Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Bài học kinh nghiệm từ báo chí việt nam trước cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.21 KB, 41 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU:

I.1.Lí do lựa chọn đề tài:
Cách mạng tháng 8 năm 1945 đánh dấu mốc son hào hùng vĩ đại trong
sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Sự kiện lịch sử này đồng thời trở
thành mốc thời gian để phân chia các giai đoạn báo chí nước nhà: giai đoạn
báo chí trước cách mạng và báo chí cách mạng.
Báo chí là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, nó chỉ sinh ra trong
những điều kiện nhất định của lịch sử xã hội. Tuy nhiên, không vì thế mà báo
chí của giai đoạn nào thì chỉ đơn thuần phát triển tự thân nó mà không có sự
kế thừa, phát huy từ những bài học kinh nghiệm của các giai đoạn báo chí
trước. Bất cứ một nền báo chí nào cũng chịu tác động quy luật này, báo chí
giai đoạn nào cũng để lại những bài học quý giá từ thực tiễn nó đã trải qua.
Cũng phải nói thêm, do hoàn cảnh ra đời của từng dòng báo chí có biến thiên,
nên kế thừa và phát huy là dựa trên cơ sở chọn lọc, đào thải để áp dụng cho
phù hợp. Báo chí trước cách mạng tháng 8 đã để lại nhiều bài học kinh
nghiệm cho thế hệ sau kế thừa và phát huy vói nhiều thành tựu như thế.
Nhìn vào lịch sử báo chí Việt Nam, có thể thấy ngay rằng báo chí song
hành, gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Báo chí Việt Nam là báo chí cách
mạng, phục vụ cách mạng, phục vụ lợi ích của đông đảo quần chúng nhân
dân. Báo chí cũng là vũ khí sắc bén chống lại kẻ thù của nhân dân trên mặt
trận tư tưởng. Báo chí trước cách mạng tháng 8 có vai trò lịch sử của riêng nó,
ở đây phải kể đến báo Thanh Niên- tờ báo ra đời ngày 21/6/1925, là khởi
nguồn của báo chí cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc đén nền báo
chí về sau. Lật lại lịch sử, tìm hiểu về chủ trương, nội dung cũng như hình
thức biểu hiện của báo Thanh Niên để thấy được những đóng góp, những bài
học kinh nghiệm vô giá về nghề báo.


“Bài học kinh nghiệm từ báo chí Việt Nam trước cách mạng” là một đề
tài mà tìm hiểu, nghiên cứu về nó sẽ giúp cho người viết và người đọc những


kiến thức bổ ích về cả lí luận và cả thực tiễn đời sống báo chí Việt Nam.
I. 2.Tình hình nghiên cứu
Hiện tại chưa tìm thấy công trình khoa học nào nghiên cứu trọn vẹn,
đầy đủ về vấn đề “bài học kinh nghiệm từ báo chí Việt Nam trước cách mạng
tháng 8”. Những tài liệu nói về vấn đề này cũng còn rất nhiều hạn chế, nhỏ lẻ,
không chuyên sâu.
I.3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
I.3.1.Mục đích nghiên cứu:
Thông qua tiểu luận này, người viết trình bày những tìm hiểu tập trung
về vấn đề vai trò, đóng góp của báo chí Việt Nam trước cách mạng để lại cho
nền báo chí giai đoạn sau, đặc biệt là thành tựu và sự nở rộ của báo chí giai
đoạn ngay đó- giai đoạn báo chí cách mạng. Không thu thập được nhiều
nguồn tài liệu, người nghiên cứu tập hợp và chọn lọc những tìm hiểu,thông
tin, phân tích của mình nhằm đưa ra cái nhìn tổng quan, tương đối đày đủ, chi
tiết về bài học kinh nghiệm từ báo chí Việt Nam trước cách mạng tháng Tám
1945.
I.3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, tác giả cho rằng tiểu luận cần giải
quyết được 3 nhiệm vụ nghiên cứu chính sau đây:
-

Một là, trình bày quá trình hình thành cũng như các giai đoạn

của báo chí Việt Nam trước cách mạng tháng 8.
-

Hai là, tìm hiểu về tờ báo ra đời trước cách mạng nhưng có

tầm ảnh hưởng lớn- tờ “Thanh Niên”.
I.4.Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:



-

Đối tượng nghiên cứu: các giai đoạn báo chí trước cách mạng

tháng 8/ 1945, đi sâu vào tìm hiểu tờ báo “Thanh Niên” ( do Nguyễn Ái Quốc
làm chủ biên)
-

Phạm vi nghiên cứu: đặc điểm báo chí ra đời trước cách mạng

tháng 8, những thành tựu mà báo chí Việt Nam giai đoạn sau kế thừa và phát
huy, học tập được từ bài học kinh nghiệm của báo chí trước cách mạng tháng 8.
I.5.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của bài luận:
Xét về ý nghĩa khoa học, bài luận sẽ là nguồn tài liệu tham khảo hữu
ích cho công tác giảng dạy mở rộng trong nhà trường, làm tài liệu tham khảo
cho sinh viên báo chí, gợi mở hướng nghiên cứu để tiếp tục nâng cao chất
lượng các hoạt động báo chí ở nước ta.
Về mặt thực tiễn, bài luận là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tổ chức
hay cá nhân có cái nhìn sâu hơn về giai đoạn báo chí trước cách mạng. Bài
luận còn là cơ sở để các nhà hoạt động trong lĩnh vưc báo chí phântích, đánh
giá…và tiếp nhận để ứng dụng thực tế vào nghề báo hiện nay.Quá trình
nghiên cứu đề tài cũng giúp tác giả nâng cao hơn năng lực nhận thức và khả
năng hoạt động chuyên môn của mình.


II.NỘI DUNG:
II.1. Các giai đoạn báo chí Việt Nam trước Cách Mạng tháng
8/1945:

Những tờ báo đầu tiên ở nước ta xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX. So
với nhiều nước khác, báo chí Việt Nam sinh sau đẻ muộn hơn các nước Châu Âu
hàng mấy trăm năm. Tuy vậy, chỉ với hơn một thế kỷ tồn tại và phát triển, báo chí
Việt Nam đã có một lịch sử phong phú, mang những sắc thái riêng biệt và bước
trưởng thành của nó gắn rất chặt với những biến thiên của lịch sử.

Có thể chia báo chí giai đoạn này thành hai thời kì lớn, đó là thời kì
của những tờ báo đầu tiên và thời kì những năm đầu thế kỉ XX.
II.1.1.Thời kì những tờ báo đầu tiên( cuối thế kỉ XIX):
Có 4 tờ báo lớn bằng tiếng Pháp ra đời sớm nhất tại Nam kì đã mở
đầu cho kỉ nguyên báo chí của Việt Nam đó là:
*Nam kì viễn chinh công báo, ra đời 29/9/1861, phát hành một tuần/
số. Nội dung tuyên truyền công việc hoạt động của chính quyền thực dân
Pháp tại Việt Nam , đăng tải những thông báo, quy định, nghị định của Pháp
tại Việt Nam .
*Xã thôn công báo ra đời năm 1862, khi Pháp chiếm 3 tỉnh Nam kì.
Nội dung thông báo những biện pháp thi hành của viên thống đốc chỉ huy
trưởng, thiết lập nền an ninh trật tự tại miền đất mà Pháp chiếm đón
*Thời báo Sài Gòn ra đời 1864 thông tin về sự phát triển và nở rộ
quan hệ buôn bán tại Việt Nam .


*Nam kì kĩ nông công báo năm 1865 chuyên bàn về kinh tế công
nghiệp và nông nghiệp.
Ngoài ra những tờ báo bằng tiếng Pháp khác như: Sài Gòn độc lập
(1873), Sài Gòn nhật báo(1880), Người Sài Gòn(1883), Sông Mê
Công(1892), Công luận(1899)…
Báo chí tiếng Pháp trong thế kỉ này tăng trưởng và phát triển khá
nhanh, điển hình như: Công báo của ủy ban công thương của Bắc kì và Trung
kì(1883), Tương lai của bắc kì(1884), tin tức Hải Phòng, Bắc kì độc lập…

Gia Định báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên đã ra đời ngày 18/4/1865, do
Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, Huỳnh Tịnh Của làm chủ bút.

Gia Định báo phát hành trong phạm vi vùng chiếm đóng của
thực dân Pháp lúc đó là 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ. Gia Định báo có khổ
25x32cm và giá 0,97 đồng/tờ. Thời gian đầu, báo ra mỗi tháng 1 kỳ vào ngày
15 hàng tháng. Báo ra mỗi tháng 2 kỳ, rồi mỗi tuần 1 kỳ, tuy nhiên ngày ra
báo của Gia Định báo không cố định, khi thì thứ ba, thứ tư, lúc lại thứ bảy. Số
trang của Gia Định báo cũng không cố định, khi thì 4 trang, lúc 12 trang.
Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: công vụ và
tạp vụ. Phần công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền,
đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân; còn
phần tạp vụ gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo,
văn hóa - xã hội... Sau khi Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, Gia Định báo
được thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm,
khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích... Ông đề ra ba mục đích
cho tờ báo: Truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân học và khuyến học trong
dân. Từ đó, báo không chỉ làm một tờ công báo đơn thuần nữa.
II.1.2.Báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX:


Như trong phần hoàn cảch ra đời của báo chí đã trình bày, đến đầu thế
kỉ XX cuộc khai thác thuộc địa lần 1 và lần 2 đã được tiến hành sau khi Pháp
hoàn thành công cuộc xâm lược ba nước Đông Dương. Cũng trong thời gian
này cuộc đấu tranh của đông đảo quần chúng nhân dân yêu nước đã diễn ra
mạnh mẽ, điển hình như: chống đi phu, đi lính, chống thuế, bãi công biểu tình
của công nhân… nhưng đều thất bại. Hoạt động yêu nước của những nhà trí sĩ
như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… diễn ra thu hút rất nhiều người tham
gia. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực báo chí, tư tưởng đã diễn ra khắp từ Bắc chí
Nam . Cũng trong đầu thế kỉ XX chiến tranh thế giới I nổ ra đã tác động mạnh

mẽ đến tình hình chính trị thế giới.
Trong hoàn cảnh như vậy báo chí Việt Nam phát triển khá mạnh, với
hàng chục tờ ở khắp các miền trên cả nước. Theo thống kê, năm 1922 cả nước
có 86 tờ báo, năm 1925 có 121 tờ báo, đến hết cuộc khai thác thuộc địa lần
hai 1929 cả nước có 153 tờ báo. Nếu tính riêng các miền thì báo chí có sự
phát triển không đều, miềnn Bắc báo chí phát triển số lượng lớn nhất, miền
trung có số lượng báo chí ít nhất.
Những tờ báo và tạp chí nổi tiếng trong thời kì này như: Lục tỉnh tân
văn, Nông cổ mín đàm, Đại Việt quan báo, Đăng cổ tùng báo,Đông Dương
tạp chí, Trng Bắc tân văn, Nam phong tạp chí,…
*Tờ Lục tỉnh tân văn
Báo ra mỗi tuần một số, sau tăng 3 số một tuần, xuất bản từ 15.1.1907
tại Sài Gòn do Snaiđơ (H. Schneider) sáng lập rồi Jăngtê (P. Jeantet) làm chủ
nhiệm, Trần Nhật Thăng làm chủ bút. Từ 3.10. 1921, Lục tỉnh tân văn hợp
nhất với Nam trung nhật báo vẫn giữ tên Lục tỉnh tân văn do Nguyễn Văn
Của làm giám đốc, Lê Hoàng Mưu làm chủ bút, chuyển thành báo ngày, 12.
1944 thì đình bản. Đây là tờ báo của các nhà địa chủ và trí thức của phong
trào Duy tân.
Nội dung của Lục tỉnh tân văn tập trung 3 vấn đề chính:


- Phát động người Việt phát triển kinh tế cạnh tranh với hàng hóa của
thương nhân Pháp, Hoa, Ấn. Kêu gọi chấn hưng kinh tế nước nhà
- Khai trí, mở mang trưòng học, chống lối học tầm chương, cổ vũ lối
học mới…
- Đấu tranh dân sinh.
Xu hướng chính trị của chủ yếu của Lục tỉnh tân văn phục vụ chính
sách của chủ nghĩa thực dân Pháp.
*Tờ Nông cổ mín đàm
Nông cổ mín đàm (chữ Hán, nghĩa là "uống trà bàn chuyện làm ruộng

và đi buôn") là tờ báo tiếng Việt do Paul Canavaggio - một chủ đồn điền và
thương gia người đảo Corsica, hội viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ làm chủ
nhiệm, chủ bút lần lượt là các ký giả Dũ Thúc Lương Khắc Ninh, Gilbert Trần
Chánh Chiếu, Nguyễn Chánh Sắt. Nông cổ mín đàm bàn về nông nghiệp và
thương nghiệp, phát hành thứ năm hằng tuần tại Sài Gòn bằng chữ Quốc ngữ.
Số 1 ra ngày 1 tháng 8 năm 1901.
Báo được phổ biến khá rộng, hầu khắp Lục tỉnh, tuy nhiên số người
mua báo không nhiều. Theo mục Bổn quán cẩn tín trang 6 số 39 (ngày 22
tháng 5, 1902), thì sau gần 1 năm phát hành, đã có 325 người mua báo, chủ
yếu là các quan chức và điền chủ ở các địa phương, như cai tổng, hội đồng,
hương chủ, tri huyện, và các công chức nhà nước - tức là những người biết
đọc chữ quốc ngữ và có quan tâm đến các vấn đề mà tờ báo đề cập. So với tờ
Gia Định báo thì số lượng phát hành của Nông cổ mín đàm tương đối khiêm
tốn, có lẽ bởi Gia Định báo là công báo được chính phủ Pháp tài trợ in ấn, và
buộc các làng các tổng phải mua, trong khi Nông cổ mín đàm là tờ báo tư
nhân và tự trang trải tài chính. Giá báo một năm dành cho người Việt là 5
đồng, cho người Pháp và người nước ngoài là 10 đồng. Sau khi phát hành số
ra ngày 4 tháng 11 năm 1921 thì báo bị đình bản. Đây được coi là tờ báo kinh
tế đầu tiên bằng chữ quốc ngữ.
* Tờ Đại Việt quan báo:


Ra đời năm 1905 tại Hà Nội, người sáng lập là Babus, chủ bút là Đào
Nguyên Phổ. Chuyên mục trên báo gồm những nghị định của thống đốc toàn
quyền Đông Dương, thống đốc Bắc kì.
Nội dung tuyên tuyền chính sách và pháp luật của thực dân Pháp, tin
tức giao thông, thông tin về quốc tế…
* Đăng cổ tùng báo:
Tờ Đăng Cổ Tùng Báo xuất bản ở Hà Nội, ra mắt số đầu vào tháng 31907, vốn là sự nối tiếp của tờ Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo từ những năm
cuối thế kỷ 19. Chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh. Nét đặc sắc của Đăng Cổ - gắn

với phong trào Đông Kinh nghĩa thục của các nhà duy tân đầu thế kỷ 20 - là
có thêm phần quốc ngữ bên cạnh phần chữ Hán của tờ Đại Nam .
Trong lịch sử báo chí quốc ngữ VN, Đăng Cổ được coi là tờ báo đầu
tiên ở miền Bắc, trong khi ở miền Nam từ ngót nửa thế kỷ trước đã có tờ Gia
Định Báo (1865). Nét đặc sắc của Đăng Cổ như nghĩa nôm của nó (đánh
trống) là sự cổ vũ cho những tư tưởng mới của phong trào nghĩa thục.
Nội dung của Đăng cổ tùng báo hô hào mở mang công nghiệp, ỏ khoa
cử, bỏ hủ tục cũ, phản ánh những chuyển biến kinh tế xã hội, phản án lợi ích
tư bản bản xứ. Báo bị đình bản sau tám tháng hoạt đọng do đăng tải những bài
viết vận động duy tân. Tờ báo này được đánh ía có sự phát triển về mặt
nghiệp vụ.
Nhân vật chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh, một kí giả, dịch giả nổi tiếng
của làng báo Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ông đã đóng góp rất nhiều trong việc
phổ quát tiếng Việt qua tờ Đăng Cổ Tùng Báo, tờ báo đầu tiên viết bằng chữ
Quốc Ngữ tại miền Bắc. Đáng kể nhất là việc khuyến khích dùng chữ Quốc
Ngữ qua tờ Đông dương Tạp chí (1913). Ngoài ra, ông còn nhiều công trình
dịch thuật văn học như dịch thơ ngụ ngôn La Fontaine, truyện cổ tích
Perrault, kịch Molière từ tiếng Pháp sang tiếng Việt. Bảng dich truyện Kiều
sang Pháp văn của ông rất đặc sắc. Ngoài việc là bản dịch đầu tiên, tất cả


những điển tích, điển cố vay mượn của Trung Hoa đều được ông chú thích
đầy đủ bằng tiếng Pháp.


Đông Dương tạp chí:

Ra đời năm 1913, là chi nhánh của lục tỉnh tân văn. Chủ bút là Nguyễn
Văn Vĩnh, các cây bút khác như: Phạm Duy Tốn, Phan Kế Bính, Phạm
Quỳnh, Trần Trọng Kim, Tản Đà…

Mục tiêu: đem thuật hay nghề mới dạy co dân An Nam, phản ánh
quan

điểm của thực dân Pháp và tay sai của chúng.
Báo có những mục: sư phạm học khoa, dạy quốc ngữ, mục công

văn học tập, một lối văn nôm na…
Đông Dương tạp chí đình bản tháng 7/1919.
* Tờ Trung Bắc tân văn:
Ra đời năm 1915, chủ bút là Nguyễn Văn Vĩnh. Lúc đầu báo ra hằng
tuần sau 3 kì/tuần, đến năm 1919 ra hằng ngày.
Báo có các chuyên mục như: ngôn luận tự do, văn học, câu chuyện
lịch sử, tin trong nước và quốc tế, bình luận, thời sự… Báo có phụ ttrương
ngày chủ nhật. báo bị đình bản ngày 16/9/1945.
* Nam phong
Nam Phong tạp chí là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày
1 tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì đình bản, tất cả được 17 năm
và 210 số. Tạp chí Nam Phong do Phạm Quỳnh làm chủ nhiệm và chủ bút.
Nam Phong là một trong những tạp chí Việt Nam đầu tiên đúng thể thức, bài
bản và giá trị về tri thức, tư tưởng.
Nam Phong thường đăng nhiều bài văn, thơ, truyện ngắn, phê bình văn
học, và tài liệu lịch sử bằng quốc ngữ. Là một phương tiện của thực dân Pháp
để tuyên truyền cho chế độ thực dân[1], cương lĩnh chính trị của tạp chí ít được
chú ý. Tuy nhiên, tạp chí đã góp phần vào việc truyền bá Chữ Quốc Ngữ vào
Việt Nam .


II.1.2.1.Báo chí Việt Nam trong những năm thập niên hai mươi của
thế kỉ XX:
Trong những năm thập niên hai mươi, bên cạnh những tờ báo giai

đoạn trước như Lục tỉnh tân văn, Nam phong, Trung Bắc tân văn… vẫn phát
triển thì những tờ báo và tạp chí mới tiếp tục ra đời. Nội dung báo chí giai
đoạn này tập trung chủ yếu những vấn đề như: kinh doanh thương nghiệp,
phản ánh lợi ích của nhiều giai cấp khác nhau trong xã hội, đã xuất hiện
những tờ báo đề cập đến tư tưởng cách mạng của Lênin, phong trào đông kinh
nghĩa thục với những cuộc tranh cãi nổi tiếng. Số lượng báo chí trong giai đạn
này tăng khá nhanh.
Những tờ báo và tạp chí nổi tiếng trong giai đoạn này như: Thực
nghiệp dân báo, khai hóa nhật báo, Hữu thanh tạp chí, Đông Pháp thời báo,
Trung lập báo, An Nam tạp chí, Pháp Việt nhất gia, báo Tiếng dân, Hà thành
ngọ báo, báo Đông tây, phụ nữ tân văn, kì lân báo…
* Khai hóa nhật báo:
Ra đời năm 1921 tại Hà Nội , người sáng lập là Bạch Thái Bưởi,
chủ bút là Hoàng Tích Chu. Khuynh hướng: tin hay, tin lạ ở trong nước và lân
bang, ở khắp địa cầu, bàn về chấn hưng nông, công, thương, vấn đề tiêu thụ
hàng hóa nội địa… Khai hóa nhật báo phản ánh quyền lợi của giai cấp tư sản
lúc bấy giờ.
Chủ bút Hoàng Tích Chu (1897 - 25 tháng 1 năm 1933) là nhà báo,
người có đóng góp lớn trong việc cách tân báo chí Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Ông còn có bút danh Kế Thương, Hoàng Hồ. Phan Khôi đã nhận xét về văn
của ông “ Trong văn Quốc ngữ ta, cái lối viết của ông Hoàng Tích Chu thật
nó biệt hẳn ra một lối, đủ mà kêu được là “lối văn Hoàng Tích Chu”, sự ấy
trong làng văn ta hình như đã công nhận một cách vô tâm rồi. Chẳng luận lối
văn ấy ông Chu sáng tạo ra hay bắt chước của ai; nội một cái biệt lập ra một
nhà được như thế, cũng khá gọi là tay hào kiệt trong làng văn vậy (..) Lối văn
Hoàng Tích Chu ấy mà muốn vĩnh viễn thành lập trên văn đàn, bề nào cũng


phải cải lương. Mà sự cải lương nầy không cốt ở sửa đổi đẽo gọt bề ngoài,
phải nhờ ở công học vấn bên trong mới được.”

* Đông Pháp thời báo:
Ra đời năm 1924 tại Sài Gòn. Giám đốc là Trần Kim Đính sau là
Diệp Văn Kỳ. Chủ bút là Trần Huy Liệu và Nguyễn Văn Bá. Nội dung của
Đông Pháp thời báo phản ánh quyền lợi của giai cấp tư sản,tuyên truyền cho
chính sách của thực dân Pháp cũng như cải cách, hô hào trấn hưng công nông
thương, chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa, chấn chỉnh quốc văn, cải cách
giáo dục, đòi các quyền tự do dân chủ, phản ánh các cuộc đình công bãi khóa
Đông Pháp thời báo bị thực dân Pháp rút giấy phép, 22/12/1928 ra bản
cuối cùng.
*An Nam tạp chí:
An Nam tạp chí là tên một tờ báo do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
sáng lập năm 1926. Đây là tờ tạp chí chuyên về văn học đầu tiên của Việt
Nam. Sau chín tháng ra được 10 số. Báo bị đìn bản do thiếu vốn hoạt động,
tiếp tục ra 3 số rồi ngừng. Tháng 1/1931 tái bản và in đựơc chín số. Báo ra
được 48 phụ bản, đình bản vào 1/3/1933.
*Pháp Việt nhất gia:
Ra đời 1927, chủ bút là Trần Quang Liêm. Nội dung báo công
kích chính sách của thực dân Pháp nên bị Pháp đàn áp.
Lê Thành Lư, người chủ bút sau của Pháp Việt nhất gia đã nói lên
nỗi đau khổ và nhục nhã của những nhà báo Việt Nam sống trong cảnh mất
nước: “có miệng không được nói, có tư tưởng khôn dược giãi bày, đóa là số
kiếp của 25 triệu đồng bào,… những người làm báo toàn là người miệng cân
tai điếc… ở nước nô lệ ngôn luận là cái họa”.
15/5/1927 báo xuất bản 1000 số phát không cho bạn đọc, Lê
Thành Lư đã bị Pháp bắt giam.
*Báo Tiếng dân:


Báo Tiếng Dân là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại An Nam
(Trung Kỳ), do ông Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), một nho gia thuộc

trường phái duy tân, phát hành. Tòa soạn báo đặt tại Huế, phổ biến và có ảnh
hưởng lớn trong giới trí thức miền Trung trong gần 16 năm dài, từ 1927 tới
năm 1943
Nội dung của báo Tiếng dân tập trung phản ánh lợi ích của tư sản
dân tộc, xu hướng dân tộc dân chủ theo đường lối chính trị cải lương, không
tán thành chủ nghĩa cộng sản, chống việc giải truyền đơn. Báo cũng đăng
nhiều bài chống phong kiến, vạch rõ tính chất bù nhìn của viện dân biểu
Trung kì, chống tham nhũng, cường hào, đưa tin các cuuộc đấu tranh của
quần chúng nhân dân.


Phụ nữ tân văn:
Ra ngày 2/5/1929 chủ nhiệm là Nguyễn Đức Nhuận, chủ bút là Đào

Chinh Nhất.
Đây là báo thông tin nghị luận văn học, bàn về những vấn đề phụ
nữ, vai trò của phụ nữ trong quốc gia và xã hội.
Báo có lập trường dân tộc, vấn đề nữ quyền, bàn về phụ nữ và gia
đình, khoa học, giáo dục, tiểu thuyết, nhi đồng…
Báo phụ nữ tân văn tồn tại và thành báo Phụ nữ Việt Nam .


II.1.2.2 Thời kỳ 1925-1945:
II.1.2.2.1.Thời kì 1925-1930:

Từ Thanh Niên, cơ quan ngôn luận của Việt Nam Thanh niên Cách
mạng Đồng chí Hội, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trương ra ngày
21/6/1925. Thời kỳ đầu của báo Thanh Niên, do điều kiện được niên tập tại
một địa điểm của Tổng bộ Thanh Niên ở Quảng Châu (Trung Quốc), có nhiều
thuận lợi nên báo ra đúng kỳ hạn. Khi Công xã Quảng Châu bùng nổ, Quốc

Dân Đảng đàn áp và khủng bố các cơ sở Cách mạng của Trung Quốc cũng
như ở Việt Nam thì Bác Hồ rút vào bí mật. Trong thời gian từ 6/1925 đến
4/1927, báo Thanh Niên đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bác Hồ. Nhưng khi
Bác Hồ trở lại Liên Xô, qua Đức, Thái Lan...Tổng bộ Việt Nam Thanh niên
Cách mạng Đồng chí Hội chuyển sang Hồng Kông, báo Thanh Niên vẫn tiếp
tục xuất bản cho đến khi Hội giải tán vào tháng 8/1929. ở trong nước có một
số báo phát hành bí mật như tờ Búa Liềm, của Đông Dương cộng sản Đảng,
số 1 ra ngày 1/10/1929. Tờ Công Nông của Việt Nam Thanh niên Cách mạng
Đồng chí Hội (1926). Tờ Cờ Đỏ của An Nam Cộng sản Đảng (1929)...


Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh nền báo chí cách mạng
Việt Nam

Trong tiến trình phát triển nền báo chí cách mạng, những bài học quý
giá về làm báo của Hồ Chủ tịch vẫn còn nguyên giá trị cho thế hệ những
người làm báo hôm nay và mai sau...
Trong lĩnh vực hoạt động báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng
lập ra nền báo chí cách mạng Việt Nam - một nền báo chí được coi là nền báo
chí của tương lai, trong hoàn cảnh báo chí nước ta trước năm 1945 sinh hoạt
trong môi trường thuộc địa. Người cũng là nhà báo cách mạng đầu tiên, hoạt
động báo chí của Người không chỉ bắt đầu từ khi khai sinh báo chí cách mạng
bởi tờ Thanh niên (1925), mà trước đó khi còn ở Pháp, Người đã viết cho tờ
Le Paria, Humanité... với tư cách là người cộng sản của Quốc tế Cộng sản.
Người không chỉ là một nhà báo xuất sắc với một phong cách chính luận
mang tính chiến đấu cao và nhiều màu sắc uyển chuyển; phong phú hiện thực
và chiều sâu văn hóa, mà còn là người làm báo tài ba, với một nghệ thuật
tuyên truyền tài giỏi.
Tờ báo Thanh niên - khởi nguồn báo chí cách mạng...
Trong những năm 20 đầu thế kỷ XX, do chính sách khai thác thuộc địa

lần thứ hai của thực dân Pháp đối với nước ta trên quy mô lớn và đi vào chiều
sâu đã làm cho xã hội Việt Nam phân hóa sâu sắc. Nhiều giai cấp hình thành
và phát triển, có mâu thuẫn ở mức độ khác nhau về quyền lợi chính trị và kinh
tế, trong đó giai cấp công nhân bị bóc lột nặng nề nhất, tuy nhiên lại là giai
cấp phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Họ không chỉ nhận rõ bản
chất thâm độc của tư bản Pháp mà họ còn ý thức được vai trò của mình đối
với dân tộc, đất nước. Nhiều thanh niên yêu nước vượt biên giới đến Quảng
Châu, Trung Quốc để đón luồng tư tưởng mới tham gia cách mạng thế giới.
Một số thanh niên trẻ tuổi như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng


Phong... đứng ra thành lập nhóm Tâm Tâm xã với mục đích "hợp sức mọi
người, lấy ý kiến tập thể, dũng cảm tiến lên, đem lại cho mọi người cái nhân
quyền bị cướp mất và mưu cầu hạnh phúc cho quốc dân". Tiếng bom Sa Điện
của thanh niên Phạm Hồng Thái nhằm vào tên Méc-lanh, Toàn quyền Đông
Dương gian ác như báo hiệu bước vào một giai đoạn đấu tranh mới.
Thời gian này Nguyễn ái Quốc đang ở Liên Xô. Trước tình hình đó
Quốc tế Cộng sản liền cử Người về cơ sở cách mạng ở Quảng Châu (Trung
Quốc) để trực tiếp chỉ đạo. Tháng 6/1925 Người lựa chọn một nhóm chiến sĩ
trẻ tuổi trong tổ chức Tâm Tâm xã để thành lập một đoàn thể cách mạng có
xu hướng mác-xít. Đó là Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội.
Theo sáng kiến của Nguyễn ái Quốc, Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách
mạng Đồng chí hội xuất bản tờ báo Thanh niên, làm cơ quan tuyên truyền
đường lối, mục đích và chương trình hành động của Hội. Ngày 21/6/1925 số 1
báo Thanh niên ra đời, và ngày này được coi là ngày khai sinh ra báo chí cách
mạng Việt Nam. Tờ Thanh niên là tờ báo cách mạng đầu tiên bởi nó là tiếng
nói của một tổ chức cách mạng vô sản, do một chiến sĩ cộng sản của giai cấp
vô sản sáng lập, và một điều quan trọng nữa là báo chí cách mạng Việt Nam
bắt đầu hoạt động theo quan điểm hoạt động báo chí của Lênin: "Báo chí là
người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể và tổ chức tập thể".

Trong thời kỳ đầu ra báo, Nguyễn ái Quốc kiêm Tổng biên tập báo,
trực tiếp chỉ đạo, trực tiếp viết những bài quan trọng, ngoài ra còn sửa bài, vẽ
tranh minh họa. Nội dung chủ yếu của tờ Thanh niên tập trung vào một số
điểm cơ bản: "Khơi sâu lòng căm thù quân cướp nước của nhân dân; học tập
lịch sử trong nước và trên thế giới làm thế nào để đưa cách mạng Việt Nam
đến thắng lợi triệt để; tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tập hợp lực lượng
và xây dựng tổ chức để đi đến thành lập một chính đảng có đủ sức mạnh để
lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cách mạng", và 5 năm sau (1930) điều đó
đã trở thành hiện thực.


Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn ái Quốc, báo Thanh niên đã giới thiệu cho
nhân dân ta một con đường cách mạng, một phương pháp làm cách mạng và
một kiểu con người cách mạng mới. Tờ báo trang bị cho chúng ta một tư duy
triết học mới. Một thế giới quan, nhân sinh quan mới bắt đầu thâm nhập vào
Việt Nam. Tờ báo đã tích cực tuyên truyền một con đường cách mạng mới, đó
là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam.
... Đến báo Việt Nam Độc lập - “biết các việc, biết đoàn kết đặng
đánh Tây, đánh Nhật”
16 năm sau, sau khi thực dân Pháp bị thua trận và thất thủ ở chính
quốc, phát xít Nhật kéo vào Đông Dương cùng với Pháp bóc lột nhân dân ta
tới tận xương tủy, Lúc này Nguyễn ái Quốc đang ở Hoa Nam (Trung Quốc)
đang tìm bắt liên lạc với Trung ương Đảng chuẩn bị điều kiện về nước để trực
tiếp lãnh đạo cách mạng. Mùa xuân năm 1941, sau 30 năm bôn ba hải ngoại,
Người cùng với một số đảng viên bí mật trở về Tổ quốc thân yêu đang ngày
đêm chảy máu trước sự dày xéo của bọn đế quốc phát xít sài lang.
Cũng phải nói thêm rằng trong những năm Chiến tranh thế giới thứ 2,
bối cảnh chính trị - xã hội nước ta vô cùng phức tạp, nhiều khuynh hướng
chính trị sinh hoạt tư tưởng - văn hóa khác nhau. Tuy nhiên Đảng Cộng sản

Đông Dương vẫn nhìn thấy con đường đi của cách mạng Việt Nam trong màn
đêm đen tối - một con đường đầy thách thức và thời cơ. Con đường cách
mạng đó đã được Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 11/1939), lần
thứ 7 (tháng 11/1940) đề ra và đã được khẳng định trong Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) do Nguyễn ái Quốc chủ trì, và đã đề ra nhiệm
vụ trước mắt của toàn Đảng là phải chuẩn bị để lãnh đạo cuộc "võ trang bạo
động giành lấy quyền tự do độc lập”, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc
được đặt lên hàng đầu. Người đã sáng kiến thành lập Việt Nam Độc lập Đồng
minh hội, gọi tắt là Việt Minh và dự liệu kế hoạch khởi nghĩa từng phần, tiến
tới Tổng khởi nghĩa. Hơn hai tháng sau, ngày 1/8/1941 Người sáng lập tờ báo


Việt Nam Độc lập, làm cơ quan tuyên truyền của Việt Minh tỉnh Cao Bằng.
Tôn chỉ mục đích của báo được nói rõ trong số đầu: “Cốt làm cho nhân dân
ta hết ngu hèn, biết các việc, biết đoàn kết, đặng đánh Tây, đánh Nhật cho
Việt Nam độc lập, tự do”.
Cũng như tờ Thanh niên, trong hơn ba mươi số đầu của báo Việt Nam
Độc lập do Nguyễn ái Quốc trực tiếp phụ trách và viết bài, biên tập, vẽ tranh
minh họa.
Các bài viết trên báo Việt Nam Độc lập dù thể hiện ở dạng nào cũng
nhằm mục đích kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tộc, ra sức củng cố xây dựng
lực lượng vũ trang cho Mặt trận Việt Minh. Báo chú trọng tuyên truyền giác
ngộ cách mạng cho quần chúng, tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, vạch trần
mọi âm mưu tàn bạo của chúng, khơi sâu lòng căm thù giặc của nhân dân, nêu
những tấm gương, bài học về tình đoàn kết, đồng lòng, đồng sức làm việc lớn.
Báo còn hướng dẫn cách thức tổ chức, phương hướng hoạt động của các đoàn
thể trong Mặt trận Việt Minh, theo mục đích đường lối mà Đảng đã đề ra.
II.1.2.2.2. Thời kỳ 1930-1936:
Sau hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản và thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam vào tháng 2/1930, các tờ báo của tổ chức Cộng sản và các đoàn

thể do các tổ chức đó chỉ đạo đều ngừng xuất bản để bảo đảm sự thống nhất
về tư tưởng, đường đối chính trị. Thời kỳ tiếp theo, báo chí Cách mạng đặc
biệt phong phú cả về tên báo, do Trung ương và các cấp ủy Đảng, các chi bộ
Đảng đứng ra tổ chức. Thoạt đầu, Trung ương Lâm thời cho ra tờ Tạp chí
Đỏ, số 1 ra ngày 5/8/1930. Sau đó 10 ngày, ngày 15/8/1930, Trung ương cho
ra đời báo Tranh đấu; đây là tờ báo đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau hội nghị Trung ương lần thứ I (10/1930) thì Tạp chí Đỏ và Tranh đấu
ngừng xuất bản, thay vào đó là tờ Vô Sản và Tạp chí Cộng Sản, nhân danh
Trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương.


Tờ Vô sản và Tạp chí Cộng sản xuất bản được mấy số, cho đến sau Hội
nghị Trung ương lần II (3/1931) ít ngày, đồng chí Trần Phú và các ủy viên
Trung ương lần lượt sa lưới mật thám thì ngừng xuất bản. Tháng 6/1931, Ban
chỉ huy ở ngoài nước của Đảng Cộng sản Đông Dương (Phân bộ Quốc tế
Cộng sản) thành lập thì tạp chí Bônsơvich, cơ quan lý thuyết của Ban chỉ huy
được xuất bản. Từ số đầu, cho đến số 10 tạp chí ra đều đặn hàng tháng, sau đó
lại có các số cách nhau khá xa.
II.1.2.2.3. Thời kỳ 1936-1939:
Thời kỳ 1936-1939 là cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân các nước
chống phát xít liên minh với các thế lực phản động đẩy tới nguy cơ chiến
tranh thế giới mới. Báo chí Cách mạng ra sức tranh thủ điều kiện thuận lợi
mới về chính trị lần đầu tiên trong lịch sử, kể từ 6/1936, xuất bản công khai.
Lợi dụng chế độ đã ban hành thì báo tiếng Pháp do người Pháp hay người
Việt chủ trương đều không phải xin phép, chỉ cần làm thủ tục đơn giản. Đã có
tất cả 6 tờ báo tiếng Pháp ra đời: Le Travail Rassemblement!, L?Avant
Garde, Le Peuple, En Avant!, Notre Voix. Sau đó một số báo chí Việt Nam
không xin phép cũng ra mắt, trong đó có báo chí Cách mạng: Lao Động, Dân
Tiến, Dân Muốn, Đông Phương, Mới, Tiến Tới. Đặc biệt tờ Dân Chúng, ra
mắt ngày 22/7/1938, cơ quan Trung ương của Đảng xuất bản ở Sài Gòn. Ngày

30/8/1939, chính quyền buộc phải thừa nhận báo của ta là hợp pháp. Thực tế
lịch sử đó cho chúng ta thấy đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng báo Dân Chúng
là tờ báo đi tiên phong, mở đường cho tự do báo chí thắng lợi.
Những tờ báo cách mạng chỉ chiếm một phần tư tổng số báo trong thời
kỳ này nhưng giữ một vị trí rất quan trọng, chiếm lĩnh được cảm tình của
đông đảo bạn đọc nhất. Do chính sách của Mặt trận dân chủ của Đảng và cao
trào cách mạng của quần chúng, báo chí cách mạng có ảnh hưởng tốt đến các


tờ báo khác, hình thành mặt trận báo chí dân chủ, phối hợp đấu tranh và giành
được một số thắng lợi vang dội như triệu tập được Hội nghị báo giới ở Trung
kỳ và Bắc kỳ, thảo luận nhiều vấn đề bổ ích về chính trị và nghề nghiệp.

II.1.2.2.4. Thời kỳ 1939-1945:
Trong giai đoạn từ khi phát xít Đức tấn công xâm lược Ba Lan, châm
ngòi lửa chiến tranh, từ đó lan rộng ra hầu khắp thế giới. Thấy khả năng bùng
nổ chiến tranh đã trở thành hiện tượng trực tiếp, đế quốc Pháp chuẩn bị chiến
tranh, đồng thời ban hành một số sắc lệnh và nghị định về báo chí, nhằm kiểm
soát chặt chẽ hơn nữa báo chí xuất bản ở trong nước và đưa từ nước ngoài về
(Nghị định ban hành ngày 19/10/1939). Đến khi Nhật tranh quyền lật đổ Pháp
tháng 3/1945, chúng không có thì giờ và điều kiện ổn định bộ máy thống trị.
Phong trào Cách mạng đang dâng lên mạnh mẽ làm rung chuyển nền tảng
thống trị của chúng. Những ngày đầu của chiến tranh vẫn còn ít tờ báo như
Đời Nay, Đông Phương, Người Mới, Mới ra đời rồi sau đó đóng cửa vì ban
biên tập đã được chỉ thị của Đảng cho chuyển vào bí mật hoặc đã bị địch bắt
giam. Sau đó toàn bộ báo chí Cách mạng lại chuyển vào thời kỳ xuất bản bí
mật, cùng với Đảng Cộng sản Đông Dương và các tổ chức quần chúng của
Đảng. Báo chí bí mật xuất bản trong thời kỳ 1939-1945 với một khí thế mới,
nó phản ánh rõ hướng đi đến toàn thắng, chứ không phải chỉ phản ánh đấu
tranh lâu dài giữa Cách mạng và phản Cách mạng, mà chưa nhìn rõ ngày

thắng lợi, mà nó như một chân lý, một mục tiêu cuối cùng, tất yếu sẽ đạt đến.
Tờ Cứu Quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh, ra mắt quần chúng
ngày 25/1/1942. ở Trung Kỳ cớ tờ Dân Tộc, Nam Kỳ có tờ Giải Phóng. Nam
phần Bắc Kỳ có tờ Độc Lập, Đặc biệt tờ Việt Nam Độc Lập do Bác Hồ sáng
lập, chỉ đạo biên tập, in, phát hành, là cơ quan của Tỉnh bộ Việt Minh Cao


Bằng số 1 ra ngày 1/8/1941. Sau Cách mạng Tháng Tám vẫn tiếp tục xuất
bản.
Các báo 'hàng dọc' của các đoàn thể cứu quốc thì có tờ Chiến Đấu của
Việt Nam Quân nhân Cứu Quốc Hội, sau đổi là Kèn Gọi Lính. Tờ Lao Động
của Việt Nam Công nhân Cứu quốc Hội. Tờ Quân Giải Phóng của Việt Nam
Giải Phóng Quân. Tờ Tiền Phong của Hội Văn hóa Cứu quốc, tờ Việt Nam
của Việt Nam Cứu Quốc Hội...
Ngày 28/2/1943, Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra số 1 và ngày 24/9/1943 ra
số 2. Số 3 đã xong bài vở, chưa kịp in để phát hành thì tổng khởi nghĩa.
Kể từ khi tờ Dân Chúng ngừng xuất bản (1/1939), sau hơn 3 năm
chúng ta mới lại có báo làm cơ quan Trung ương của Đảng lấy tên là Cờ Giải
Phóng, ra mắt số 1 ngày 10/10/1942. Cờ Giải Phóng do Tổng bí thư Trường
Chinh trực tiếp phụ trách biên tập.
II.2.ĐẶC ĐIỂM TÍNH CHẤT CỦA CÁC GIAI ĐOẠN BÁO CHÍ
VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 :
II.2.1. Thời kì những tờ báo đầu tiên( cuối thế kỉ XIX):
Bước đầu, Gia Định báo có mục đích chủ yếu là công cụ thông tin của
thực dân Pháp ở Đông Dương với tư cách là một tờ công báo chuyên đăng các
công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân. Sau này, khi
Trương Vĩnh Ký chính thức làm giám đốc, tờ báo mới được phát triển mục
biên khảo, thơ văn, lịch sử... Từ đó, báo không chỉ làm một tờ công báo đơn
thuần nữa.Gia Định báo cũng có góp phần cổ động việc học chữ Quốc ngữ và

lối học mới, mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ Quốc
ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí Việt Nam.


Người phụ trách tờ báo là Trương Vĩnh Ký(1837 – 1898), ông là
người công giáo, là nhà văn, nhà báo, nhà bác học, thông thạo 26 ngôn ngữ,
một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19.Ông để lại hơn 100 tác phẩm về
văn học, lịch sử, địa lý, từ điển và dịch thuật. Ông được coi là người đặt nền
móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam, phụ trách rất nhiều tờ báo khác ngoài
Gia Điịnh báo.
Người chủ bút của Gia định báo là Huỳnh Tịnh Của(1834-1907),
quê ở làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa (nay là huyện Đất Đỏ, tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, là một nhà văn hóa học và ngôn ngữ học thông thạo cả
tiếng Hán và tiếng Pháp, có đóng góp xuất sắc trong việc nghiên cứu, phát
triển và truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu, đặc biệt là ở Nam bộ.
Vai trò của Gia Định Báo từ khi ra đời đến những đóng góp của tờ báo
này trong tiến trình phát triển tiếng Việt và những giá trị quan trọng cống hiến
cho nền báo chí và lịch sử nước nhà.
Đặc biệt, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đánh giá cao Gia Định Báo
và coi đây như là “một di sản văn hoá phi vật thể xuất hiện từ đầu thời Pháp
thống trị giúp ta hiểu được khúc quanh lịch sử của đất nước ta: từ phong kiến
Á Đông chuyển sang thuộc địa nửa phong kiến, bắt đầu sử dụng quốc ngữ
Latinh đồng thời học tập theo khoa học thực nghiệm Tây phương”.

Như vậy, báo chí Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX đã được
hình thành, phát hành công khại dưới sự kiểm soát của nhà nước thuộc địa.
Tính chất xâm lược, đầu hàng bán nước của một bộ phận người bản sứ làm
việc cho thực dân. Báo chí công khai bào chữa những chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân, sự đầu hàng, phả quốc của Việt gian.
Tuy nhiên báo chí cũng có những ảnh hưởng tích cực đến quá trình

truyền bá chữ quốc ngữ, phổ biến và phát triển lối học mới. Về mặt nghiệp vụ


báo chí trong giai đoạn này đã đặt nền móng cho báo chí giai đoạn sau, mở
đường cho những thể loại văn xuôi mới.

II.2.2 Báo chí Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX:
Gồm các tờ: Lục Tỉnh Tân văn, Nông cổ mín đàm, Đại Việt quan báo,
Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc tân văn, Nam Phong…
Trên đây là 7 tờ báo và tạp chí tiêu biểu của Việt Nam thời kì đầu thế kỉ
XX. Thông qua đó cho thấy: Báo chí Việt Nam phát triển khá mạnh mẽ trong
giai đoạn này. Trên cả Bắc kì, Trung kì, Nam kì báo chí đề rất phát triển, đặc
biệt ở miền Bắc.
Vai trò tích cực của báo chí trong giai đoạn này thể hiện ở chỗ đã
tiếp tục góp phần cổ vũ lối học mới, phê phán lối học cũ. Thông qua báo chí
đã phổ biến chữ quốc ngữ và những kiến thức, thông tin trên nhiều lĩnh vực
khác nhau trong đời sống xã hội. Đặc biệt có những tờ báo đã cập nhật những
thông tin quốc tế như Trung Bắc tân văn, Lục tỉnh tân văn…
Một Số tờ báo có nội dung tiến bộ, có tinh thần dân tộc, dân chủ,
khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, đấu tranh chống tư bản nước ngoài như tờ
Đăng cổ tùng báo của Đông kinh nghĩa thục, Lục tỉnh tân văn của hội Duy
tân.
Tuy nhiên báo chí không thể tránh khỏi bản chất thực dân và đầu hàng
bán nước của những kẻ Việt gian, ca tụng, biện hộ và cổ súy cho cuộc “khai
hóa” thuộc địa của thực dân Pháp. Những tờ báo tiến bộ thì nhanh chóng bị
cấm hoặc đình bản. Đa phần những tờ báo tồn tại trong một thời gian ngắn.
Như vậy có thể thấy giai đoạn những năm thập niên 20 thế kỉ XX báo
chí Việt nam tiếp tục có những bước phát triển nhanh chóng về số lượng cũng
như nội dung, đề tài, khuynh hướng. đã có sự xuất hiện của những tờ báo có
xu hướng cách mạng. Nhiều báo xuất bản công khai nhưng có nội dung chống

chính quyền thực dân, kêu gọi tinh thần dân tộc, đoàn kết, đổi mới… Nhìn


chung có thể nhận rõ một điều là báo chí giai đoạn thập niên 20 có sự tiến bộ
hơn về nhiều mặt. Tuy nhiên như nhận định ban đầu báo chí giai đoạn này đa
phần mang bản chất thực dân va bán nước, đầu hàng của một bộ phận Việt gian.
Những tơ báo có khuynh hướng tiến bộ nhanh chóng bị đàn áp và khủng bố.
II.2.3.Báo chí 1925- 1945:
Báo chí cách mạng Việt Nam giai đoạn 1925 - 1945 là dòng báo chí có
vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của giai cấp
vô sản Việt Nam, trở thành vũ khí sắc bén trên mặt trận chính trị - tư tưởng để
tuyên truyền đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, đấu tranh thống nhất tư
tưởng, cổ vũ, tập hợp quần chúng mọi tầng lớp nhân dân đứng lên làm cách
mạng. báo chí cách mạng Việt Nam ra đời trong bối cảnh xã hội nói chung và
sinh hoạt báo chí nói riêng trong môi trường thuộc địa, do đó luôn luôn bị
chính quyền thực dân và bè lũ tay sai theo dõi, thậm chí truy kích nhằm dập
tắt ngọn lửa tuyên truyền đang cháy sáng, tiếp thêm sức mạnh cho cách mạng
Việt Nam. Báo chí cách mạng Việt Nam đã trải qua những giai đoạn khó khăn
nhất của cách mạng nhưng càng khó khăn, càng cam go lại càng phát triển,
hiệu quả tuyên truyền càng cao, ngọn cờ tư tưởng càng được phát huy, góp
phần không nhỏ vào chiến thắng chung của dân tộc.
Báo chí cách mạng giai đoạn 1925 - 1945 đã để lại những bài học quý
giá về làm báo cách mạng. Nhiều loại hình báo chí khác nhau, ra đời trong
nhiều hoàn cảnh đặc biệt; có tờ xuất bản ở cơ sở cách mạng ngoài nước rồi
chuyển về trong nước bằng cod bí mật; có những tờ ra đời trong các nhà tù
nhằm mục đích thống nhất tư tưởng đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc
của một số cán bộ; có tờ ra công khai, thách thức với chính quyền thực dân
ngay trên mảnh đất Nam Kỳ thuộc địa… Những người làm báo cách mạng
cũng rất linh hoạt trong việc trầu cau ra báo, có tờ báo ra vài chục số, thậm
chí vài số sau đó chuyển sang xuất bản tờ khác theo yêu cầu nhiệm vụ của



cách mạng. Như vậy, báo chí cách mạng luôn gắn chặt với cách mạng, là bộ
phận không thể thiếu trong cơ thể cách mạng Việt Nam buổi đầu còn non trẻ.
Báo chí thời 1930-1945 có ảnh hưởng tích cực đến báo chí của thời kỳ
sau Cách mạng. Vai trò của báo chí trước Cách mạng là rất lớn. Những tờ báo
được công khai luôn giúp cho xã hội tiến hóa hơn, khoa học hơn, văn minh
hơn. Những tờ báo Cách mạng tuy chỉ công khai được ở từng thời điểm
nhưng đóng góp không nhỏ cho đấu tranh xã hội.
Coi báo chí chính là phương tiện tuyên truyền hiệu quả, nhiều cán bộ
Cách mạng cũng đã là những nhà báo có tên tuổi. Đặc biệt nhất, với hàng
ngàn bài báo chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà báo lớn của dân tộc, tính từ bài báo
đầu tiên của Bác có nhan đề “Tâm địa thực dân” (năm 1919) và bài báo cuối
cùng “Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu nhi” (1969).
Sau Cách mạng tháng Tám, báo chí phát triển với một đà mới có bề
rộng và chiều sâu dưới sự chỉ đạo của Đảng.
II.3. Bài học kinh nghiệm từ báo chí giai đoạn 1925- 1945 và tờ
Thanh Niên nói riêng ( 21/6/1925):


Báo "Thanh Niên", cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng do
Nguyễn Ái Quốc sáng lập tại Quảng Châu (Trung Quốc), số ra ngày 3-10-1926 - Ảnh tư liệu

Ðầu những năm 20 của thế kỷ 20, ở nước ta chỉ có báo chí của thực dân
Pháp và tay sai của chúng. Sau khi dự Ðại hội 5 Quốc tế Cộng sản, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc trở về châu Á, công tác ở Bộ phương Ðông của Quốc tế
Cộng sản. Năm 1925, Người thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng
Ðồng chí Hội và xuất bản báo Thanh Niên làm cơ quan của Hội.
Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, trong "Lịch sử giai cấp công nhân Việt
Nam", đây là "tờ báo bí mật đầu tiên của người cách mạng Việt Nam bằng

chữ quốc ngữ, viết bằng giấy sáp, in bằng bàn in tay". Báo Thanh Niên ra đời
đã phá vỡ độc quyền báo chí của thực dân Pháp, mở đường cho dòng báo chí
cách mạng Việt Nam hình thành và phát triển.


×