, đúng thời điểm và được thực hiện linh hoạt sẽ là động lực, tác động mạnh, hỗ
trợ cho ĐTTX phát triển.
b. Sự tham gia và hỗ trợ của CSSDNL: sự tham gia của CSSDNL vào quá
trình ĐTTX có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, sự tham gia đó thể hiện qua mối liên
kết giữa CSĐT và CSSDNL. Mối liên kết hiệu quả sẽ giúp các bên có liên quan
phát huy thế mạnh, hỗ trợ nhau về nhiều mặt: nhân lực (cử đội ngũ chuyên gia giỏi
tham gia xây dựng và thẩm định các chương trình, tham gia giảng dạy, hướng dẫn,
đánh giá); tài lực (tài trợ tài chính thông qua học bổng, kinh phí đào tạo, tổ chức
sự kiện …); vật lực (hỗ trợ thông qua việc cho SV đến tham gia, thực tập, thực tế,
đầu tư mua sắm phương tiện kỹ thuật phục vụ ĐTTX…), đồng thời còn tổ chức

tuyển dụng, đặt hàng đào tạo. Xây dựng và đánh giá cơ chế, chính sách phối hợp
giữa các bên. Sự tham gia của CSSDNL thể hiện và đảm bảo thực hiện đáp ứng
được cung – cầu trong đào tạo và sử dụng nhân lực trình độ ĐH.
c. Sự tham gia và ủng hộ của cá nhân, cộng đồng: mong muốn học tập để
nâng cao trình độ, cập nhật và tăng kiến thức trong XHHT và HTSĐ, học để cải thiện
chất lượng cuộc sống, học để có khả năng tự tìm và tạo được việc làm tốt hơn.
Sự tham gia và ủng hộ của cộng đồng sẽ góp phần tuyên truyền hình thức
ĐTTX, động viên và đầu tư cho người thân, gia đình và xã hội tìm hiểu, có quan
niệm đúng, tin tưởng và tích cực tham gia học tập hình thức ĐTTX; đồng thời, hỗ trợ
về CSVC, tài chính cho ĐTTX phát triển; chính quyền địa phương và các tổ chức
Hội, Đoàn “đặt hàng” đào tạo nhân lực trình độ đại học thông qua hình thức ĐTTX;
tham gia giảng dạy và hướng dẫn, hỗ trợ địa điểm cho SV thực tập, thực tế.
Sự tham gia và ủng hộ của cá nhân, cộng đồng sẽ dẫn đến nhu cầu đào tạo,
qua đó khuyến khích các CSĐT tăng cường mở ngành, đầu tư phương tiện kỹ thuật,
học liệu và đội ngũ GV đáp ứng nhu cầu, đảm bảo về số lượng, cơ cấu và chất
lượng trong đào tạo.
1.3. Quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại học
1.3.1. Quản lý đào tạo từ xa
Quản lý [34], [40], [43], [46], [47], [48] là vấn đề phức tạp vì đối tượng hoạt
động càng đa dạng bao nhiêu thì lại càng đòi hỏi phải có các biện pháp quản lý
phong phú bấy nhiêu. Do đó, từ đặc thù của ĐTTX nên công tác quản lý ĐTTX
khác với quản lý đào tạo truyền thống “mặt đối mặt”. ĐTTX lấy tự học của người
học là chính; hỗ trợ cho quá trình học tập trên là sự hỗ trợ của CSĐT thông qua hệ
thống công nghệ thông tin và truyền thông cùng hệ thống phương tiện kỹ thuật, học
liệu, đĩa tiếng, đĩa hình… và sự hướng dẫn của GV nên trong quản lý ĐTTX cần
thiết dựa vào những đặc điểm trên để quản lý đạt hiệu quả cao nhất.


25
Với hướng tiếp cận theo các thành tố của quá trình ĐTTX, nhu cầu của các

CSSDNL (cung – cầu) và theo các chức năng quản lý thì quản lý ĐTTX là quản lý các
nội dung/thành tố từ đầu vào, quá trình dạy học, kết quả đầu ra nhằm đào tạo nhân lực
trình độ ĐH, đáp ứng nhu cầu của người học, đáp ứng đủ về số lượng, hợp lý về cơ
cấu, đảm bảo về chất lượng theo chuẩn đầu ra, cho nhu cầu phát triển về KT - XH của
các CSSDNL, của các địa phương, vùng miền và quốc gia.
Do đó, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, khái niệm “Quản lý đào tạo từ
xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại học” là hoạt động quản lý của các cơ sở
đào tạo đại học từ xa đối với các thành tố của quá trình đào tạo từ xa trình độ đại
học từ đầu vào, quá trình dạy học, kết quả đầu ra nhằm đào tạo nhân lực trình độ đại
học, đáp ứng đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo về chất lượng theo chuẩn
đầu ra, đáp ứng nhu cầu phát triển về kinh tế - xã hội của các địa phương, vùng miền
và quốc gia.
1.3.2. Tiếp cận quản lý đào tạo từ xa đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ đại
học
Các hướng tiếp cận sẽ có tác động và ảnh hưởng đến quá trình, tổ chức và
kết quả nghiên cứu, đặc biệt trong nghiên cứu quản lý và trong tổ chức quản lý [13],
[43], [46], [48]. Có nhiều hướng tiếp cận khác nhau tùy theo tính chất, đặc thù của
vấn đề nghiên cứu, đảm bảo định hướng cho nghiên cứu đạt hiệu quả.
1.3.2.1. Tiếp cận các thành tố của quá trình ĐTTX
Với đặc thù ĐTTX có hướng dẫn đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH.
Quản lý quá trình ĐTTX bao gồm:
- Quản lý xây dựng, thẩm định và ban hành quy hoạch ĐTTX của CSĐT
nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ ĐH cho các cá nhân, cộng đồng và các
CSSDNL trong hiện tại và tương lai.
- Quản lý quá trình thực hiện quy hoạch ĐTTX, gồm:
Quản lý đầu vào: là quản lý tất cả các thành tố như chương trình; tuyển sinh;
đội ngũ GV; quản lý phương tiện kỹ thuật, học liệu; tài chính.
Quản lý quá trình dạy và học: hoạt động dạy, hướng dẫn của đội ngũ GV;
hoạt động học, tự học của SV; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của SV.
Quản lý đầu ra: tức không chỉ dừng lại ở đầu ra (Output), kết quả SV tốt

nghiệp ra trường là chưa đủ, mà phải là quan tâm đến kết quả đầu ra (Outcome), đó
là đội ngũ SVTN ra trường có thỏa mãn được nhu cầu học tập của cá nhân, lượng
kiến thức được cung cấp, khả năng tiếp tục học tập lên trình độ cao hơn, hay khả
năng tham gia thị trường lao động, có cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp và đáp
ứng các hoạt động của CSSDNL và xã hội. Cộng đồng và CSSDNL có thỏa mãn,
ủng hộ và tiếp nhận “sản phẩm đào tạo” – SVTN.


×