Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn Tiếng thở dài qua rừng kim tước của Hồ Anh Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.5 KB, 75 trang )

Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

BẢNG VIẾT TẮT
BTMT: Biểu thức miêu tả
TPPT: Thành phần phụ trước
TPTT: Thành phần trung tâm
TPPS: Thành phần phụ sau
DT: Danh từ
ĐT: Động từ
TT: Tính từ
Đ.T: Đại từ
GT: Giới từ

1


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Chiếu vật là vấn đề thứ nhất của Ngữ dụng học. Nghiên cứu về chiếu vật
không thể không quan tâm đến biểu thức miêu tả (BTMT) bởi đó là một phương
thức chiếu vật quan trọng. Nhìn nhận BTMT dưới góc độ ngữ pháp, góc độ của
cụm từ chính phụ không còn là điều mới mẻ. Kết quả nghiên cứu dường như
mang tính ổn định. Dưới góc độ Ngữ dụng học, việc nghiên cứu BTMT mới chỉ
dừng lại ở tìm hiểu chức năng chiếu vật của chúng. Sự vật có thể được biểu hiện
theo lối định danh hoặc theo lối miêu tả (bằng tổ hợp từ miêu tả hay BTMT).
Biểu vật theo lối miêu tả chỉ ra các đặc điểm của sự vật rõ ràng phụ thuộc vào
chủ quan của người quan sát. Miêu tả không chỉ để miêu tả mà chức năng của nó
là hướng người nghe, người đọc tới một kết luận ngầm ẩn nào đó. Các công
trình nghiên cứu về ngữ dụng học của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp đều


viết về BTMT. Song, các nhận xét của các tác giả dừng lại ở mức độ khái quát
do chưa có điều kiện đi sâu vào BTMT trong những trường hợp giao tiếp cụ thể,
trong một tác phẩm văn chương (TPVC). Những đặc điểm về cấu tạo, từ loại,
trật tự sắp xếp của BTMT trong một tác phẩm văn học có những nét đặc sắc
riêng, vừa giúp thể hiện nội dung, tư tưởng, vừa mang đậm dấu ấn nhà văn. Tìm
hiểu đặc điểm cấu tạo, ý nghĩa của BTMT trong một tác phẩm văn học cụ thể
còn là một hướng đi mới mẻ.
Cùng với Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh, Phạm Thị Hoài…, Hồ
Anh Thái là một trong những nhà văn của thời kì đổi mới, một nhà văn thực sự
say mê với nghề viết, “bị quyến rũ” bởi ngôn ngữ văn học. Với thời gian sống
và làm việc ở Ấn Độ cũng như nghiên cứu văn hoá Phương Đông, anh có điều
kiện suy tư về vấn đề số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ. Có thể nói,
“Tiếng thở dài qua rừng kim tước” trong tập truyện cùng tên là một trong những
truyện ngắn hay nhất của anh, thấm đẫm cái nhìn yêu thương và đậm tính nhân
văn. Truyện ngắn gây ấn tượng với người viết ngay từ lần tiếp cận đầu tiên.

2


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

Chúng tôi nhận ra rằng BTMT có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung
tư tưởng, mang lại ý nghĩa lớn lao cho tác phẩm.
Vì những lí do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Ý nghĩa của biểu thức miêu
tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái”
với mục đích phát hiện một số đặc điểm về BTMT trong một tác phẩm văn học.
Qua đó, góp phần nâng cao kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp
nói chung, trong sáng tác văn học nói riêng, nâng cao kĩ năng tiếp cận một tác
phẩm văn học từ góc nhìn ngôn ngữ của học sinh Phổ thông.
II. Lịch sử vấn đề

1. Khi vấn đề ngôn ngữ trong hoạt động hành chức được đặt ra, cũng là lúc
vấn đề chiếu vật và phương thức chiếu vật được quan tâm nghiên cứu nhưng phải
đến Đỗ Hữu Châu trong “Đại cương ngôn ngữ học” (T2 - 1993), vấn đề BTMT
mới được đề cập, xem xét. GS Đỗ Hữu Châu đã trình bày quan điểm về BTMT
như một phương thức chiếu vật với những nét cơ bản nhất: về sự xuất hiện của
BTMT; vai trò của BTMT trong hoạt động chiếu vật; chức năng của BTMT; phân
loại BTMT. Trên cơ sở những nghiên cứu ban đầu đó, đã có những luận văn Thạc
sĩ khoa học đi sâu tìm hiểu về chiếu vật như “Sự chiếu vật và phương thức chiếu
vật” (Đỗ Xuân Quỳnh, 2003), về BTMT như “Ý nghĩa của từ chỉ lượng qua
BTMT trong ca dao và trong thơ Nguyễn Bính” (Khổng Thị Hạnh, 2007). Bằng
việc khảo sát qua một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại, tác giả Đỗ Xuân
Quỳnh đã nghiên cứu khá chi tiết về đặc điểm cấu tạo, từ loại và tính chất của các
yếu tố chiếu vật trong biểu thức chiếu vật, đặc điểm chuỗi yếu tố chiếu vật của
biểu thức chiếu vật. Tuy nhiên, những nhận xét, kết luận đó còn ở mức độ lí
thuyết khái quát. Những ví dụ trong những tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại
là những minh hoạ cho những kết luận lí thuyết. Tác giả chưa đặt vấn đề nghiên
cứu BTMT gắn liền với vấn đề phong cách, tìm hiểu đặc điểm của BTMT trong
một tác phẩm, tức đặt vấn đề BTMT trong một hoạt động giao tiếp cụ thể. Có thể
nói, đây là một con đường, một phương thức để nhận ra phong cách nhà văn từ
góc nhìn ngôn ngữ. Luận văn của Khổng Thị Hạnh (2007) nghiên cứu cụ thể hơn
3


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

về BTMT nhưng chỉ đi sâu vào thành phần phụ trước (TPPT), tìm hiểu ý nghĩa
của phụ từ chỉ lượng. Trong BTMT, thành phần phụ sau (TPPS) là thành phần kết
tinh ý nghĩa, vai trò, nảy sinh nhiều vấn đề nghiên cứu. Nó không chỉ quy chiếu
sự vật, giúp người nghe (đọc) tách sự vật ra khỏi những đối tượng cùng loại mà
còn miêu tả sự vật, qua đó thể hiện nội dung, tư tưởng của người viết. Đi sâu tìm

hiểu đặc điểm của BTMT trong một TPVC cụ thể, gắn với vấn đề phong cách nhà
văn là một vấn đề còn rất mới, chưa có một công trình nghiên cứu hay bài viết
nào đề cập tới.
2. Truyện ngắn Hồ Anh Thái nói chung, truyện ngắn “Tiếng thở dài qua
rừng kim tước” nói riêng thực sự hấp dẫn và thu hút được sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu. Các chuyên khảo, bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học như: “Như gặp
lại chính mình” (Ngô Thị Kim Cúc), “Đọc truyện ngắn về Ấn Độ, tâm đắc và nghĩ
ngợi” (Mai Sơn), “Nhà văn và tâm hồn văn hoá” (Phạm Quốc Ca), “Một vẻ đẹp
cổ điển” (Lê Minh Khuê), “Nghệ thuật truyện ngắn Hồ Anh Thái” (Luận văn Thạc
sĩ, 2005, Nguyễn Thị Vân), “Nhân vật trong truyện ngắn Hồ Anh Thái” (Luận văn
Thạc sĩ, 2006, Điêu Thị Tú Uyên),“Truyền thống và hiện đại trong truyện ngắn
Hoà Vang và Hồ Anh Thái” (Khoá luận tốt nghiệp, Nguyễn Thị Hiền, ĐHSPHN,
2007), “Cảm hứng Ấn Độ trong tập truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim
tước” của Hồ Anh Thái” (Khoá luận tốt nghiệp, Nguyễn Thị Hà Phương,
ĐHSPHN, 2007)… Hầu hết những công trình nghiên cứu trên đều tiếp cận
truyện ngắn này từ góc độ văn học, thẩm bình văn chương, đánh giá sâu sắc ở
cả hai mặt nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Báo cáo khoa học “Văn hoá Ấn Độ
trong tập truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” - Hồ Anh Thái” của Trần
Thị Hương Giang (2006) nghiên cứu tập truyện ngắn này từ góc nhìn văn hoá
nhưng còn rất sơ lược. Cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào tiếp
cận truyện ngắn này từ góc nhìn ngôn ngữ, từ góc độ Ngữ dụng học. Đề tài nghiên
cứu của chúng tôi “Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở

4


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái” là bước đi đầu trong một vấn đề
nghiên cứu còn mới mẻ.

III. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng tới mục đích khảo sát chi tiết đặc
điểm cấu tạo, tìm ra ý nghĩa của những BTMT tiêu biểu - BTMT được sử dụng
với tần số cao và có giá trị biểu trưng lớn, làm cơ sở để nhận ra ý nghĩa của
thiên truyện và phần nào thấy được nét đặc trưng phong cách nhà văn Hồ Anh
Thái.
Đồng thời, đề tài còn nhằm mục đích thực tế là định hướng một cách tiếp
cận TPVC từ góc nhìn ngôn ngữ bên cạnh những hướng tiếp cận mà chúng ta đã
biết.
IV. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Trong khuôn khổ một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi chỉ khảo sát, nghiên
cứu trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” trong tập truyện cùng
tên của Hồ Anh Thái. Đối tượng nghiên cứu cụ thể là những BTMT tiêu biểu,
xuất hiện với tần số cao và có giá trị biểu trưng lớn: BTMT kim tước, BTMT
mũi, BTMT rượu.
V. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp hệ thống: khảo sát, phân loại ngữ liệu theo những tiêu chí nhất
định để rút ra nhận xét, đánh giá.
-

Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp.

-

Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phong cách học - Từ vựng học - Ngữ
dụng học.

VI. Đóng góp của đề tài
Về phương diện lí thuyết: Kết quả nghiên cứu của khóa luận là gợi ý cho

một đường hướng mới: gắn liền nghiên cứu BTMT với vấn đề phong cách nhà
văn; tiếp cận văn bản dưới góc độ ngôn ngữ.
5


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

Về thực tiễn, khóa luận hướng tới làm rõ hơn tư tưởng sáng tác của Hồ
Anh Thái.
VII. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của khóa luận có ba
chương:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Đặc điểm của BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu trong
“Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái
Chương 3: Ý nghĩa của BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu trong
“Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

6


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
BTMT là cụm từ chính phụ, được cấu tạo bởi các từ. Ý nghĩa của BTMT
là ý nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Những vấn đề về ngữ nghĩa học, ngữ dụng
học chính là những cơ sở lí thuyết quan trọng của chúng tôi trong quá trình tìm
hiểu ý nghĩa của BTMT trong một TPVC.
1.1.


Cơ sở ngữ nghĩa học

1.1.1. Chức năng tín hiệu học của từ
Với tư cách là đơn vị của hệ thống ngôn ngữ, từ được chuyên môn hóa về
mặt chức năng. Nghĩa là, trong ngôn ngữ, có những từ thực hiện chức năng này,
lại có những từ thực hiện chức năng kia. Trong [21, T93 - 94] GS Đỗ Hữu Châu
chỉ ra các chức năng tín hiệu học của từ: Chức năng biểu vật, chức năng biểu
niệm, chức năng bộc lộ, chức năng hiệu lệnh, chức năng đưa đẩy, chức năng ngữ
pháp, chức năng thay thế và chức năng định phong cách.
Gắn với đề tài khóa luận, chúng tôi quan tâm đến chức năng biểu vật của
từ. Trong ngôn ngữ, sự vật có thể được biểu thị theo lối định danh hay được dẫn
xuất theo lối miêu tả. Theo [21, T98], nếu biểu vật theo lối định danh là “biểu
vật theo cách tổng hợp”, “tìm cách gán ghép cho sự vật, hiện tượng một hình
thức âm thanh” thì biểu vật theo lối miêu tả là “biểu vật theo cách phân tích”. Ở
đây, nhận thức về sự vật, hiện tượng như một tổng thể đi sau nhận thức về đặc
điểm, nội dung, công năng, tính chất… của chính sự vật hiện tượng ấy. Ví dụ:
“mụ chủ lầu xanh kiếm tiền trên thân xác phụ nữ ấy…”. Từ những đặc điểm của
đối tượng: “chủ lầu xanh, kiếm tiền trên thân xác phụ nữ”, ta có thể nhận ra và
gọi tên đối tượng là “Tú Bà”. Lối biểu vật này đi ngược lại lối định danh:
chuyển từ giai đoạn lí tính, trừu tượng, khái quát sang giai đoạn cảm tính, cụ thể
với các biểu hiện của sự vật, hiện tượng. Nếu biểu vật theo lối định danh được
thực hiện bằng những tên gọi thì biểu vật theo lối miêu tả được thực hiện bằng
những tổ hợp từ miêu tả (BTMT). Lối miêu tả này làm rõ một hoặc một số đặc
7


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

điểm của đối tượng được nói đến. Thông qua sự miêu tả cụ thể ấy, người nghe

(đọc) có thể biết người nói (viết) đang nói về cái gì, đặt trong hoạt động giao
tiếp cụ thể. Ưu thế của biểu vật theo lối miêu tả là ở chức năng phác lại hình
ảnh, chân dung, bộ mặt sự vật… Do đó, khơi gợi trí tưởng tượng bay bổng, phát
triển tri giác cảm tính nhạy bén trong con người. Nhờ vậy, con người nhận ra sự
vật, hiện tượng đang được nói tới, tách nó ra khỏi những sự vật, hiện tượng cùng
loại. Trong TPVC, biểu vật theo lối miêu tả không chỉ định danh, quy chiếu sự
vật mà còn qua đó thể hiện nội dung tư tưởng của người viết, thường mang đậm
dấu ấn của người viết. Tìm hiểu đặc điểm của những tổ hợp từ miêu tả (BTMT)
để nhận ra và khắc sâu nội dung tư tưởng của một TPVC, nhận ra dấu ấn phong
cách nhà văn chính là hướng đi, mục đích hướng tới của khóa luận này.
1.1.2. Các thành phần ý nghĩa của từ
BTMT là một cụm từ. Ý nghĩa của BTMT được tạo nên bởi ý nghĩa của các
từ cấu tạo nên nó. Nhờ ý nghĩa của những từ thực hiện chức năng miêu tả tố
trong BTMT mà BTMT có thể quy chiếu đến sự vật, hiện tượng cần nói tới. Do
đó tìm hiểu các thành phần ý nghĩa của từ là rất cần thiết.
Ý nghĩa của từ gồm ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa từ vựng
gồm ý nghĩa biểu vật, ý nghĩa biểu niệm và ý nghĩa biểu thái. Khái niệm về
nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa ngữ pháp của từ đã trở nên tương đối ổn
định bởi các nhà từ vựng học. Đi liền với việc nghiên cứu các thành phần nghĩa
của từ có chức năng định danh, các nhà nghiên cứu không thể không đặt chúng
vào trong mối quan hệ với văn hoá, dân tộc. “Ý nghĩa biểu vật của từ là sự phản
ánh sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan vào ngôn ngữ. Đó là những
mẩu, những mảnh, những đoạn cắt của thực tế nhưng không trùng với thực tế
mà chỉ bắt nguồn từ thực tế mà thôi”.[21, T108]. Vì thế, nghĩa biểu vật của từ
mang tính dân tộc. Hiểu một cách rộng hơn, tìm hiểu nghĩa biểu vật của từ, tìm
hiểu cách định danh sự vật có thể cho ta biết đặc điểm nghệ thuật, phong cách
của chủ thể sáng tạo. Cũng như từ, BTMT cũng có chức năng định danh, có ý
nghĩa biểu vật. BTMT là cụm từ khi đã đi vào hoạt động hành chức, tức gắn với
8



Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

một ngữ cảnh cụ thể. Do đó, BTMT chỉ ra một sự vật, hiện tượng, trạng thái…
cụ thể trong thực tế khách quan, giống như từ trong hoạt động lời nói. Sự khác
nhau ở chỗ, nếu từ chỉ ra sự vật bằng cách gọi tên thì BTMT quy chiếu sự vật
bằng cách miêu tả những đặc điểm, dấu hiệu nhận biết của chính sự vật, hiện
tượng ấy. Việc chọn lựa những đặc điểm làm dấu hiệu để phân tách sự vật ra
khỏi những sự vật cùng loại, sự lựa chọn từ ngữ để miêu tả những đặc điểm đó
phụ thuộc vào quan hệ giữa người nói (viết) với người nghe (đọc), vào sự hiểu
biết của người nói (viết) và người nghe (đọc) về sự vật, hiện tượng đó. Sự lựa
chọn này cũng đồng thời phụ thuộc vào thái độ, quan điểm của người nói (viết)
về đối tượng và ý đồ ngầm ẩn nào đó mà người nói (viết) muốn thể hiện thông
qua hành động quy chiếu. Như vậy, BTMT không chỉ mang nghĩa biểu vật, có
chức năng quy chiếu sự vật mà cách chiếu vật của BTMT đem lại nhiều ý nghĩa
về phía chủ quan người nói (viết) như quan điểm, tư tưởng, thái độ…Đây cũng
là đối tượng tìm hiểu của khóa luận này.
Đỗ Hữu Châu trong [21, T119 - 121] có nhận xét rằng: Ý nghĩa biểu niệm
và ý nghĩa ngữ pháp có quan hệ gắn bó nên “muốn hiểu sâu sắc giá trị ngữ pháp
của một từ, không thể không biết đến ý nghĩa biểu niệm của chúng. Ngược lại,
để xác định các ý nghĩa biểu niệm thực có của từ, không thể không chú ý đến
các giá trị ngữ pháp, đến hoạt động ngữ pháp của nó trong câu, trong cụm từ”.
Nhận xét này có giá trị đối với khoá luận ở chỗ, khi xem xét cấu tạo của một
cụm từ - một BTMT, việc xác định được vị trí, chức năng ngữ pháp của các từ là
thành tố phụ, thành tố trung tâm sẽ có tác dụng làm sáng tỏ mối quan hệ ý nghĩa
của các thành tố đó, từ đó xác định được ý nghĩa của cụm từ và của BTMT.
1.1.3. Nghĩa của từ trong hoạt động hành chức
Nghĩa của từ trong hệ thống ngôn ngữ không hoàn toàn trùng với nghĩa của
từ trong hoạt động hành chức mà có những chuyển biến nhất định. Sau một thời
gian sử dụng, các nghĩa biểu vật mới xuất hiện, đồng thời, nghĩa biểu niệm của

từ cũng biến đổi. Trong hoạt động lời nói, do gắn với một ngữ cảnh nhất định
nên nghĩa biểu vật của từ quy chiếu đến một sự vật cụ thể, không còn là “loại”
9


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

sự vật mang tính khái quát như trong hệ thống, tức có những chuyển biến nhất
định. Sự chuyển nghĩa của từ thường được thực hiện bằng hai phương thức phổ
biến là ẩn dụ và hoán dụ. VD: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ / Mặt trời chân lí
chói qua tim”[5, T 57]. Trong cụm từ - tổ hợp từ miêu tả “Mặt trời chân lí”, từ
“mặt trời” được chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ (chân lí chiếu rọi ánh
sáng lí tưởng đến tâm hồn con người giống như mặt trời chiếu rọi ánh sáng ấm
áp, mang lại sức sống cho Trái Đất). “Mặt trời” quy chiếu đến một đối tượng
trừu tượng “lí tưởng cộng sản”. Đây là một cách thức để chúng tôi đi tìm hiểu ý
nghĩa của BTMT trong một tác phẩm cụ thể.
Khi tìm hiểu nghĩa của từ trong hoạt động hành chức, ta phải đặt từ trong
một trường liên tưởng. Ý nghĩa của những từ trong trường liên tưởng sẽ giúp ta
hiểu sâu sắc nghĩa của từ, để có thể hiểu được ý nghĩa của BTMT chứa từ đó.
VD: “Thúy Kiều như một cánh hoa trôi. Từ “hoa” là TPTT của cụm từ “một
cánh hoa trôi”. Từ “hoa”, đặt trong trường liên tưởng với “thân phận, số phận,
người phụ nữ”, trong sự liên kết với TPPS “trôi”, ta hiểu được “một cánh hoa
trôi” chỉ số phận lênh đênh, trôi dạt của Thúy Kiều.
Từ khi đi vào hoạt động lời nói còn có hiện tượng chuyển trường, tức một
từ vốn thuộc trường nghĩa này nhưng trong một trường hợp cụ thể, lại được sử
dụng trong một trường nghĩa khác, dựa trên quan hệ liên tưởng. VD: “Cậu Vàng
đi đời rồi, ông giáo ạ!” [1, T 295]. “Cậu” là một danh từ (DT) chỉ quan hệ thân
tộc, thuộc trường nghĩa chỉ người nhưng được Nam Cao sử dụng để chỉ con chó
Vàng trong cách gọi thân mật, yêu mến của lão Hạc. Từ “cậu” được chuyển từ
trường nghĩa chỉ người sang trường nghĩa chỉ loài vật đã thể hiện được tình cảm

yêu thương, gắn bó của lão Hạc đối với con chó Vàng – kỉ niệm của người con
trai lão. Vì thế, cụm từ “cậu Vàng” không chỉ quy chiếu đến một con vật cụ thể
- con chó Vàng mà còn thể hiện thái độ, tình cảm của lão Hạc (người nói) với
con chó Vàng (đối tượng được nói tới).
Chúng ta biết rằng, từ có chức năng định danh. Nhưng khi đi vào hoạt động
hành chức, diễn ra hiện tượng “định danh lại”. GS Đỗ Hữu Châu trong [21,
10


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

T100] chỉ ra rằng: trong lời nói, sự vật cần được nêu ra trong tính cụ thể, có thể
cảm giác được của chúng. Vì vậy, khi tên gọi không đáp ứng được yêu cầu biểu
hiện sự vật, hiện tượng trong tính cụ thể sinh động nữa thì ngôn ngữ phải tìm
cách thay thế tên gọi cũ bằng một tên mới hay bằng một tổ hợp miêu tả. VD:
“Máy bay” cũng có thể là “máy bay”, cũng có thể là “quạ”, “diều hâu”, “con
nhặng xanh”, “những con thiêu thân”, “lũ hung thần quái đản”. Sự định danh
lại, nhất là định danh bằng tổ hợp miêu tả, do có những miêu tả tố chỉ ra đặc
điểm cụ thể của đối tượng theo chủ quan đánh giá của người nói (viết) và theo
một hoàn cảnh giao tiếp nhất định nên không chỉ đơn thuần định danh sự vật,
quy chiếu sự vật mà còn thể hiện tư tưởng, thái độ của người nói (viết). Tìm
hiểu những hiện tượng định danh lại trong mối quan hệ với từ gốc định danh,
với ngữ cảnh giúp hiểu rõ hơn ý nghĩa của BTMT trong một tác phẩm – một
hoạt động giao tiếp cụ thể.
1.2.

Cơ sở ngữ dụng học

1. 2.1.Chiếu vật và phương thức chiếu vật
Về khái niệm chiếu vật, GS Đỗ Hữu Châu trong [23, T61] chỉ ra

rằng:“Thuật ngữ chiếu vật (reference) được dùng để chỉ phương tiện nhờ đó
người nói phát ra một biểu thức ngôn ngữ, với biểu thức này người nói nghĩ
rằng nó sẽ giúp cho người nghe suy ra được một cách đúng đắn thực thể nào,
đặc tính nào, quan hệ nào, sự kiện nào anh ta định nói đến”. Chiếu vật có vai
trò quan trọng đối với diễn ngôn. Đỗ Hữu Châu cho rằng chiếu vật là cái neo
của diễn ngôn. Với chiếu vật, người ta thả vào diễn ngôn các sự kiện, tình tiết
của truyện. Chiếu vật cũng là một hoạt động ngôn ngữ. Do đó, nói đến chiếu vật
là nói đến kế hoạch chiếu vật, mục đích chiếu vật, niềm tin chiếu vật, sự vật
nghĩa chiếu vật. Chiếu vật là vấn đề thứ nhất của dụng học, liên quan chặt chẽ
với người nói. Với việc tìm hiểu ý nghĩa sự vật – nghĩa chiếu vật của BTMT
trong “Tiếng thở dài qua rừng kim tước”, khoá luận hi vọng chỉ ra được mục
đích sử dụng BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu của Hồ Anh Thái.

11


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

1.2.2.Biểu thức miêu tả có chức năng chiếu vật
Chiếu vật có thể thực hiện bằng ba phương thức lớn: Dùng tên riêng, dùng
miêu tả xác định và dùng chỉ xuất. Mỗi phương thức chiếu vật có một khả năng
nhất định trong biểu thị ý nghĩa chiếu vật mà người nói muốn quy chiếu. Liên
quan trực tiếp đến đề tài này là phương thức chiếu vật dùng miêu tả xác định chiếu vật bằng BTMT.
1.2.2.1. Vai trò của biểu thức miêu tả
Không phải mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới thực tại đều có nhu cầu
được đặt tên riêng, mà cũng không thể đặt tên riêng cho từng cái bàn, từng cái
cây, từng cái áo… Nhưng trong giao tiếp, chiếu vật - tức đưa các sự vật vào phát
ngôn, vẫn là hành vi đầu tiên bởi nếu không chiếu vật thì không thể làm cho
người giao tiếp với mình biết được mình nói về cái gì trong thế giới nào. Trong
chiếu vật, nếu dùng DT riêng (tên riêng) thì chỉ có thể gọi tên cá thể. Nếu dùng

tên chung (DT chung) thì có thể vừa gọi tên loại, vừa gọi tên cá thể trong loại.
Trừ trường hợp chiếu vật loại, việc dùng tên chung một mình để chiếu vật cá thể
lệ thuộc quá nhiều vào ngữ cảnh, vào hành vi ngôn ngữ tạo ra phát ngôn chứa
tên chung chiếu vật cá thể. Để giúp người nghe (đọc) dễ dàng suy ra nghĩa chiếu
vật cá thể của một biểu thức chiếu vật không phải là tên riêng nào đó, người nói
(viết) thường dùng biện pháp miêu tả để tạo ra các BTMT chiếu vật. Như vậy,
miêu tả chiếu vật là ghép các yếu tố phụ vào một tên chung, nhờ các yếu tố phụ
mà tách được sự vật – nghĩa chiếu vật ra khỏi các sự vật khác cùng loại với
chúng. BTMT tương đương với một tên riêng vì BTMT đã thu hẹp phạm vi
chiếu vật của tên chung đến cực tiểu. Nghĩa chiếu vật của một BTMT chỉ còn là
một cá thể như nghĩa chiếu vật của một tên riêng.
BTMT phác hoạ lại hình ảnh, chân dung, bộ mặt sự vật, do đó khơi mở trí
tưởng tượng bay bổng, phát triển tri giác cảm tính nhạy bén trong con người. Sử
dụng lối tư duy hình tượng, không đòi hỏi cao về tính chính xác, tính khái quát,
tính lôgic nên BTMT được sử dụng rộng rãi với những đối tượng và phạm vi
giao tiếp phong phú. BTMT có ý nghĩa lớn trong TPVC. BTMT thường được
12


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

dùng để biểu hiện những hình tượng trong văn chương, vì ngôn ngữ văn chương
có tính thẩm mỹ cao, kết tinh cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ đời thường. Sự miêu
tả thường giàu hình ảnh, tinh tế trong màu sắc, đường nét, có sức khêu gợi tưởng
tượng. Đồng thời, sử dụng BTMT còn đem đến cho ngôn từ sự uyển chuyển,
nhịp nhàng trong thanh điệu, ngữ âm.
Vì BTMT có những ý nghĩa như vậy nên trong nhiều trường hợp, biểu vật
theo lối định danh được chuyển sang biểu vật theo lối miêu tả, sử dụng BTMT
để cụ thể hoá đối tượng được nói tới, thay cho việc dùng DT chung.
1.2.2.2.Đặc điểm cấu tạo của biểu thức miêu tả

BTMT thường là các cụm DT (danh ngữ). BTMT bao giờ cũng phải có
một tên chung (DT chung) làm trung tâm. Cái tên chung làm trung tâm này đóng
vai trò như các từ chỉ phạm trù trong một biểu thức chiếu vật tên riêng. Tiếng
Việt có thể dùng các DT đơn vị mà nghĩa phạm trù hết sức khái quát (như trận,
cơn, cú, nỗi, niềm, lòng, huyện, tỉnh, cục, vụ, chỗ, nơi, lúc…) khái quát hơn cả
nghĩa phạm trù của các DT chung (như mèo, hổ, cây, bàn, ghế…) để tạo ra các
BTMT khi người nói, viết chưa biết hay không biết tên chung chỉ loại của sự vật
đó.
Trong một BTMT, ngoài TPTT còn có các miêu tả tố. Đó là những TPPT
và TPPS của BTMT. Các miêu tả tố của BTMT không cần thật nhiều, thật đầy
đủ, chỉ cần nêu ra một vài dấu vết mà người nói cho rằng đủ cho người nghe dựa
vào đó mà xác định được nghĩa chiếu vật của BTMT là được. Những yếu tố này
thường phải là những yếu tố có thể trực tiếp quan sát được ngay khi hội thoại
miệng. Giả sử A là sự vật định chiếu vật. Nếu SP2 đã biết đôi chút về A thì SP1
sẽ dùng ít yếu tố miêu tả. Nếu SP2 chưa biết gì thì yếu tố miêu tả phải nhiều mới
có thể giúp người nghe nhận ra sự vật nghĩa chiếu vật mà người nói định quy
chiếu.
1.2.2.3.Phân loại biểu thức miêu tả
Trong [23, T69], GS Đỗ Hữu Châu chỉ ra rằng: Theo tính xác định,
BTMT được chia thành BTMT xác định và BTMT không xác định. Trong Tiếng
13


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

Anh, BTMT xác định có mạo từ “the” đằng trước, BTMT không xác định có “a”
đằng trước. Trong Tiếng Việt, cụm danh từ có “một” ở trước thường là BTMT
chiếu vật không xác định. Một biểu thức chiếu vật (tên riêng và BTMT) được
xem là xác định khi sự vật nghĩa chiếu vật của nó đã được cả người nói, người
nghe biết. Nó có thể được nói đến trong tiền văn. Khi nghĩa chiếu vật của

BTMT chưa được SP1, SP2 biết thì biểu thức tương ứng là một biểu thức không
xác định. Vì lẽ đó, chúng ta thường chỉ dùng BTMT không xác định khi đưa sự
vật, hiện tượng lần đầu tiên vào diễn ngôn. Sau đó, ở các phát ngôn kế tiếp, sự
vật đó sẽ được biểu thị bằng các biểu thức xác định.
Theo tiêu chí chức năng, BTMT được chia ra BTMT có chức năng chiếu
vật và BTMT có chức năng thuộc ngữ. BTMT có chức năng chiếu vật là BTMT
quy chiếu đến một sự vật, hiện tượng cụ thể trong thực tại khách quan. Đó có
thể là chiếu vật cá thể, chiếu vật một số hoặc chiếu vật loại. Có những BTMT có
chức năng thuộc ngữ, không có chức năng chiếu vật. Không phải BTMT nào
trong diễn ngôn cũng có chức năng chiếu vật. Rất nhiều trường hợp BTMT được
dùng để miêu tả, giúp cho người nghe, người đọc hiểu biết đầy đủ hơn về sự vật
nghĩa chiếu vật. Không chỉ dừng lại ở miêu tả sự vật mà trong một số trường
hợp (nhất là trong TPVC), BTMT có những yếu tố miêu tả tu từ học, là những
định ngữ tu từ, thể hiện những dụng ý tu từ của nhà văn. VD: “Tiếp vào ngày
ấy, Nguyễn Tuân đi tầu điện, đưa tem Thống chế Pêtain ra mua vé, không một
người sơ vơ nào nhận…” (Nguyễn Tuân)
“Tem Thống chế Pêtain” là một BTMT có chức năng miêu tả thuộc ngữ.
Nếu để chiếu vật, chỉ cần viết “đưa tiền ra mua vé” (thời 1945 hành khách đi tầu
điện ở Hà Nội có thể dùng tem bưu điện để mua vé vì giá trị của một con tem
bằng giá trị một lượt đi tầu) là đủ. “Thống chế Petain” là biểu thức tên riêng
gồm từ chỉ chức vụ“Thống chế” và một tên riêng “Petain”. “Petain”, từ 1940
đến 1945 là người đứng đầu chính phủ Pháp tay sai cho Hitler. Đưa yếu tố miêu
tả này vào BTMT, dụng ý mỉa mai thực dân Pháp đã bị Nhật hất cẳng ở Đông
Dương của Nguyễn Tuân rất rõ. Đây là những yếu tố miêu tả tu từ.
14


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

Như vậy, chương I đã trình bày những cơ sở lí thuyết về ngữ nghĩa học,

bao gồm nghĩa của từ trong hệ thống cũng như nghĩa của từ trong hoạt động
hành chức; cơ sở ngữ dụng học về chiếu vật và BTMT. Đó là những cơ sở để
tiếp cận với BTMT trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của
Hồ Anh Thái.

15


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA BTMT KIM TƯỚC, BTMT MŨI,
BTMT RƯỢU TRONG “TIẾNG THỞ DÀI QUA
RỪNG KIM TƯỚC” CỦA HỒ ANH THÁI
Đi tìm hiểu đặc điểm của các BTMT trong truyện ngắn “Tiếng thở dài
qua rừng kim tước”, chúng tôi lần lượt tìm hiểu đặc điểm các thành phần của
BTMT: TPTT, TPPT, và TPPS. Trọng tâm của chương này, chúng tôi đi tìm
hiểu đặc điểm TPPS của BTMT kim tước, BTMT mũi và BTMT rượu bởi TPPS
là thành phần thực hiện chức năng miêu tả đặc điểm của sự vật được nói đến ở
DT trung tâm. Với TPPS, chúng tôi tìm hiểu cụ thể về đặc điểm cấu tạo và quan
hệ tuyến tính của các miêu tả tố, làm cơ sở để tìm hiểu ý nghĩa của BTMT.
2.1 Yếu tố trung tâm của BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu.
2.1.1.Yếu tố trung tâm của BTMT kim tước
Tác phẩm có 23 BTMT kim tước xuất hiện ở phần đầu và phần cuối thiên
truyện (không có ở phần giữa), gắn với nhân vật chính Nilam khi còn là một cô
gái xinh đẹp nhất làng, đắm say trong tình yêu với Ravi và khi đã bị hỏa thiêu
đến dị dạng, sống những ngày cay đắng cuối đời ở đồi kim tước.
DT trung tâm của tất cả những BTMT kim tước đều là DT chung và 22/23
BTMT có DT trung tâm là DT chỉ sự vật đơn thể. Chỉ có một BTMT có DT
trung tâm là DT đơn vị: “Thỉnh thoảng hái một chùm, nâng niu trên tay như
nâng chùm nho vàng mọng”[2, T37]. “Chùm” là một DT đơn vị mang nghĩa

tổng hợp. Tuy BTMT có DT trung tâm là một DT đơn vị nhưng đặt trong ngữ
cảnh, chúng ta vẫn hiểu được BTMT này quy chiếu đến một chùm hoa kim tước.
DT trung tâm của BTMT kim tước bao gồm DT chỉ tập hợp của kim tước
như “vườn, rừng” (13%), DT chỉ tổng thể cây kim tước như “cây” (21,7%), DT
chỉ bộ phận của cây kim tước như “hoa, quả, hạt, cành, lá, gốc” (61%) và DT
chỉ thời gian (4,3 %). Trong số các DT chỉ bộ phận của cây kim tước, phần lớn
là những DT chỉ bộ phận khả li (có thể tách rời khỏi cây mà không tác động
quyết định đến sự tồn tại của cây) như “hoa, quả, hạt, lá, cành” (60,9% DT chỉ
16


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

bộ phận cây). DT chỉ bộ phận bất khả li (không thể tách rời khỏi cây vì tác động
quyết định đến sự tồn tại của cây) ít hơn như “gốc cây” (39,1%). Trong những
DT chỉ bộ phận khả li, DT chỉ hoa và biến thể của hoa (chùm, ánh) chiếm tỉ lệ
lớn nhất (50%). Điều đó chứng tỏ hình ảnh hoa kim tước có ý nghĩa rất lớn
trong việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Trung tâm của BTMT kim tước là DT chung, đều có chức năng chiếu vật –
chỉ ra sự vật nghĩa chiếu vật. Những BTMT này, bao gồm cả chiếu vật loại và
chiếu vật cá thể. BTMT chiếu vật loại chiếm phần lớn (73,9%) so với BTMT
chiếu vật cá thể (26,1%). Để xác định BTMT đó là chiếu vật loại hay chiếu vật cá
thể, ta có thể dựa vào TPPT của BTMT. BTMT có TPPT là từ chỉ lượng “một”
thường là BTMT chiếu vật loại. VD: “Cả một vườn kim tước bừng sáng xoã ra
như mái tóc vàng của người đẹp ngủ trong rừng”[2, T24]. BTMT này không chỉ
một cây kim tước, một vườn kim tước cụ thể mà chỉ khái quát ý nghĩa “loại” của
vườn kim tước. Nhưng, có khi, BTMT có TPPT là từ chỉ lượng “một” nhưng
không thể là BTMT chiếu vật loại. Khi đó, ta phải dựa vào yếu tố ngữ cảnh, dựa
vào lời dẫn, lời kể của tác giả. Đây là cơ sở nhận diện rõ nhất chức năng chiếu vật
loại hay chiếu vật cá thể của DT trung tâm, của BTMT chứa DT trung tâm đó.

VD: “Nilam bẻ một quả kim tước dài như một quả núc nác , lấy một cái hạt ủ
trong lớp đất trên một con”[2, T35]. Đặt trong ngữ cảnh: Nilam bế con lên ngọn
đồi trọc, dùng khăn mặt tẩm rượu “tấp” lên mặt con, đào một cái hố rồi đặt con
vào, lấp đất, bẻ một quả kim tước “dài như quả núc nác” và lấy “một cái hạt” ủ
trong lớp đất trên mộ con. Ta nhận thấy rằng “quả” kim tước ở đây là một quả
kim tước cụ thể, trong đó có một hạt kim tước cụ thể mà Nilam đã lấy để ủ vào
nấm mộ của con gái mình.
2.1.2. Yếu tố trung tâm của BTMT mũi
Trong “Tiếng thở dài qua rừng kim tước”, BTMT mũi có số lượng ít hơn:
12 BTMT. Nếu như ở BTMT kim tước, những BTMT có DT trung tâm là từ
ghép chiếm số ít (13%) thì ở BTMT mũi, 41,7% BTMT có DT trung tâm là từ

17


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

ghép. Đó là những từ ghép chỉ bộ phận của mũi như “chóp mũi, sống mũi” hay
từ ghép là biến thể của mũi như “tác phẩm”.
Do đặc trưng của đối tượng miêu tả, ở BTMT mũi không có những BTMT
mà DT trung tâm chỉ tập hợp của mũi. DT trung tâm là những DT chỉ tổng thể
cái mũi (16,6%), chỉ bộ phận của mũi (41,7%), chỉ động tác của mũi (33,3%) và
chỉ thời gian diễn ra những động tác, cử chỉ của hai chiếc mũi Nilam và Ravi
(8,4%). Cũng giống như ở BTMT kim tước, ở BTMT mũi, DT trung tâm chỉ bộ
phận chiếm phần lớn (ở BTMT kim tước là 61%; ở BTMT mũi là 41,7%). Đó là
các bộ phận: “chóp mũi, sống mũi”, trong đó “chóp mũi” chiếm phần lớn.
“Chóp mũi”, “sống mũi” là những bộ phận của mũi diễn ra những cử chỉ
yêu đương sâu đậm của Nilam và Ravi. Đó cũng là những bộ phận thể hiện
sự đau đớn, xót xa của Nilam sau kiếp sống tủi nhục ở nhà chồng.
DT trung tâm của BTMT mũi bao gồm DT chỉ sự vật đơn thể và DT đơn vị,

từ chỉ xuất. Trong đó, DT chỉ sự vật chiếm phần lớn (75%) so với DT đơn vị
(8,4%) và từ “cái” chỉ xuất (16,6%). Ở BTMT mũi, các DT trung tâm đều có
chức năng chiếu vật cá thể. Đặt trong những ngữ cảnh cụ thể, BTMT mũi hướng
sự quy chiếu tới mũi Nilam hoặc mũi Ravi hoặc mũi của cả hai người. Do đó,
“mũi” không có chiếu vật loại. VD: “Nhưng Ravi chỉ để cho (1) chóp mũi chạm
vào (2) chóp mũi Nilam, rồi (3) hai cái chóp mũi Ấn Độ, (4) hai tác phẩm tuyệt
vời của tạo hóa cứ thế mà trườn lên nhau…[2, T24].
BTMT (1) quy chiếu đến chóp mũi Ravi  chiếu vật cá thể.
BTMT (2) quy chiếu đến chóp mũi Nilam  chiếu vật cá thể.
BTMT (3) quy chiếu đến chóp mũi Nilam và Ravi  chiếu vật cá thể.
BTMT (4) quy chiếu đến chóp mũi Nilam và Ravi  chiếu vật cá thể.
BTMT mũi chiếu vật cá thể bởi “mũi” là bộ phận của nhân vật cụ thể trong
tác phẩm, khác với kim tước - có khi quy chiếu một cây kim tước hay một bộ
phận cụ thể của cây kim tước gắn với một hành động cụ thể của một nhân vật,
có khi quy chiếu một cây kim tước bất kì hay toàn bộ rừng kim tước.

18


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

2.1.3. Yếu tố trung tâm của BTMT rượu
Trong tác phẩm có 22 BTMT rượu và hầu hết xuất hiện ở cuối tác phẩm,
gắn với phần đời cay đắng, xót xa của Nilam. DT trung tâm của BTMT rượu
hầu hết là từ đơn (95,5%). Phần lớn các DT trung tâm là DT chung chỉ vật chứa
đựng (rượu) như “chai, chén” (86,4%) trong đó “chai” chiếm phần lớn (57,9%)
so với “chén” (42,1%). Hình ảnh chai rượu xuất hiện gắn liền với nhân vật
Nilam, với hành động “chôn” những bé gái sơ sinh của cô. BTMT có DT
trung tâm là “chai” xuất hiện nhiều lần mang lại không khí ám ảnh cho tác
phẩm. 9 % BTMT rượu có DT trung tâm chỉ nơi bán rượu và 4,6 % BTMT rượu

có DT trung tâm chỉ người uống rượu “tên”.
Phần lớn DT trung tâm của BTMT rượu có chức năng chiếu vật loại
(59,1%,), chỉ 49,9% DT trung tâm chiếu vật cá thể. DT trung tâm của một số
BTMT rượu có thể giống nhau nhưng khác nhau về chức năng chiếu vật loại hay
chiếu vật cá thể. Điều này được giải thích bằng ngữ cảnh xuất hiện của BTMT
chứa DT trung tâm đó. VD1: “Xong hai chén rượu thì trời vừa tối” [2, 32].
Nilam uống rượu rồi bế con ra hành lang bệnh viện, mục đích tìm một thùng rác
ở nơi vắng người để đặt con vào, để con mình sau này không phải chịu cay cực
như đời mình.“Hai chén rượu” không quy chiếu đến chén rượu cụ thể nào nên
không thể chiếu vật cá thể mà là chiếu vật loại. VD2: “Chén này chén cay, chén
này chén đắng, chén này tủi nhục vô duyên” [2, T38]. Đặt trong ngữ cảnh:
Nilam gặp lại Ravi sau 20 năm, tại túp lều hoang tàn ở chân đồi kim tước của
mình. Đêm hôm đó, họ đã uống rượu. Nilam chuốc rượu cho mình say, cho cả
Ravi cùng say. Mỗi chén rượu chứa đầy cay, đắng, tủi nhục, vô duyên. Do đó,
“chén” ở đây quy chiếu đến chén rượu cụ thể mà họ uống trong cái đêm gặp lại
nhau sau 20 năm, khi Ravi vẫn chưa nhận ra Nilam. Đại từ chỉ xuất “này” càng
tăng thêm tính chất cá thể cho DT trung tâm.
Qua việc tìm hiểu yếu tố trung tâm của BTMT, chúng tôi nhận thấy, ở
BTMT kim tước, BTMT mũi và BTMT rượu, DT trung tâm đều là những DT
chung, phần lớn là từ đơn. Ở BTMT kim tước và BTMT rượu, phần lớn DT
19


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

trung tâm có chức năng chiếu vật loại. Ở BTMT mũi, tất cả DT trung tâm đều
chiếu vật cá thể. Tùy theo đặc điểm đặc trưng của đối tượng miêu tả (kim tước,
mũi hay rượu) mà sự vật nghĩa chiếu vật của DT trung tâm bao gồm những
phạm trù khác nhau: chỉ tập hợp, chỉ tổng thể, chỉ bộ phận, chỉ thời gian đối với
BTMT kim tước; chỉ tổng thể, chỉ bộ phận, chỉ động tác, chỉ thời gian đối với

BTMT mũi; chỉ vật chứa đựng (rượu), nơi bán (rượu) và người uống (rượu) đối
với BTMT rượu.
2.2.Thành phần phụ trước của BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu
Đối với BTMT, tìm hiểu đặc điểm số lượng, cấu tạo, từ loại của TPPT góp
phần vào việc tìm hiểu ý nghĩa của BTMT, đặc biệt là BTMT trong một TPVC.
Bởi cách lựa chọn, sử dụng TPPT như thế nào thể hiện chủ quan của người viết.
2.2.1.Thành phần phụ trước của BTMT kim tước
Hầu hết BTMT kim tước có TPPT (69,6 %), 30,4 % BTMT kim tước
không có TPPT. Trong số những BTMT kim tước có TPPT thì 87,5 % BTMT
có một TPPT và 13 % BTMT có hai TPPT, không có BTMT có 3 TPPT. Trong
số những BTMT kim tước có một TPPT, chỉ có 12,5 % BTMT có TPPT là từ
chỉ tổng lượng, 12,5 % BTMT có TPPT là DT đơn vị và tới 75 % BTMT có
TPPT là từ chỉ lượng. Trong đó, 50 % là từ chỉ lượng không xác định (những,
các, từng) và 50 % là từ chỉ lượng xác định (một). Từ chỉ lượng xác định của các
BTMT này là số từ “Một”. Nếu xét tần số xuất hiện của từ chỉ lượng xác định
“Một” trong số các BTMT kim tước thì số từ “Một” xuất hiện 7/23 BTMT kim
tước (30,4 %). Đây là một tỉ lệ lớn, chứng tỏ số từ “Một” có vai trò lớn trong
việc thể hiện ý nghĩa của BTMT. Về ý nghĩa cụ thể của số từ “Một” trong
BTMT kim tước chúng tôi sẽ trình bày kĩ ở chương 3.
Trong số 3 BTMT kim tước có 2 TPPT thì 2 BTMT (66,7 %) có TPPT có
cấu tạo là: từ chỉ lượng – từ chỉ đơn vị.
VD: “Những/ chùm// hoa kim tước rủ xuống…” [2, T 24]
TPPT1 – TPPT2

20


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

Có thể nói, TPPT của BTMT kim tước không quá phức tạp. Đáng chú ý là

việc sử dụng với tần số cao từ chỉ lượng xác định “Một”.
2.2. Thành phần phụ trước của BTMT mũi
Cấu tạo của TPPT của BTMT mũi đơn giản hơn so với BTMT kim tước.
Phần lớn các BTMT mũi không có TPPT (58,3 %), chỉ 41,7 % BTMT mũi có
TPPT. Trong số 5 BTMT mũi có TPPT thì một BTMT (20 %) có 2 TPPT. Cấu
tạo của TPPT này là (từ chỉ lượng xác định – từ chỉ xuất). VD:“Rồi hai / cái //
chóp mũi Ấn Độ..”[2, T 24]

TPPT1-TPPT2

Bốn BTMT mũi (80 %) có một TPPT. Trong đó, ba BTMT (75 %) có một
TPPT là từ chỉ lượng và một BTMT mũi (25%) có một TPPT là từ chỉ xuất
(cái). Ở BTMT mũi, từ chỉ lượng xác định được sử dụng không phải là số từ
“Một”, như ở BTMT kim tước mà là số từ “Hai”. BTMT mũi phần lớn xuất
hiện ở đầu tác phẩm, gắn với cảnh gặp gỡ, hẹn hò đầy lãng mạn của Nilam và
Ravi trong rừng kim tước, khi Nilam còn trẻ trung, xinh đẹp yêu đời và say đắm
trong tình yêu. Số từ “Hai” chỉ mũi của Nilam và Ravi.
Ở BTMT mũi có hiện tượng BTMT tầng cấp nên có trường hợp hai BTMT
có cùng một TPPT. VD: “Những đường trượt đường vờn nhè nhẹ” [2,
T38].“Những đường trượt” là một BTMT, đồng thời “những đường vờn” (chứ
không phải “đường vờn”) cũng là một BTMT. Hai BTMT này có chung một
TPPT là từ chỉ lượng không xác định “những”.
Qua khảo sát, có thể thấy rằng ở BTMT mũi, TPPT không tham gia nhiều
vào biểu thị ý nghĩa của BTMT. Hầu hết BTMT mũi không có TPPT và cấu tạo
của một số TPPT có được lại tương đối đơn giản. Đáng chú là việc sử dụng từ
chỉ lượng xác định “Hai” trong BTMT mũi.
2.3.Thành phần phụ trước của BTMT rượu
Cũng giống như BTMT mũi, ở BTMT rượu, phần lớn BTMT rượu không có
TPPT (13/22 = 59,1%), chỉ 40,9% BTMT rượu có TPPT. Trong số 9 BTMT rượu
có TPPT thì 100% là BTMT rượu có một TPPT, không có BTMT có hai TPPT.

TPPT của những BTMT này 100% là từ chỉ lượng xác định, không có BTMT
21


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

rượu nào có TPPT là từ chỉ tổng lượng hay từ chỉ xuất. Những từ chỉ lượng xác
định đó là những từ chỉ số ít (Một, Hai, Nửa), trong đó, số từ “Một” chiếm phần
lớn (66,7%), số từ “Hai” chiếm 11,1% và số từ “Nửa” chiếm 22,2%. Rõ ràng, so
với BTMT kim tước và BTMT mũi thì BTMT rượu có TPPT cấu tạo đơn giản
nhất. Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều BTMT có TPPT là từ chỉ lượng xác định
chỉ số ít là một hiện tượng đáng chú ý. Nếu ở BTMT kim tước, 50 % BTMT có
TPPT là từ chỉ lượng là từ chỉ lượng xác định, ở BTMT mũi là 33,3% BTMT có
TPPT có từ chỉ lượng xác định thì tỉ lệ này ở BTMT rượu là 40,9%. Điều đó
chứng tỏ, ở BTMT rượu, từ chỉ lượng xác định (cụ thể: từ chỉ lượng xác định
chỉ số ít) góp phần quan trọng tạo nên ý nghĩa của BTMT rượu. Về ý nghĩa cụ
thể của những TPPT có từ chỉ lượng xác định này, chúng tôi sẽ trình bày kĩ ở
chương sau.
Như vậy, nếu như phần lớn BTMT kim tước có 1 TPPT thì hầu hết các BTMT
mũi và đa phần BTMT rượu không có TPPT. Ở cả BTMT kim tước, mũi, rượu đều
không có những BTMT có 3 TPPT. Một điểm đáng chú ý ở cả 3 BTMT này là hiện
tượng sử dụng nhiều lần từ chỉ lượng xác định (nhất là số từ “Một”).
2.3. Thành phần phụ sau của BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu
TPPS của BTMT là TPPS của cụm DT. So với TPPT, TPPS thường đa dạng
hơn về cấu trúc, phong phú hơn về ý nghĩa, linh hoạt hơn về thứ tự sắp xếp và lớn
hơn về độ dài kích thước. TPPS cụm DT được phân bố vào hai vị trí: vị trí của
các thực từ hay các kiến trúc chứa thực từ nêu đặc trưng miêu tả (vị trí 1) và vị trí
của các từ chỉ định “này, kia, ấy, nọ” (vị trí 2). Trật tự sắp xếp các thành tố phụ
sau ở vị trí 1 lại vô cùng phức tạp, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào
đi sâu nghiên cứu. Đỗ Xuân Quỳnh trong [50] khảo sát chi tiết về các yếu tố chiếu

vật của biểu thức chiếu vật nhưng đó là những nhận xét, kết luận mang tính chất lí
thuyết, chưa đi vào BTMT trong một tác phẩm cụ thể.
Chúng ta biết rằng trong BTMT, các miêu tả tố tuy chỉ là thành phần phụ
nhưng lại là thành phần có ý nghĩa quan trọng, bởi nó chỉ ra đặc điểm, tính chất,
trạng thái… của sự vật, hiện tượng được nói đến ở TPTT, giúp người nghe (đọc)
22


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

quy chiếu đến đối tượng cần nói, tách chúng ra khỏi những đối tượng cùng loại.
Miêu tả tố cũng là thành phần in đậm dấu ấn riêng của người nói (viết), thể hiện ở
cách dùng từ ngữ để miêu tả, quy chiếu. Trong một TPVC, điều này càng rõ nét,
bởi đó chính là vấn đề phong cách nhà văn. Chính vì thế, tìm hiểu BTMT trong
“Tiếng thở dài qua rừng kim tước”, trọng tâm của chúng tôi là đi khảo sát, nghiên
cứu chi tiết TPPS (miêu tả tố) trong BTMT qua những BTMT tiêu biểu (BTMT
kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu), làm cơ sở quan trọng để chỉ ra ý nghĩa của
các BTMT, nhận ra nội dung, tư tưởng của tác phẩm cũng như đôi nét phong cách
nhà văn Hồ Anh Thái.
2.3.1. Đặc điểm cấu tạo của miêu tả tố trong BTMT kim tước, BTMT mũi,
BTMT rượu
Các miêu tả tố có chức năng chiếu vật, miêu tả đi kèm DT chỉ vật trong
BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu có đặc điểm cấu tạo khá phong phú.
Chúng có thể được tạo nên bởi một từ, cụm từ và có yếu tố ngôn ngữ được tạo
nên bởi kết cấu chủ - vị. Sự phong phú về đặc điểm cấu tạo của các miêu tả tố
phản ánh sự đa dạng, nhiều sắc thái, mức độ của hình ảnh kim tước, mũi, rượu.
2.3.1.1.Miêu tả tố được cấu tạo bởi một từ
a.

Từ đơn


Trong BTMT kim tước, BTMT mũi và BTMT rượu, phần lớn các miêu tả
tố có cấu tạo là từ đơn (69,8 %). Trong đó, miêu tả tố là từ đơn đơn âm chiếm
phần lớn hơn (68,2 %) so với miêu tả tố là từ đơn đa âm (31,8 %). Từ đơn đơn
âm làm miêu tả tố trong BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu thường là
DT, ĐT, TT, Đ.T chỉ xuất, trong đó DT có tỉ lệ lớn hơn cả (40,9 %). Từ đơn đơn
âm có ở cả ba BTMT (kim tước, mũi, rượu). VD: “Chị ta đưa cho Nilam một
chén rượu, kèm theo cái nhìn đầy cảm thông.”[2, T32].
Từ đơn đa âm tiết làm miêu tả tố trong BTMT kim tước, BTMT mũi,
BTMT rượu là các từ chỉ tên người, tên nước của tiếng nước ngoài (Ấn Độ) và
từ chỉ tên hoa “kim tước” – một loài hoa ở Ấn Độ. Từ đơn đa âm làm miêu tả tố

23


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

không xuất hiện ở BTMT rượu. VD: “Nhưng Ravi chỉ để cho chóp mũi chạm
vào chóp mũi Nilam.”[2, T24].
Các từ đơn thực hiện chức năng miêu tả tố này thường kết hợp với các DT
trung tâm chỉ bộ phận của sự vật (như “lá, hoa, cành, gốc cây” trong BTMT
kim tước; “chóp mũi, đường” trong BTMT mũi; hoặc DT chỉ vật chứa đựng
như “chén”, “chai” trong BTMT rượu) có tác dụng cá thể hóa sự vật hoặc bộ
phận của sự vật được nói tới, tách ra khỏi những sự vật cùng loại hay các bộ
phận khác của sự vật ấy.
b. Từ phức
Trong BTMT kim tước, BTMT mũi và BTMT rượu, miêu tả tố là từ phức
xuất hiện ít hơn từ đơn (từ đơn 69,8 %, từ phức 30,2 %). Trong số đó, từ ghép
chiếm phần lớn (84,2 %), từ láy chỉ có 15,8 %. Ở 3 BTMT (kim tước, mũi,
rượu) này, từ ghép phân nghĩa và từ ghép hợp nghĩa có tỉ lệ 50 %, không có từ

ghép bao gộp.
VD: Từ ghép phân nghĩa
• “Cả một vùng đồi sáng bừng lên hắt ánh sáng vàng rực xuống làng khiến
cho những cánh đồng hoa cải chỉ còn là một màu hấp kim nhợt nhạt hết
sức thiểu não”. [2, T36]
Từ ghép hợp nghĩa
• “Nhưng không có chén hận thù”. [2, T38]
Những miêu tả tố là từ ghép xuất hiện ở cả 3 BTMT (BTMT kim tước,
BTMT mũi, BTMT rượu) và thường là những TT chỉ màu sắc, tâm trạng, cảm
xúc, cảm giác. Ở BTMT mũi, ngoài từ ghép là TT chỉ cảm giác (như “êm dịu”)
còn có từ ghép là TT chỉ sự đánh giá (thanh tú, tuyệt vời), ở BTMT kim tước
còn có từ ghép làm miêu tả tố là DT chỉ người (con gái). Ở BTMT rượu có từ
ghép làm miêu tả tố là DT chỉ chất liệu (rượu bia), chỉ thứ tự (thứ hai).
Trong những BTMT mà chúng tôi khảo sát, miêu tả tố là từ láy xuất hiện
với tần số thấp hơn so với từ ghép, không xuất hiện ở BTMT rượu. Miêu tả tố là
từ láy bao gồm từ láy bộ phận và từ láy toàn bộ:
24


Ý nghĩa của biểu thức miêu tả trong truyện ngắn “Tiếng thở dài qua rừng kim tước” của Hồ Anh Thái

VD: Láy toàn bộ
• “Chóp mũi của Ravi tưởng đã quên dần dần khôi phục những đường trượt
đường vờn nhè nhẹ trên cái chỗ đã từng là chóp mũi của Nilam…”[2,
T38].
Láy bộ phận
• “Chỉ còn giữ lại vòm hoa vàng buông xoã thướt tha…” [2, T37].
33,3% những từ láy làm miêu tả tố là từ chỉ trạng thái của sự vật (như
“thướt tha”), 33,3% những từ láy làm miêu tả tố chỉ mức độ của hành động
(nhè nhẹ) và 33,4% những từ láy làm miêu tả tố chỉ hành động (vuốt ve).

2.3.1.2.Miêu tả tố được cấu tạo bởi cụm từ
Trong BTMT kim tước, BTMT mũi, BTMT rượu, các miêu tả tố có cấu tạo
là cụm từ xuất hiện với tần số thấp hơn so với từ, chỉ bằng 1/3 tần số xuất hiện
của miêu tả tố là từ. Trong đó, không có miêu tả tố là cụm từ đẳng lập, 5,5 %
miêu tả tố là cụm từ chủ - vị, 5,5 % miêu tả tố là ngữ cố định và tới 89 % miêu
tả tố là cụm từ chính phụ. Điều này có thể lí giải bằng đặc điểm chức năng của
từng loại cụm từ. Cụm từ chính phụ thường không trình bày hoàn chỉnh, toàn
vẹn về đặc điểm sự vật, hiện tượng mà chỉ ra một đặc điểm nào đó của sự vật,
miêu tả đặc điểm nhằm gợi mở suy nghĩ cho người nghe (đọc) về sự vật, hiện
tượng đó. Còn cụm từ chủ - vị thường trình bày một ý tương đối hoàn chỉnh. Do
đó, cụm từ chính phụ được Hồ Anh Thái lựa chọn chủ yếu để miêu tả kim
tước, mũi, rượu. Cụm từ đẳng lập không được sử dụng bởi đặc trưng của cụm
từ đẳng lập là các thành tố có quan hệ ngang bằng, bình đẳng với nhau, sẽ khó
khăn trong miêu tả đặc điểm, tính chất, mức độ, cảm xúc, tâm trạng của sự vật
và đối với sự vật, khó thấy được mối quan hệ gắn kết móc xích giữa các đặc
điểm cần được chỉ ra trong miêu tả tố.
Về đặc điểm của ngữ cố định, cụm từ chính phụ, cụm từ C - V làm miêu tả tố
trong BTMT kim tước, mũi, rượu, chúng tôi có thể rút ra những nhận xét như sau:
a. Cụm từ chính phụ

25


×