Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

khoá luận tốt nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc tháii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 71 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Văn hóa là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã
hội, cùng với ý các hình thái ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo
đức, ý thức khoa học, ý thức tôn giáo,... đã tạo nên diện mạo phong phú, đa
dạng của đời sống tinh thần của một dân tộc và một thời đại. Song hành với
quá trình khai mở tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã làm
nên lịch sử văn minh của mình. Thời gian như chảy bất tận nhưng trong dòng
chảy ấy lại là sự cô đọng của những gì tinh tuý nhất mà con người đã gây
dựng trong sinh tồn để làm thành truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc đều có những giá trị
và s c thái v n hóa riêng. Vi c khai thác, phát tri n m i s c thái và giá tr v n
hóa c a các dân t c s góp ph n làm cho n n v n hóa n c ta ngày càng phong
phú, c ng c s th ng nh t dân t c, làm c s
gi v ng s bình n g và phát
huy tính a d ng c a v n hóa các dân t c. V n ki n i h i i bi u toàn qu c
l n th IX c a n g ã ch rõ: “B o t n và phát tri n di s n v n hóa các dân t c,
các giá tr v n h c, ngh thu t, ngôn ng , ch vi t và thu n phong m t c c a
các dân t c; tôn t o các di tích lch s , v n hóa. Ti p thu tinh hoa và góp ph n
làm phong phú thêm v n hóa c a nhân lo i” [ 4,Tr.38 ]
Xét ở góc độ văn hóa thì sự phát triển nền văn hóa nước ta phải bảo
đảm sự hài hòa, thống nhất giữa phát huy tính đa dạng và độc đáo của văn hóa
54 dân tộc anh em và văn hóa của cả nước lên một trình độ ngày càng cao.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau văn hoá các dân tộc thiểu số ở
nước ta đang có những dấu hiệu mai một các giá trị truyền thống, trong khi
đời sống văn hoá mới tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nghèo nàn,
các giá trị văn hoá mới chưa được xác lập một cách vững chắc. Điều này đã
và đang đặt ra những yêu cầu cấp bách đối với ngành văn hóa ở vùng đồng
bào dân tộc phải kịp thời giải quyết để phát triển
1



Thanh Hoá là địa bàn có nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, trong
đó người Thái là dân tộc thiểu số có số lượng lớn thứ 2 (trên 20 vạn người).
Đồng bào Thái ở đây hội tụ đầy đủ những đặc điểm chung của người Thái ở
nước ta. Đồng thời người Thái ở đây đã tạo dựng nên các giá trị văn hóa đặc
sắc. Trước bối cảnh văn hoá các dân tộc thiểu số đang có những dấu hiệu mai
một. Thực trạng công tác bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc Thái ở
nước ta nói chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng, chưa đáp ứng được yêu cầu
bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc trong thời kỳ mới.
Xuất phát từ những cơ sở trên, tác giả lựa chọn đề tài “Bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc Thái ỏ tỉnh Thanh Hoá
hiện nay.” Làm đề tài khoá luận tốt nghiệp đại học, ngành chính trị học,
chuyên ngành giáo dục chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu văn hóa truyền thống của các dân tộc, trong đó có dân tộc
Thái từ lâu đã được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Các tác giả đã công
bố sản phẩm nghiên cứu của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng
như: sách, báo, tạp chí, internet… Trong số đó, có những công trình đã đề cập
đến các vấn đề lịch sử - xã hội, kinh tế truyền thống, văn hóa tộc người Thái.
Cụ thể như sau:
1. Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin,
2004.
2. TS. Đỗ Thị Minh Thuỳ (chủ biên), Xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc - Thành tựu và kinh nghiệm
(Quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII), Viện Văn hoá –
NXB Văn hoá thông tin, 2004.
3. "Bảo tồn và phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số trong giai đoạn
hiện nay" , Tạp chí Cộng sản số 65 (2004).
2



4. “Giữ vững cái nôi văn hóa Thái” đăng trên website của Ủy ban dân
tộc (cema.gov.vn) ngày 09/02/2007.
5. “Thanh Hoá: Bảo tồn và phát huy loại hình dân ca Thái ” đăng trên
website của Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch (www.cinet.gov.vn) ngày
31/5/2008.
6. “Vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên sóng
truyền hình của Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Hòa Bình”, Luận văn Thạc
sỹ báo chí của tác giả Đỗ Thanh Phúc tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
7. “Báo Văn hóa với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc
trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ báo chí của tác giả Trịnh Liên
Hà Quyên tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền năm 2006.
Tuy đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về công tác bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, nhưng chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách có hệ thống và đề cập đến công tác bảo tồn và phát
triển những giá trị văn hoá truyền thống của người dân tộc Thái, đặc biệt là
đồng bào dân tộc Thái cư trú trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu ngiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hoá truyền thống dân tộc Thái ở tỉnh Thanh Hoá, tác giả đề xuất phương
hướng và các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của đồng bào Thái ở Thanh Hoá trong
giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hoá truyền thống của người dân tộc Thái ỏ tỉnh Thanh Hoá trong giai
đoạn hiện nay.
3



Khảo sát và đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc Thái ở Thanh Hoá hiện nay.
xu t m t s gi i pháp nh m nâng cao hi u qu công tác b o t n và
phát huy b n s c v n hoá truy n th ng c a ng i dân t c Thái tnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hoá truyền thống của người dân tộc Thái ở Thanh Hoá. Phạm vi
nghiên cứu của đề tài là các huyện có đồng bào dân tộc Thái sinh sống thuộc
địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sơ lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước về văn hoá các dân tộc thiểu số nói chung và công tác bảo tồn, phát huy
bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số nói riêng.
Phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu khoá luận là: chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu: phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu, phương pháp lịch sử - logic.
6. Đóng góp của đề tài
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn
và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc Thái.
Đề xuất các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và
phát huy những bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc Thái ở Tỉnh Thanh Hoá
hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
4



Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung của khoá luận được chia làm ba chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền
thống của dân tộc Thái ở tỉnh Thanh Hóa.
Chương 2: Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá
truyền thống của dân tộc Thái ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay
Chương 3: Giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá truyền thống của người dân tộc Thái ở tỉnh Thanh
Hoá hiện nay.

CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
TRUYỀN THỒNG CỦA DÂN TỘC THÁI Ở TỈNH THANH HÓA
5


1.1. Quan niệm về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của
dân tộc Thái
1.1.1

Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc Thái.

● Khái niệm văn hóa
Văn hoá là một khái niệm đa nghĩa, trong lịch sử hình thành và phát
triển văn hóa của nhân loại cho đến nay có hàng trăm cách quan niệm, định
nghĩa khác nhau về văn hóa. Theo sự thống kê của Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa của Liên hiệp quốc trên thế giới hiện nay có tới hơn 400 định
nghĩa khác nhau về văn hóa. Song về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là
những gì mà con người sáng tạo ra để hình thành nên các giá trị, các chuẩn

mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị và chuẩn
mực đó tác động, chi phối và điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và
các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người.
Trong diễn văn khai mạc tại lễ phát động “Thập niên quốc tế về văn
hóa” tại Pháp (1998), Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc định nghĩa: Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động dân tộc trong quá khứ cũng như trong hiện
tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo đó đã hình thành nên một hệ thống các
giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định riêng biệt của mỗi
dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”[14, Tr131]. Như vậy, theo
Hồ Chí Minh văn hóa bao gồm tất cả những gì mà con người sáng tạo ra
nhằm duy trì cuộc sống của chính con người và xã hội.
Ở nước ta hiện nay, văn hóa cũng là một lĩnh vực thu hút được rất
nhiều sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu cả về mặt lý luận lẫn thực
6


tiễn. Trong quá trình nghiên cứu về văn hóa họ đã đưa ra rất nhiều cách hiểu
khác nhau về khái niệm này. Cụ thể như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Văn hóa là những giá trị vật chất tinh thần
do con người sáng tạo ra trong lịch sử”[1,Tr.1796].
Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Lân thì quan niệm rằng: “Văn hoá
là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong
quá trình lịch sử và tiêu biểu cho trình độ mà xã hội đã đạt được trong từng
giai đoạn về các mặt học vấn, khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, triết
học, đạo đức, sản xuất…”[13,Tr.2010-2011].

Còn tác giả Phan Ngọc thì lại đưa ra định nghĩa: “Văn hoá là mối quan
hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá thể hay một tộc người với cái thế
giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hoá theo
cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối
quan hệ này, đó là văn hoá dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một
kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người này khác các kiểu lựa chọn của
các cá nhân hay tộc người khác”[14,Tr.14]
Trong khi đó tập thể tác giả biên soạn giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt
Nam” của Học viện Báo chí và Tuyên truyền lại cho rằng: “Văn hoá là hệ
thống các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo, tích luỹ trong lịch sử nhờ
quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Các giá trị này được cộng đồng
tiếp nhận, vận hành trong đời sống xã hội, được xã hội giữ gìn, trao chuyển
cho thế hệ sau. Văn hoá thể hiện trình độ phát triển và đặc tính riêng của mỗi
dân tộc”[11,Tr.5].
Theo ý nghĩa mà các khái niệm về văn hóa như trên nêu ra thì không có
một lĩnh vực nào của cuộc sống con người, xã hội và cộng đồng nằm ngoài sự
phản ánh của văn hóa. Ở đây cũng phải nhấn mạnh thêm, văn hóa không chỉ
là sự phản ánh của cuộc sống con người trong quá khứ, đang diễn ra sinh
động trong hiện tại mà còn phản ánh cả xu thế văn hóa của con người trong
tương lai.
7


V i t cách là m t trong nh ng hình thái ý th c xã h i, v n hóa c nhìn
nh n b ng nhi u quan i m khác nhau t n g ng v i cách ti p c n v n .
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hóa là một hệ thống
quan điểm khách quan, toàn diện, cụ thể. Về cơ bản, Đảng đứng trên lập
trường Mác xít khẳng định văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do
hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên, cải tạo
xã hội, có quan hệ biện chứng với các hình thái ý thức khác. Với đặc trưng

đó, văn hóa trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy kinh
tế-xã hội phát triển.
● Khái niệm bản sắc văn hóa
Để hiểu và làm rõ được khái niệm bản sắc văn hóa, trước hết chúng ta
cần phải hiểu thế nào là “bản sắc”. Theo Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn
Lân thì: “Bản sắc là tính chất đặc biệt vốn có tạo thành phẩm cách
riêng”[13,Tr.83]. Hoặc cũng có thể hiểu: “Bản sắc là sắc thái, đặc tính, đặc
thù riêng khác”[1,Tr.93]
Như vậy, bản sắc văn hóa là những giá trị sáng tạo, quan điểm thẩm mỹ
riêng của mỗi dân tộc; các chuẩn mực về tư tưởng đạo đức, giao tiếp, ứng xử,
phong tục, tập quán, nghi lễ… khác nhau được thể hiện thông qua đời sống
vật chất và tinh thần của mỗi tộc người. Vì vậy mà có sự khác nhau về cách
nhìn nhận, cách đánh giá, quan điểm thẩm mỹ giữa các dân tộc. Chẳng hạn
như: bộ trang phục, đồ dùng sinh hoạt; cách cư xử, lối sống, nếp tư duy mà
dân tộc này cho là đẹp, là đúng mực thì ở dân tộc kia chưa hẳn đã được chấp
nhận. Chính sự khác nhau đó tạo nên tính độc đáo của văn hóa các dân tộc.
Trong các tài liệu, sách, báo và tạp chí hiện nay thường dùng các khái niệm:
di sản văn hóa dân tộc,văn hóa truyền thống, di sản văn hóa truyền thống, bản
sắc văn hóa dân tộc… Những cách gọi này đều có cùng ý nghĩa chung là bản
sắc văn hóa.
Bản sắc dân tộc của văn hoá Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
8


dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Trong lịch sử phát triển của mình bản sắc
văn hoá dân tộc không phải là cái ngưng đọng, cái bất biến mà luôn phát triển
một cách biện chứng theo xu hướng tích lũy, thu nạp những cái tốt đẹp, cái
tiến bộ, đào thải những cái xấu, cái lạc hậu không phù hợp với thời đại. Trải

qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hoá Việt Nam đã vượt qua thế bị động để tiếp
thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại để làm giàu thêm bản sắc của mình.
● Bản sắc văn hóa dân tộc Thái
Người Thái đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là con
cháu người Thái di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bây giờ.
Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history", người Thái xuất
xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người
bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở
phía đông và bắc, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái
di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 13. Trung tâm của
họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở
Đông Nam Á như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và một số vùng ở
đông bắc Ấn Độ cũng như Vân Nam Trung Quốc.
Người Thái còn được gọi là Tày Khao (Thái Trắng), Tày Đăm (Thái
Đen), Tày Mười, Tày Thanh (Man Thanh), Hàng Tổng (Tày Mường), Pu
Thay, Thổ Đà Bắc. Hiện nay, người Thái có số dân là 1.328.725 người, cư trú
tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa,
Nghệ An. Cùng với lịch sử tồn tại và phát triển, dân tộc Thái đã hun đúc nên
những bản sắc văn hóa riêng cho dân tộc mình.
Vậy bản sắc văn hóa dân tộc Thái là những nét đặc sắc trong hệ thống
các giá trị sáng tạo, quan điểm thẩm mỹ; những tính chất riêng biệt trong các
chuẩn mực về tư tưởng đạo đức, giao tiếp, ứng xử, phong tục, tập quán, nghi
lễ… được thể hiện thông qua đời sống vật chất và tinh thần của người Thái so
với các nền văn hóa tộc người khác.
9


Bản sắc văn hóa của người Thái cũng bao hàm những giá trị bền vững
được tích lũy lại qua lịch sử phát triển hàng nghìn năm của tộc người này.
Trong quá trình phát triển ấy văn hóa của dân tộc Thái cũng đã có sự giao lưu,

tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác, đồng thời loại bỏ những
nét xấu, không phù hợp để làm phong phú thêm bản sắc của dân tộc mình.
1.1.2. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Thái
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Bảo tồn là giữ lại, không để mất
đi”[13,Tr.96]. Hoặc: “Bảo tồn là giữ nguyên hiện trạng, không để mất
đi”[1,Tr.110].
Cũng dựa theo Từ điển Tiếng Việt chúng ta có thể hiểu: “Phát huy là
làm cho tác dụng lan rộng ra hoặc phát triển lên”[13, Tr.1433]. Hoặc: “Phát
huy là làm cho cái hay, cái tốt nhân thêm tác dụng, thúc đẩy tiếp tục nảy nở
nhiều hơn”[1,Tr.1321].
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái là giữ lại, không làm
mất đi những nét đặc sắc, những tính chất đặc biệt vốn có của văn hóa dân tộc
Thái, đồng thời làm cho những cái hay, cái tốt và những tác dụng của nền văn
hóa dân tộc Thái nhân rộng ra, phát triển lên và tiếp tục nảy nở nhiều hơn.
Bảo tồn, phát huy bản sắc và truyền thống văn hóa của đồng bào các
dân tộc thiểu số là một vấn đề rất quan trọng trong chính sách văn hóa của
Đảng và Nhà nước ta. Trong giai đoạn hiện nay bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa của các dân tộc là một trong những công tác quan trọng nhằm giữ gìn
sự đa dạng, phong phú của nền văn hóa Việt Nam. Trong quá trình tiến hành
công tác này cần phải chú ý xem xét mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy
các giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa của các dân tộc.
Bảo tồn là lưu giữ lại, không để mất đi còn phát huy là nhân rộng các
giá trị đó lên, làm cho tác dụng của nó tiếp tục nảy nở và lan tỏa thêm. Hai
hoạt động này cần được tiến hành đồng thời với nhau, không nên coi trọng
mặt này mà xem nhẹ mặt kia, hay nói khác thì bảo tồn và phát huy có mối
quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau trong hoạt động. Bởi vì có bảo tồn,
10


lưu giữ được bản sắc văn hóa của các dân tộc thì mới có điều kiện để phát

triển và nhân rộng các giá trị đó, đưa các giá trị đó phát huy tác dụng trong
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội…
Trong quá trình thực hiện công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Thái cũng cần phải quan tâm, chú ý tiến hành song song cả hai hoạt
động bảo tồn và phát huy. Không nên coi trọng công tác bảo tồn mà xem nhẹ
công tác phát huy. Bởi vì bảo tồn là cơ sở để tiến hành phát huy, chỉ có tiến
hành bảo tồn tốt các giá trị văn hóa của dân tộc Thái thì mới có cơ sở và điều
kiện để nhân rộng, phát triển thêm những giá trị đó trong các lĩnh vực khác
của đời sống xã hội. Ngoài ra cũng cần phải quan tâm đến việc phối hợp công
tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái với việc phát triển kinh
tế, cải thịên chất lượng cuộc sống cho đồng bào dân tộc Thái nhằm thực hiện
tốt chính sách dân tộc mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
1.2. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số
Bảo tồn, gìn giữ và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa của các dân
tộc thiểu số là một trong những vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước ta quan
tâm và coi đó là nội dung quan trọng trong việc thực hiện chính sách dân tộc.
Có thể nói rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo tồn, phát huy
truyền thống, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số đã được đề ra từ rất
sớm và thực hiện nhất quán trong chỉ đạo thông qua các nhiệm vụ cụ thể cho
phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng nước ta.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta luôn khẳng định
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII, Đảng ta cũng đã xác định rõ một trong mười nhiệm vụ
cụ thể để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là:
“Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”[3, Tr.65]
11



Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta cũng đã
chỉ ra rằng: “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn học,
nghệ thuật, ngôn ngữ, chữ viết và thuần phong mỹ tục của các dân tộc; tôn
tạo các di tích lịch sử, văn hóa. Tiếp thu tinh hoa và góp phần làm phong phú
thêm nền văn hóa của nhân loại"[4, Tr.38]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Đảng ta lại một lần nữa khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và
con người trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế. Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội”[5, Tr.213].
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cũng đã xác định rằng: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát huy các di sản văn
hóa dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ và
phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hóa, các
công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh ”[6, Tr.24].
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đã được Chính phủ và ngành Văn
hóa thể chế hóa, triển khai đưa vào cuộc sống thông qua việc ban hành một số
văn bản nhằm tạo hành lang pháp lý cho công tác bảo tồn, phát huy bản sắc
văn hóa của các dân tộc thiểu số.
Ngày 3/12/1998, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra Chỉ thị số
39/1998/CT-TTg về việc đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin ở miển núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Một trong tám mục tiêu và giải pháp nhằm
khai thác tiềm năng, đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi
và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số mà Chính phủ đưa ra đã xác định rõ:
“Làm tốt hơn nữa công tác giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống
các dân tộc thiểu số. Đồng thời với công việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác
và giới thiệu, cần có kế hoạch bảo tồn các công trình, địa chỉ văn hóa có giá
trị tiêu biểu ở vùng các dân tộc thiểu số (như các chùa, tháp, nhà rông, nhà
12



dài, nhà sàn, các làng, bản có nghề thủ công truyền thống ...) và các di sản
văn hóa có giá trị khác” [7, Tr.5]
Ngày 17/6/2003, Chính phủ đã ra Quyết định số 124/2003/QĐ-TTg phê
duyệt đề án Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam. Mục
tiêu tổng quát là: “Bảo tồn, kế thừa có chọn lọc và phát huy những tinh hoa
văn hoá truyền thống, xây dựng và phát triển những giá trị mới về văn hoá,
nghệ thuật của các dân tộc thiểu số; phát hiện, bồi dưỡng đội ngũ những
người sáng tác văn học - nghệ thuật là người các dân tộc thiểu số; tổ chức
điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hoá - nghệ thuật; bảo
tồn, phát huy các nghề thủ công truyền thống của các dân tộc thiểu số; đẩy
mạnh xây dựng và phát huy hiệu quả các thiết chế văn hoá, thông tin; phát
triển các hoạt động văn hoá văn nghệ lành mạnh; xây dựng nếp sống văn
minh, gia đình văn hoá; mở rộng mạng lưới thông tin ở vùng dân tộc thiểu số,
góp phần nâng cao dân trí, xoá bỏ tập tục lạc hậu, góp phần phát triển du
lịch, xoá đói, giảm nghèo”[8, Tr.12]
Thực hiện các Chỉ thị, Quyết định của Chính phủ, Bộ Văn hóa thông
tin cũng đã ban hành các văn bản tạo hành lang cho việc thực hiện công tác
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số. Ngày 30 tháng 10
năm 1986, Bộ trưởng Bộ Văn hóa thông tin đã ban hành Chỉ thị số 270/VHCT về đẩy mạnh công tác văn hóa thông tin các dân tộc thiểu số, trong đó
nhấn mạnh tới công việc sưu tầm, bảo vệ, khai thác, phát huy di sản văn hóa,
văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số và mục tiêu đạt được là phải khoanh
vùng sưu tầm có sự lien kết giữa Trung ương và địa phương để làm dứt điểm
từng vùng, từng dân tộc. Đến ngày 3/2/1999, Bộ trưởng Bộ Văn hóa thông tin
cũng đã ra Quyết định số 04/1999/QĐ-BVHTT ban hành Kế hoạch thực hiện
Chỉ thị 39/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạng công tác văn
hóa thông tin ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, trong đó có nội dung quan
trọng là là giữ gìn, phát huy tinh hoa văn hóa các dân tộc thiểu số, đồng thời
nêu sáu công việc cụ thể cần phải làm mà trọng tâm là tiến hành khảo sát,

13


đánh giá về hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy bản sắc và vốn văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số trên từng địa bàn, từng vùng dân tộc.
Các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị, quyết định nêu trên cho thấy rõ sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với lĩnh vực bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số. Điều này cũng thể hiện sự quan tâm,
chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển về mọi mặt của đồng bào
các dân tộc thiểu số nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội
phát triển, công bằng, dân chủ và văn minh.
1.3. Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Thái trong quá trình
xây dựng đời sống văn hoá ở nước ta hiện nay.
1.3.1 Vai trò c a b n s c v n hóa dân t c trong giai o n hi n nay
n c ta
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta, nó đã được quan tâm từ khi nước ta còn chưa giành được chính
quyền. Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) đã xác định văn hóa là một
trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị và văn hóa. Ngày 24/11/1946, tại Đại hội
Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Văn hóa phải
soi đường cho quốc dân đi. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất coi
trọng văn hóa. Người cho rằng văn hóa là sức mạnh về tinh thần cơ bản của
mọi dân tộc. Dân tộc ta đã từng bị đô hộ hàng ngàn năm nhưng vẫn tồn tại và
phát triển, đó là vì chúng ta giữ vững được nền văn hóa ở cơ sở, xóm làng nền văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc ta. Do vậy, dân tộc ta muốn đổi
mới phải vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống
của các dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Từ quan điểm trên, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
luôn đề cao vai trò của văn hóa. Đặc biệt là từ khi có Nghị quyết Trung ương
năm khóa VIII về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà

bản sắc dân tộc thì công tác xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở lại càng được
14


quan tâm hơn. Trong đó, tiêu biểu là các phong trào: phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào xây dựng làng,
bản, cơ quan, trường học có nếp sống văn hóa. Các phong trào trên đã được
phát động trên phạm vi toàn quốc và cho đến nay vẫn đang thu được những
kết quả quan trọng tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững an ninh, quốc phòng của đất nước. Xứng đáng với vị trí văn hóa vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Đặc biệt ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, phong trào xây dựng
đời sống văn hóa ở cơ sở càng được chú trọng. Rất nhiều gia đình văn hóa,
làng, bản của đồng bào các dân tộc thiểu số đã đạt và giữ vững danh hiệu gia
đình, làng, bản văn hóa cấp huyện, cấp tỉnh, có nhiều gia đình, làng bản đã đạt
danh hiệu làng văn hóa cấp quốc gia. Trong quá trình xây dựng gia đình, làng,
bản văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
đã giúp các cấp ủy và chính quyền có cơ sở để xây dựng các tiêu chuẩn, quy
ước, hương ước cho các gia đình, làng, bản văn hóa. Cũng thông qua đó mà
nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc được lưu giữ và phát triển.
Đồng thời thông qua việc duy trì, phát triển truyền thống văn hóa của các dân
tộc mà mối liên kết giữa các gia đình, dòng họ, giữa nhân dân trong các làng
bản ngày càng được tăng cường, ý thức cộng đồng ngày càng được nâng cao.
Bản sắc và các giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc đã góp
phần tích cực giúp cho ngành văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số có cơ
sở để thực hiện phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới. Nó là tiền đề để
các cấp ngành tiến hành phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng
dân tộc thiểu số. Cho nên bản sắc văn hóa của các dân tộc có vai trò, vị trí
quan trọng trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nước ta. Nó
cho phép các cấp ngành, đặc biệt là ngành văn hóa tiếp thu những giá trị văn

hóa tốt đẹp của các dân tộc làm cơ sở cho việc xây dựng những tiêu chuẩn của
gia đình, làng, bản văn hóa cho phù hợp tình hình của từng địa bàn cụ thể.
15


1.3.2 Tính tất yếu của công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc Thái hiện nay ở nước ta.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của
sự phát triển, là linh hồn, sức sống của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong quá trình
dựng nước và giữ nước, văn hóa Việt Nam là một thực thể, đồng thời cũng
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam. Nhờ vậy nền văn hoá
giàu bản sắc của nước ta đã không bị mai một, đồng hoá. Hơn một trăm năm
dưới ách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bản sắc văn hoá Việt Nam
thật sự là vũ khí tinh thần sắc bén để giác ngộ, cổ vũ và động viên mọi tầng
lớp nhân dân tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa. Ngay từ năm 1943 Đảng ta đã
đưa ra Đề cương văn hoá với nguyên tắc dân tộc, khoa học và đại chúng.
Không phải ngẫu nhiên mà nguyên tắc dân tộc được đặt lên hàng đầu. Trong
hoàn cảnh thời bấy giờ, dân tộc hoá là vũ khí mầu nhiệm chống lại văn hoá nô
dịch
b o t n và phát huy ngôn ng dân t c. L i s ng ph n g Tây và s c
m nh c a n g ô la ã không th làm bi n d ng t t n g, tình c m c a ng i
dân các ô th, nông thôn vùng b t m chi m, b i danh d s c m nh c l p t
do, s c m nh v n hoá c a m t n c không th o b ng cây s vuông.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng mặt trận
văn hoá mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hoá dân tộc. Gần 80 năm qua định
hướng dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về
văn hoá, văn nghệ. Nghị quyết Trung ương năm của Ban chấp Trung ưởng
Đảng khoá VIII đã đánh dấu bước phát triển mới về đường lối văn hoá văn
nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là
“…xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào
toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập
thể và cộng đồng…” [3, Tr.54]. Có thể nói Nghị quyết Trung ương năm là
cuốn cẩm nang tinh thần của nhân dân ta bước vào thế kỷ XXI nhằm làm cho
văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước.
16


Hòa chung dòng chảy bất tận của nền văn hóa nhân loại, văn hóa của
54 dân tộc anh em đã làm nên một văn hóa Việt Nam đa dạng, đa sắc màu.
Mỗi dân tộc là một nét văn hóa kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một khối
thống nhất đa dạng của văn hóa Việt Nam. Văn hóa dân tộc Thái cũng vậy,
với những nét độc đáo riêng có của mình, đã trở thành một bộ phận cấu trành
quan trọng nên văn hóa Việt Nam.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa
dân tộc Thái nói riêng đã làm nên nhân cách con người Việt Nam, khí phách
và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Những người con của bản làng xa xôi, đã anh dũng hy sinh vì tiếng gọi của
độc lập tự do, vì lòng tự tôn dân tộc. Hơn hẳn, họ đấu tranh để giữ lấy tiếng
nói của dân tộc mình.
Hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống và bản sắc văn hóa của các
dân tộc thiểu số nói chung và văn hóa của đồng bào dân tộc Thái nói riêng
đang dần bị mai một, kể cả văn hóa phi vật thể và vật thể. Không hiếm nhà
sàn đã thành nhà bêtông. Thậm chí một số nơi, thanh niên Thái không nói
được tiếng Thái. Vấn đề cấp bách đang đặt ra là phải bảo tồn và phát huy văn
hóa Thái.
Theo NSND Lê Tiến Thọ - Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch cho rằng: việc bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc
thái cần được nhìn nhận, đánh giá nghiêm túc và từng bước trả lại đời sống
cộng đồng thông qua các hoạt động giao lưu văn hóa; cần nghiên cứu đề ra

các giải pháp bảo tồn văn hóa phi vật thể dân tộc Thái một cách khoa học, tích
cực, hiệu quả và thiết thực nhất, chọn lựa những giá trị văn hóa tốt đẹp, phù
hợp để phục hồi, phát huy nó trong đời sống đương đại.
Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình Quách Thế Tản thì cho
rằng, việc bảo tồn, lưu giữ các giá trị văn hóa cần cố gắng đảm bảo tương đối
đầy đủ những nội dung, loại hình cơ bản, đa chiều và càng nhiều càng tốt, trên
17


nhiều địa bàn người dân tộc sinh sống để có thể phản ánh được đầy đủ diện
mạo văn hóa phi vật thể dân tộc đó.
Trên cơ sở ấy, phân tích chọn lọc cái hay, cái tốt, cái phù hợp và tìm
cách phục hồi, phát huy. Đặc biệt, cần phải đưa nó vào cuộc sống để chính
nhân dân thực hiện và tạo sức sống cho văn hóa truyền thống, trong đó các cơ
quan văn hóa đóng vai trò nòng cốt, là người hướng dẫn, là “bà đỡ”.
Nghiên cứu văn hóa Thái là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách, là cơ
sở khoa học để tiếp tục gìn giữ, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Trước hết, cần xây dựng kế hoạch điều tra, sưu tầm, thống kê xác định
giá trị và tổ chức truyền dạy những giá trị văn hóa cổ truyền về kinh nghiệm,
trí thức trong sản xuất, ứng xử và quan hệ xã hội cả tộc người Thái để phổ
biến trong quần chúng nhân dân, đặc biệt là lớp trẻ. Trên cơ sở đánh giá các
di sản hiện tại, cần bảo lưu và phục dựng các nghi thức, lễ hội truyền thống ở
mỗi gia đình, dòng họ và cả sinh hoạt cộng đồng để đưa những giá trị của lễ
tục, lễ hội tốt đẹp, là kết tinh văn hóa truyền thống vào phục vụ cuộc sống.
Hiện nay, các nghệ nhân dân gian Thái không còn nhiều, do đó để sưu tầm,
nghiên cứu đầy đủ, phản ánh đậm nét đặc trưng sắc thái đời sống văn hóa lịch
sử dân tộc Thái rất khó khăn. Công việc phân tích, chọn lọc những giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp để gìn giữ, phát huy trong giai đoạn hiện nay cũng
đòi hỏi công phu và có cách làm, bước đi khoa học.
Theo các nhà nghiên cứu, bảo tồn động, đưa các lễ hội cũng như các

hoạt động văn hóa, nghề thủ công truyền thống... trở về với cuộc sống của
cộng đồng là cách làm tốt nhất để chúng được diễn ra chính trong môi trường
mà chúng vốn nảy sinh và tồn tại. Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh
Thanh Hóa Ngô Hoài Chung cho rằng, nên truyền dạy cho lớp trẻ nghề đan
lát, thêu dệt và sắc phục truyền thống của đồng bào Thái; tổ chức thành các
18


làng nghề để vừa bảo lưu nghề cổ truyền của ông cha, vừa phát triển văn hóa,
kinh tế, du lịch; tiếp tục sưu tầm và phát huy những giá trị tốt đẹp của luật tục
Thái trong xây dựng đời sống văn hóa hiện nay như việc sử dụng những bài tế
Thái trong tang lễ, những bài ca trong đám cưới, câu tục ngữ, thành ngữ dạy
lẽ sống, cách làm người, việc bảo vệ môi trường sinh thái... Chúng ta cũng
cần coi trọng và khuyến khích các nghệ nhân dân gian truyền lại tri thức dân
gian cho thế hệ trẻ; Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, sinh hoạt văn hóa dân
tộc trong đời sống, cũng như ở các trường học theo chương trình sân khấu học
đường, xây dựng nhiều câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ dân gian ở các làng, xã;
Thường xuyên tổ chức giao lưu, lễ hội, hội thi, hội diễn làm cho nhiều người
biết đến và tham gia, tạo nên môi trường văn hóa đa dạng, sôi động, thường
xuyên, lâu bền...
Chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, mở của hội nhập kinh tế và
tạo điều kiện để giao lưu, phát triển văn hóa. Bên cạnh những thời cơ mà toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế mang lại thì những thách thức đặt ra trên mọi lĩnh
vực đặc biệt là trên lĩnh vực văn hóa. Để đạt mục tiêu phát triển kinh tế - văn
hóa – xã hội phù hợp với điều kiện và tình hình mới,thì công tác giữ gìn, bảo
tồn và phát huy những bản sắc văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa
người dân tộc Thái nói riêng trong kết cấu đa sắc của văn hóa nhân loại là
nhiệm vụ quan trọng.
Trong xu thế phát triển và hội nhập hiện nay, bảo tồn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Thái là việc làm thiết thực để phục vụ cho hoạt động

nghiên cứu và du lịch. Đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Thái cũng góp phần bảo tồn và phát huy nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc trong cuộc sống đương đại theo tinh thần Nghị quyết trung
ương năm khóa VIII đã đề ra.

19


20


CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI Ở TỈNH THANH HÓA

2.1. Bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở tỉnh Thanh Hóa
2.1.1 Giới thiệu chung về dân tộc Thái ở tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hoá là một trong những tỉnh lớn và có một vị trí kinh tế-xã hội hết
sức quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội cả nước, là một tỉnh
thuộc phía bắc miền trung, với diện tích trên 11.116,3 km 2, được xếp là tỉnh
có diện tích lớn thứ 5 trong cả nước. Thanh Hoá có vi trí địa lý hết sức quan
trọng: phía Bắc giáp Ninh Bình, Hoà Bình, Sơn La; phía Tây giáp Lào; phía
Nam giáp Nghệ An; phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Thanh Hoá có 3 vùng địa
lý tự nhiên: biển, đồng bằng, miền núi.
Tỉnh Thanh Hoá gồm 27 huyện, thị, thành phố. Trong đó có 11 huyện
miền núi, 6 huyện thị thuộc vùng biển và 10 huyện thị thuộc đồng bằng.
Về dân số và dân tộc: Theo kết quả điều tra ngày 1/4/1999, tỉnh Thanh
Hoá có 3.467.609 người. Trên địa bàn tỉnh có 28 dân tộc, đông nhất là dân tộc
Kinh có 2.898.311 người, chiếm 85,6%; các dân tộc thiểu số như dân tộc
Mường có 328.744 người, chiếm 9,4%; dân tộc Thái có 210.908 người, chiếm

6%; ít nhất là dân tộc Tà Ôi : 02 người
Trong số 28 dân tộc cư trú và sinh sống trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, có
những dân tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất này ngay từ thửa ban
đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Cùng với nền
văn hoá của cộng đồng các dân tộc, mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá
mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử và niềm tự hào.
Bản sắc văn hoá là tất của mỗi tộc người là cả những giá trị vật chất và tinh
thần, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm
lý, tình cảm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... được sáng tạo trong quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi dân tộc
càng làm phong phú nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc. Trong đó bản
21


sắc văn hóa dân tộc Thái cũng hòa chung vào làm phong phú thêm bản sắc
văn hóa các dân tộc tại Thanh Hóa.
Theo các nhà khoa học, lịch sử người Thái ở Thanh Hóa có quan hệ
gần gũi và chặt chẽ với người Thái ở Tây Bắc và có nguồn gốc từ dòng họ Lò
Khăm (tiếng Thái Đen). Các dòng họ chủ yếu của người Thái là: Hà, Phạm,
Lang, Lò, Vi, Đinh... Người Thái ở Thanh Hóa có 2 nhánh là: Thái Trắng
(Táy Dọ) và Thái Đen (Táy Đăm). Người Thái Trắng sống tập trung ở hai
huyện Thường Xuân, Như Xuân và một số bản giáp huyện Triệu Sơn. Người
Thái Đen chiếm đa số, sống tập trung ở các huyện Quan Hóa, Quan Sơn, Bá
Thước, Lang Chánh, Ngọc Lặc.
Theo sự thống kê của ban dân tộc miền núi, sở văn hóa, thể thao và du
lịch Thanh Hóa thì tỷ lệ người Thái sinh sống tập trung đông trên địa bàn các
huyện như sau:
B ng 2.1 T l ng i dân t c Thái trên a bàn các huy n c a t nh
Thanh Hóa
STT


HUYỆN

TỶ LỆ (%)

01.

Lang Chánh

56%

02.

Cẩm Thủy

22 %

03.

Ngọc Lặc

27%

04.

Quan Hóa

76%

05


Quan Sơn

71%

06.

Thường Xuân

42%

07.

Mường Lát

54%

08.

Như Xuân

25%

09.

Thạch Thành

9%

10.


Bá Thước

31%

11.

Triệu Sơn

7%

(Nguồn : Ủy ban DTMN tỉnh Thanh Hóa)

22


2.1.2 Vài nét về bản sắc văn hóa của dân tộc Thái ở tỉnh Thanh Hóa
Theo lịch sử thì người Thái ở Thanh Hóa xuất hiện rất sớm, chính từ sự
xuất hiện rất sớm này đã hun đúc nên các giá trị văn hóa truyền thống. Các
giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Thái trên địa bàn tỉnh
Thanh hóa vừa bao gồm những yếu tố đặc trưng chung mang tính thống nhất
với dân tộc Thái của nước ta, vừa hàm chứa những yếu tố đặc thù mang tính
địa phương. Cùng với những yếu tố đặc trưng chung, những nét đặc thù riêng
có này được xác định như là những chuẩn mực giá trị hữu ích.
Dưới góc độ triết học thì văn hóa của người dân tộc Thái ở Thanh Hóa
được thể hiện trong các lĩnh vực văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
2.1.2.1 Văn hóa vật thể.
Văn hóa vật thể là một lĩnh vực khá quan trọng trong truyền thống văn
hóa của đồng bào dân tộc Thái nói chung và người Thái ở Thanh Hóa nói
riêng. Ngoài những giá trị được thể hiện về mặt vật chất, các thành tố của

dạng thức văn hóa này còn chứa đựng những giá trị to lớn về mặt tinh thần.
Cụ thể, các giá trị của chúng được thể hiện qua hình thức như: không gian cư
trú, văn hóa ẩm thực, trang phục, nhà ở kiến trúc, nghề truyền thống …
●Về không gian cư trú.
Người Thái thường lập mường, lập bản theo sông, suối. Tục ngữ Thái
có câu: “Táy kin nậm”, nghĩa là Thái ăn theo nước. Hoặc: “O lóc có noong,
xoong hươn có bản” nghĩa là: một vùng nước nhỏ cũng là ao, hai nhà cũng là
bản. Tên bản thường đặt theo tên sông, tên suối, tên núi, tên đồi... nơi cư trú.
Từ xa xưa, người Thái đã biết dựa vào lợi thế tự nhiên của các thung lũng, bãi
bồi ven sông để khai khẩn thành ruộng nước, nhiều thửa ruộng tập trung
thành cánh đồng phì nhiêu.
Dải đất ăn đời ở kiếp của mình được người Thái gọi là "bản"hay còn
gọi là "Mật Tập". Đặc điểm của "Mật Tập" là không lấy vườn tược, đồi nương

23


và đường đi lối lại để quy định vị trí của nó mà lấy thế đất làm điểm trung tâm
khai mở cho tổ ấm của mình.
Về cơ bản người Thái ở Thanh Hóa Lấy sông suối, địa thế khoáng
đãng để đặt hướng nhà; Lấy thế đất chạy theo ven núi để đặt hướng, đặt biệt
là đặt hướng nhà. Cộng đồng người Thái cư trú ở nhiều nơi khác nhau, để
phân biệt rõ về nơi "chôn nhau cắt rốn", họ đặt cho bản của mình một cái tên
gọi riêng, có thể lấy tên con sông, suối, rừng, rú,...là tên cho bản.
Bản là đơn vị dân cư cơ sở có tổ chức của mường nên từ lâu đã là tổ
hợp cộng đồng xã hội mang màu sắc văn hóa dân tộc. Bởi đó là đơn vị quản
lý kinh tế, xã hội dưới cấp xã hiện nay.
●Về kiến trúc nhà ở.
Người Thái ở Thanh Hóa cũng giống như đồng bào Thái ở Việt Nam
chủ yếu là ở trong nhà sàn. Đây là loại nhà được người Thái kiến thiết bằng

những chất liệu từ thiên nhiên, gần gũi với nơi họ sinh sống. Nhà được làm
bằng các loại gỗ tốt lim, táu, sến, săng lẻ hay tre nứa… Nhà có 2 tầng, tầng
trên cao hơn tầng dưới từ 1,5 đến 2m, để tránh hơi ẩm và thú dữ. Tầng dưới
mặt đất trước đây là nơi trú ngụ, của gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, chứa củi
đóm. Tầng trên là nơi sinh hoạt của mọi người trong gia đình. Đồng bào
thường lên xuống bằng cầu thang.
Nhà ở của dân tộc Thái trên địa bàn Thanh Hóa có 4 dạng nhà sàn chủ
yếu gắn liền với sự phát triển từ thấp lên cao của đồng bào Thái: Dạng cổ
truyền gọi là nhà có đà; Dạng thứ hai gọi là nhà quá giang cột chôn; Dạng
thứ ba là nhà kê hai hàng cột có quá giang; Dạng thứ tư là nhà kê hạ. Các
dạng nhà sàn ở Thanh Hóa về hình thức bên ngoài có đôi chút khác nhau,
nhưng về cấu trúc cơ bản là giống nhau, gồm 12 phần chính là:
1. "Xau hóng" là cột chính của nhà. Khi xây cất một ngôi nhà việc đầu
tiên là phải dựng được "Xau hóng";
2. Xau khăn (cột hồn) là cột dùng để thờ khi vợ chết. Đây là cột đối
xứng với Xau hóng;
24


3. Đay (cầu thang);
4. Cỏi-sàn hiên đầu hồi có càu cầu thang chính;
5. Tu cơi (cửa chính để vào trong nhà);
6. Gian hóng (gian nọc-ngoài);
7. Xuôn (buồng ngủ);
8. Bỏn non (Giường nằm của vợ chồng gia chủ);
9. Tảu phi (bếp);
10. Tu xan (cửa ra vào bếp);
11. Xan nọc (xà phơi);
12. Đây xan (cầu thang dầu hồi thường gác lên xà phơi).
Hiện nay, những ngôi nhà sàn của đồng bào Thái được thay thế bằng

nhà cột kê (nhà có chỗ nuôi gia súc riêng), hoặc những ngôi nhà ngói đất, còn
rất ít những ngôi nhà sàn theo kiểu truyền thống. Chỉ có những bản thuộc các
xã vùng cao giáp biên giới là còn duy trì kiểu nhà sàn truyền thống này.
● Về trang phục
Khi nhắc đến trang phục, chúng ta nghĩ đến đặc điểm giới tính của nó,
cùng một chất liệu vải nhưng trang phục của người Nam và Nữ không giống
nhau. Sự khác biệt đó không phải là chức năng vật chất, mà là sự thể hiện của
nếp sống văn hóa tâm linh, tính cách, tâm lý của “giới tính người” Thái trong
suốt cuộc đời.
Trang phục Nam
Có một nét chung trong trang phục của nhiều thành phần dân tộc ở
nước ta cũng như nhiều dân tộc trên thế giới, là trang phục nam bao giờ cũng
đơn giản hơn trang phục nữ.
Thường nhật, trong sinh hoạt và lao động, nam giới người Thái mặc áo
cánh ngắn, xẻ ngực, quần xẻ dũng.
Áo: là loại cổ tròn, không cầu vai, hai túi dưới và trước cài cúc vải hoặc
xương. Đặc điểm của áo cánh nam giới người Thái khu Tây Bắc không phải
là lối cắt may (vì cơ bản giống ngắn nam Tày, Nùng, Kinh...) mà là ở màu sắc
25


×