Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nhân vật và người kể chuyện trong tiểu thuyết lê lựu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.47 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ XUÂN THOẢ

NHÂN VẬT VÀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Lý luận Văn học

HÀ NỘI 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ XUÂN THOẢ

NHÂN VẬT VÀ NGƢỜI KỂ CHUYỆN
TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Lý luận Văn học
Mã số

: 60 22 01 20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :
PGS. TS ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG

HÀ NỘI 2014




LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực cố gắng của riêng bản
thân tôi, còn nhờ sự tận tình giúp đỡ của các thầy cô, gia đình và bạn bè.
Với tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc, em xin gửi tới PGS.TS
Đoàn Đức Phương, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài luận văn.
Xin cảm ơn các thầy, cô giáo thuộc tổ bộ môn Lý luận Văn học, khoa
Văn học và các cán bộ phòng đào tạo SĐH của Trường ĐH KHXH&NV Hà
Nội đã trang bị kiến thức cũng như tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin cám ơn Sở GD&ĐT Hải Dương, Ban Giám hiệu cùng các cán bộ,
giáo viên Trường trung học phổ thông Đường An nơi tôi công tác đã ưu ái tạo
mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn cũng như khoá học này.
Xin cảm ơn và tỏ lòng tri ân sâu sắc đến tất cả mọi người trong gia đình,
các anh chị, các bạn lớp cao học văn K56 những người đã luôn giúp đỡ, chia
sẻ mọi khó khăn và luôn động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2014
Tác giả luận văn

Vũ Xuân Thỏa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………….

1


2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………….

4

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………

8

4. Phƣơng pháp nghiên cứu ………………………………………..........

9

5. Cấu trúc luận văn……………………………………………………...

11

NỘI DUNG
Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT LÊ LỰU TRONG DÒNG CHẢY TIỂU
THUYẾT ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Bức tranh chung của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới
1.1.1. Cơ sở của công cuộc đổi mới văn học …………………………….

12

1.1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi mới …………………………….

13

1.2. Quá trình sáng tác và vị trí của tiểu thuyết Lê Lựu trong văn học

Việt Nam thời kỳ Đổi mới.
1.2.1. Quan điểm nghệ thuật……………………………………………...

20

1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu……………………………………

21

1.2.3. Vị trí của tiểu thuyết Lê Lựu trong văn học Việt Nam thời kỳ
Đổi mới…………………………………………………………………….

23

Chƣơng 2: NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
2.1. Nhân vật văn học và nhân vật tiểu thuyết ………………………….

26

2.2. Cảm hứng bi kịch và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu... 28
2.2.1. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam trước và sau thời kỳ
Đổi mới ……………………………………………………………………... 29
2.2.2. Nhân vật rơi vào bi kịch do hoàn cảnh ………………………............ 34
2.2.3. Bi kịch cá nhân trong mỗi nhân vật………………………………… 43
2.2.4. Nhân vật rơi vào bi kịch do nhận thức, quan niệm duy ý chí ………. 50


2.2.5. Nhân vật với bi kịch của lối sống thực dụng, ích kỷ, biến chất .......

59


2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ………………………………............ 66
2.3.1. Nghệ thuật tạo tình huống………………………………………….. 67
2.3.2. Nghệ thuật biểu hiện nội tâm………………………………………. 73
2.3.3. Nghệ thuật tổ chức xung đột…………………………………………

76

Chƣơng 3: NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
3.1. Khái lƣợc về ngƣời kể chuyện trong loại hình tự sự
3.1.1. Khái niệm người kể chuyện………………………………………… 83
3.1.2. Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể chuyện…………………... 85
3.2. Ngôi kể và điểm nhìn
3.2.1. Ngôi kể………………………………………………………………… 88
3.2.2. Điểm nhìn ……………………………………………………………. 89
3.3. Phƣơng thức kể chuyện
3.3.1. Trần thuật khách quan hóa trong tiểu thuyết Lê Lựu…………….. 94
3.3.1.1. Trần thuật hòa mình với nhân vật…………………………………

95

3.3.1.2. Trần thuật “ủy thác” cho nhân vật………………………………... 105
3.3.1.3. Người trần thuật có giọng nói riêng………………………………. 113
3.3.2. Trần thuật theo hướng chủ quan hóa trong tiểu thuyết Lê Lựu….. 118
3.4.Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu
3.4.1. Giọng điệu trần thuật……………………………………………….. 125
3.4.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu
3.4.2.1. Giọng điệu hài hước, hóm hỉnh, giễu nhại………………………… 129
3.4.2.2. Giọng điệu trữ tình xót xa, thương cảm…………………………… 135
3.4.2.3. Giọng suy tư chiêm nghiệm………………………………………... 140

3.4.2.4. Giọng phê phán, lên án, tố cáo …………………………………… 145
KẾT LUẬN………………………………………………………………..

149

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………... 156


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra một kỉ nguyên
mới cho dân tộc ta - kỉ nguyên của độc lập, tự do. Sự kiện đó được coi là
“cuộc tái sinh màu nhiệm” của dân tộc Việt Nam, thì mốc lịch sử sau ngày
30/04/1975 có thể được coi là sự đổi thay kì diệu của hiện thực đời sống
chính trị, xã hội và văn hóa. Đất nước ta khép lại trang sử chiến tranh, bước
sang một trang mới: xây dựng và tái thiết đất nước trong bối cảnh hòa bình.
Cuộc sống trở lại với quy luật bình thường, con người trở về đối diện với
muôn mặt phức tạp, xô bồ của cuộc sống. Văn học cũng có sự thay đổi, các
nhà văn có sự mẫn cảm với cuộc sống đã nhìn thẳng vào hiện thực cuộc sống
và họ đã phát hiện ra nhiều vấn đề có ý nghĩa. Từ thể tài lịch sử dân tộc vốn
được coi là thể tài chủ đạo, văn học đã chuyển sự quan tâm chủ yếu sang thể
tài thế sự. Nhiều tác phẩm văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn,
sâu sắc về con người mà hạt nhân cơ bản là tư tưởng nhân văn, nhân bản. Con
người trong văn học hôm nay được nhìn ở nhiều vị thế, trong tính đa chiều
của các mối quan hệ: con người xã hội, con người với cuộc sống, con người
trong các mối quan hệ với gia đình, dòng họ, với phong tục tập quán và với
chính mình. Con người cũng được văn học khám phá ở nhiều tầng bậc: ý thức
và vô thức, tư tưởng, tình cảm và đời sống tự nhiên, con người với bản năng,
khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con
người trong tính nhân loại, phổ quát. Đây là những vấn đề cần được nghiên

cứu một cách sâu sắc và toàn diện.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã “cởi trói” những quan niệm
nghệ thuật không còn phù hợp với thời đại để tài năng nghệ sĩ được tự do
tung cánh. Sự đổi mới ấy đã đem đến cho văn nghệ một luồng sinh khí mới.
Cuối những năm tám mươi, đầu những năm chín mươi là một đợt sóng rất cao
1


và mới của tiểu thuyết. Đã không ít cây bút mới xuất hiện với những cảm
hứng và quan niệm nghệ thuật mới ra đời. Một loạt tiểu thuyết triển khai trên
nhiều đề tài đã tái hiện bức tranh đời sống xã hội Việt Nam thời hiện đại trong
toàn bộ tính phức tạp của nó như: Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn
Kháng, Ông cố vấn của Hữu Mai, Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trường, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Bến không chồng của
Dương Hướng, Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh, Thời xa vắng, Đại tá
không biết đùa của Lê Lựu....Các nhà văn đã lựa chọn thể loại tiểu thuyết làm
phương tiện phản ánh hiện thực cuộc sống và bày tỏ quan điểm nghệ thuật
của mình. Thể loại này chiếm vị trí hết sức quan trọng trong các loại hình văn
xuôi nghệ thuật, là hành trang chủ yếu của các cây bút văn xuôi, là dấu hiệu
trưởng thành của một nền văn học. Tiểu thuyết được coi là “máy cái” của văn
học, nhiều cuốn tiểu thuyết được coi là những pho "bách khoa toàn thư" về
đời sống xã hội. Giá trị nhận thức, những kinh nghiệm sống quý báu mà tiểu
thuyết mang đến cho con người là không thể đo đếm hết. Bức tranh hiện thực
toàn cảnh mà tiểu thuyết mang lại cũng bộn bề, phức tạp, đa dạng, đa chiều và
đa tầng.... như chính bản thân sự tồn tại của đời sống con người. Từ những
"khuôn vàng thước ngọc" của đạo đức, phong tục đến những lĩnh vực bao la,
rộng mở của khoa học, nghệ thuật; từ những cuộc giao tranh đẫm máu của
lịch sử đến những hình ảnh rực rỡ lấp lánh sắc mầu của thiên nhiên; từ những
vinh quang chói lọi của các bậc đế vương đến những chặng đường hưng thịnh
hay suy vong của một thời đại đến cái kết cục bi thảm của một thân phận tăm

tối, thấp hèn...tất cả đều hiện lên trong những trang tiểu thuyết với dáng vẻ
chân thực và sinh động.
Dòng chảy của tiểu thuyết thời kì Đổi mới có những chuyển biến phong
phú, đa dạng, làm nóng lại không khí có phần lặng lẽ của tiểu thuyết giai đoạn
trước. Đọc tiểu thuyết hôm nay, độc giả dễ có cảm giác nó đã áp sát đời sống,
2


xông thẳng vào các “mắt bão” của cuộc đời và nói được nhiều vấn đề bức
thiết của cuộc sống thông qua những số phận có tính bi kịch. Con đường đổi
mới này dẫu còn nhiều thử thách, dẫu chưa thật hoàn thiện nhưng chúng ta
thấy cũng đã phần nào định hình. Trên con đường ấy, có thể nói, Lê Lựu là
một trong những tác giả đặt những bước chân đầu tiên để lại dấu ấn sâu đậm
trong lòng người đọc, nhiều tác phẩm của ông đã tập trung phản ánh số phận,
bi kịch của con người trước thực tại. Độc giả đã biết đến Lê Lựu với những
truyện ngắn làm rung động lòng người như: Trong làng nhỏ, Người cầm
súng, Chuyện kể từ đêm trước, Người về đồng cói, Quê hương người
lính…Nhưng phải đến Thời xa vắng thì Lê Lựu mới thật sự trở thành một
hiện tượng, tác phẩm đã gây được tiếng vang, thu hút sự chú ý của nhiều nhà
nghiên cứu văn học về việc đổi mới tư duy nghệ thuật trong tiểu thuyết.
Người ta thấy khắp nơi diễn đàn về Thời xa vắng. Anh chàng nhà quê Giang
Minh Sài của nhà văn đi vào tận các ngõ ngách của cuộc sống, hắn vượt cả
biên giới, ra khỏi địa phận nước Việt. Có thể nói Lê Lựu đã thành công vang
dội. Sau thành công ấy, ông vẫn miệt mài lao động và những đứa con tinh
thần của ông lại lần lượt ra đời như: Đại tá không biết đùa (1989), Chuyện
làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995), Hai nhà (2000).... Trong từng tác
phẩm, ông đã thể hiện sự đổi mới của mình ở nhiều góc độ trên con đường
tìm tòi, sáng tạo hướng đi mới cho tiểu thuyết. Chính sự đổi mới ấy đã góp
phần đem đến cho văn học những hình tượng mới lạ về người lính trong chiến
tranh, người lính trong đời thường và những hiện tượng nóng bỏng đang được

quan tâm trong xã hội. Thành quả của quá trình lao động không mệt mỏi đã
được đền đáp xứng đáng, Lê Lựu đã khẳng định mình ở nhiều thể loại như:
tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, tạp văn… Tên tuổi và tác phẩm của ông được
khẳng định trong một loạt giải thưởng như: giải Nhì Hội thi truyện ngắn báo
Văn Nghệ 1967-1968 (không có giải nhất) với truyện ngắn Người cầm súng,
3


giải A cuộc thi viết về thương binh của Hội nhà văn, Bộ thương binh với
truyện Người về đồng cói. Đặc biệt với giải thưởng của Hội nhà văn dành cho
Thời xa vắng, có thể nói Lê Lựu đã trở thành cây bút của văn chương đương
đại được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Vậy cái gì đã tạo nên sự thành công
cho Lê Lựu? Có rất nhiều yếu tố, trong đó theo chúng tôi không thể không kể
đến nghệ thuật xây dựng tác phẩm của tác giả mà cụ thể là về nhân vật và
người kể chuyện. Tuy nhiên, ở góc độ thi pháp thì chưa có công trình nghiên
cứu một cách đầy đủ hệ thống tác phẩm của ông mà chỉ khai thác ở vài khía
cạnh như nghệ thuật trần thuật, thế giới nghệ thuật, đổi mới nghệ thuật, thế
giới nhân vật trong các bài viết hoặc ở một số luận văn.
Nhìn chung, sáng tác của Lê Lựu không phải tất cả đều là đỉnh cao, là
kiệt tác nhưng nó có sức hấp dẫn riêng làm cho người đọc đã chạm vào rồi thì
khó mà dứt ra được hay nói như Trần Đăng Khoa “Lê Lựu biết cuốn hút
người đời bằng một thứ văn không nhạt. Ngay cả những truyện xoàng xoàng,
người đọc vẫn thu lượm được một cái gì đấy, có khi là một chi tiết, một đoạn
tả cảnh hoặc một nét phác họa tính cách nhân vật”. Lê Lựu có một vị trí khá
quan trọng trong văn học thời kì Đổi mới, tác phẩm của ông xứng đáng được
nghiên cứu riêng biệt trong một công trình. Vì vậy, trong luận văn này chúng
tôi vận dụng một số kiến thức lý luận văn học về văn học thời kì Đổi mới mà
bản thân lĩnh hội được trong quá trình học tập và nghiên cứu với mong muốn
chỉ ra được một số nét nổi bật về nhân vật và người kể chuyện qua một số tác
phẩm của Lê Lựu. Hy vọng rằng với luận văn này, chúng tôi có thể đóng góp

một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu chung về Lê Lựu để thấy được
đóng góp của nhà văn đối với nền văn học dân tộc một cách sâu sắc, toàn diện
trong quá trình đổi mới tiểu thuyết từ góc độ thi pháp đồng thời góp phần
khảng định vị trí của nhà văn trong văn học Việt Nam đương đại.
2. Lịch sử vấn đề
4


Theo tìm hiểu của chúng tôi, đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến Lê Lựu và sự nghiệp sáng tác của ông. Qua những tác phẩm của Lê
Lựu, độc giả không chỉ hình dung được bộ mặt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ
mà còn cảm nhận một cách sâu sắc những biến chuyển tinh tế nhất của đời
sống tư tưởng con người thời đại. Vì vậy, tác phẩm của nhà văn không rơi vào
khoảng không im lặng mà có thể nhận thấy, cùng với các cây bút văn xuôi lúc
bấy giờ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh... Lê Lựu đã
làm cho đời sống văn học nước ta thêm phần sôi động.
Lịch sử văn học cho thấy, những nhà văn nào được giới nghiên cứu, phê
bình quan tâm thì càng được bạn đọc chú ý. Và dù khen hay chê cũng đều
khiến tác phẩm thêm nổi tiếng, người đọc tìm đến nó nhiều hơn. Lê Lựu là
một trường hợp như vậy. Nhà phê bình Ngô Thảo trong một bài viết Về
truyện ngắn Lê Lựu đã nhận định: “Lê Lựu là một người đang tìm tòi. Truyện
nào của anh cũng tìm được những nét tính cách mới, những hướng khai thác
vấn đề mới”. Bàn về truyện ngắn Người cầm súng, nhà nghiên cứu Bích Thu
đã khẳng định: “Có thể nói Người cầm súng như là cái mốc đánh dấu một
chặng đi mới của Lê Lựu trên con đường vào nghề, nó đã khơi mở được
nguồn mạch sáng tác của anh”. Mãi đến 1986, cuốn tiểu thuyết Thời xa vắng
“trình làng” mới thực sự gây xôn xao trong dư luận và được đánh giá là “một
cọc tiêu tiền trạm” của công cuộc đổi mới văn học. Tác phẩm này nhanh
chóng thu hút được sự chú ý của nhiều cây bút phê bình như Nguyễn Văn
Lưu, Nguyễn Hòa, Phong Lê, Vương Trí Nhàn, Bích Thu… Có thể nói rằng

Lê Lựu đã dám nhìn thẳng vào sự thật khắc nghiệt, những góc khuất của hiện
thực cuộc sống để “nhận thức lại thực tại”.
Nối tiếp nguồn cảm hứng của Thời xa vắng thời gian sau đó, Lê Lựu
cho ra mắt bạn đọc hàng loạt tác phẩm: Đại tá không biết đùa (1989),
Chuyện làng Cuội (1993), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2003)…và thật
5


sự đã gây được nhiều tiếng vang trong dư luận như Lê Lựu từng tâm sự: “Có
những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bởi tự thân nội dung đặc sắc của nó đi được
vào mạch ngầm tâm tư tình cảm của nhân vật (Thời xa vắng), cũng có những
cuốn tiểu thuyết nổi tiếng bởi tai tiếng (Chuyện làng Cuội), lại có những
cuốn tiểu thuyết khi lên phim mới nổi đình nổi đám và kéo theo đó là tai bay
vạ gió”. Song ở bất cứ tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ, Lê Lựu cũng có một vấn
đề gì đó để gửi gắm. Và giá trị của những cuốn tiểu thuyết ấy là không thể
phủ nhận. Nhận xét về tiểu thuyết Lê Lựu, tác giả Lê Hồng Lâm đã phát biểu:
“Sở dĩ tác phẩm của Lê Lựu gây được dư luận và có chỗ đứng riêng trên văn
đàn như Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông, Hai nhà…là bởi ông luôn viết hết
mình như ông sống, yêu ghét rạch ròi và đặc biệt là đi đến tận cùng tính cách
nhân vật... Ở một phương diện nào đó, trong những hoàn cảnh điển hình nhà
văn đã tạo ra những nhân vật điển hình”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lưu trong bài viết “Nhu cầu nhận thức lại
qua Thời xa vắng” in trên Tạp chí văn học số 5 – 1987 cho rằng: “Tiểu thuyết
Thời xa vắng của Lê Lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển
biến trong nhìn nhận, đánh giá thực tại”. Nghĩa là yêu cầu nhà văn một sự
khám phá sâu hơn vào những vùng hiện thực mà trước đây chưa được chú ý
đúng mức. Người đọc thấy Lê Lựu trong Thời xa vắng khác hẳn Lê Lựu
trong các tác phẩm trước đó. “Ở đây, tác giả đã có sự chuyển hướng rõ rệt
trong phong cách nghệ thuật. Do cách nhìn hiện thực mới, sâu sắc và nhuần
nhị hơn, đã đem lại những cảm hứng mới, giọng điệu mới cho tác giả”. Ông

cũng khẳng định tài năng của Lê Lựu: “Phải là người nông dân nghèo khổ
mới viết được những câu văn ứa lệ như vậy, đó là những trang văn hay của
văn xuôi Việt Nam”.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa - người đồng hương và cũng là người vô cùng
quý mến Lê Lựu đã có những nhận xét xác đáng về cuốn tiểu thuyết này: “Lê
6


Lựu đã dựng lên một loạt bức tranh nông thôn đặc sắc. Có nhiều trang đạt
chuẩn Nam Cao. Có thể nói tắt từ Nam Cao qua một chút Kim Lân đến
Nguyễn Khắc Trường và Lê Lựu, chúng ta mới lại có nhà văn nông thôn thứ
thiệt”. Nhắc đến Lê Lựu, người ta hay nói đến Thời xa vắng, tác phẩm đưa
ông trở thành “sỹ quan” trong làng văn. Không phải đơn giản cuốn tiểu thuyết
này lại nhận được nhiều lời khen chê, bởi lẽ tác phẩm đã khơi gợi sứ mệnh
thiêng liêng mà mọi nền văn học chân chính xưa nay muốn đảm nhiệm. Theo
nghĩa này, Vương Trí Nhàn đã khẳng định: “Thời xa vắng nên được xem là
cuốn sách biết làm đúng nhiệm vụ của một tác phẩm văn học cần làm”.
Bích Thu trong bài viết: Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam
từ sau Đổi mới, in trong cuốn Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (Viện
Văn học 1999) đã nhận xét: “Đọc tiểu thuyết Lê Lựu, người đọc nhớ câu
chuyện, nhớ nhân vật của một thời đã qua mà ai cũng thấy thấp thoáng chút ít
mình trong đó”.
Ngoài ra, đã có hàng loạt bài nghiên cứu về tác phẩm của Lê Lựu như:
Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút viết truyện ngắn của Phong Vũ; Thời xa
vắng - Một tâm sự nóng bỏng của Lê Thành Nghị; Chuyện phiếm với anh Sài
của Hồng Vân; Nghĩ về một Thời xa vắng của Thiếu Mai; Đọc Thời xa vắng
của Lê Lựu của Hoàng Ngọc Hiến, Suy tư từ một Thời xa vắng của Nguyễn
Hoà; Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay của Vương Trí
Nhàn; Khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - Những tìm tòi và thể nghiệm
của Nguyễn Ngọc Thiện; Một giờ với nhà văn Lê Lựu của Nguyễn Hữu Sơn;

Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị của Nguyễn Thu Hằng; Lê Lựu
- Thời xa vắng của Đinh Quang Tốn;...và tất cả những bài viết này được
chính Lê Lựu tập hợp lại trong cuốn Tạp văn của mình.
Bên cạnh những tài liệu, sách, báo và tạp chí, một số luận văn cũng đề
cập đến những vấn đề xoay quanh tiểu thuyết Lê Lựu như: Tiểu thuyết viết về
7


nông thôn trong văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới (1999), luận văn thạc sĩ
Nguyễn Thị Hương Lan, ĐHSPHà Nội. Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới
(2002), luận văn thạc sĩ Trần Thị Kim Soa, ĐHSP Hà Nội. Những cách tân
nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến nay (2005), luận văn Thạc
sĩ Nguyễn Thị Minh Thủy, ĐH Vinh. Phong cách tiểu thuyết Lê Lựu (2007),
luận văn Thạc sĩ Ngô Thị Diệu Thúy, ĐH Vinh. Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi
mới (2007) luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Hiền – ĐHSP TP Hồ Chí Minh. Tiểu
thuyết viết về nông thôn thời kì đổi mới (2009), luận văn thạc sĩ Phùng Thị
Hồng Thắm – ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội. Không gian và thời gian
nghệ thuật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới (2010) luận văn thạc sĩ
Đào Thị Cúc – ĐH KHXH&NV, ĐHQG Hà Nội…Những luận văn trên có
điểm chung là đều đề cập đến quan niệm nghệ thuật về con người, hoặc khai
thác sức hấp dẫn về nghệ thuật của tiểu thuyết Lê Lựu, những đặc điểm của
phong cách tiểu thuyết Lê Lựu với nhiều phát hiện mới mẻ, thú vị, trong đó
nhiều người đặc biệt quan tâm đến tiểu thuyết Thời xa vắng.
Các luận văn được điểm qua trên đây mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu
một phương diện, một góc độ nào đó, chưa có một công trình khoa học
chuyên biệt nào khảo sát kĩ lưỡng về nhân vật và người kể chuyện trong
thuyết Lê Lựu. Chính vì vậy, lựa chọn đề tài: “Nhân vật và người kể chuyện
trong thuyết Lê Lựu”, chúng tôi mong muốn đề xuất một cách nhìn khái quát,
toàn diện hơn để từ đó không chỉ làm rõ những kiểu nhân vật và người kể
chuyện trong tiểu thuyết của Lê Lựu mà đồng thời còn chỉ ra những đóng góp

cũng như vị thế của một cây bút “tiền trạm” trong công cuộc đổi mới văn học
Việt Nam hiện đại.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

8


Nhằm cung cấp một khía cạnh nghiên cứu mới về tiểu thuyết Lê Lựu từ
góc nhìn về nhân vật và người kể chuyện. Đề xuất hướng nghiên cứu đa chiều
mới về nhân vật và người kể chuyện trong tiểu thuyết Lê Lựu dựa trên bối
cảnh lịch sử, các kiểu nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật; ngôi kể, điểm
nhìn, phương thức trần thuật, ngôn ngữ trần thuật....
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu về Lê Lựu và sự nghiệp sáng tác của ông đã có rất nhiều ý kiến
bàn luận nhưng chưa đi sâu tìm hiểu nghệ thuật lựa chọn và kiến tạo về nhân
vật và người kể chuyện. Trong luận văn này, từ việc lấy những đặc điểm tiểu
thuyết đương đại làm cơ sở, từ đó chúng tôi hướng đến tìm hiểu những đặc
điểm tiểu thuyết của Lê Lựu. Dựa vào thể loại, và tác phẩm chúng tôi cố gắng
chỉ ra những đặc điểm, những ưu thế riêng biệt, những chuyển biến về quan
niệm con người, về người kể chuyện, những trăn trở tìm tòi cũng như cách
thức biểu hiện chúng…để góp phần làm sáng tỏ những đóng góp và sáng tạo
mới của Lê Lựu trong lĩnh vực tiểu thuyết.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu diễn ra trong gần nửa thế kỉ với số lượng
tác phẩm khá phong phú: 9 tập truyện, 2 tập kí và 8 cuốn tiểu thuyết, tạp
văn....Trong phạm vi luận văn, do hạn chế về mặt thời gian chúng tôi không
thể tiến hành khảo sát về nhân vật và người kể chuyện ở trong tất cả tác phẩm
của Lê Lựu mà chủ yếu khảo sát qua một số tác phẩm của ông trong thời kì
Đổi mới (từ 1986).

- Thời xa vắng (1986), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
- Chuyện làng Cuội (1991) Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
- Sóng ở đáy sông (1995), Nxb Hải Phòng
- Hai nhà (2000), Nxb Thanh Niên, Hà Nội

9


Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ đặt những sáng tác
trên trong toàn bộ hệ thống tiểu thuyết Lê Lựu để thấy được những đặc điểm
chung nhất về phương diện nhân vật và người kể chuyện.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp lịch sử – xã hội
Văn học là bức tranh phản chiếu sinh động về đời sống hiện thực. Văn
học nói chung và tiểu thuyết của Lê Lựu nói riêng đều mang hơi thở của thời
đại. Chính vì vậy, không xem xét đến yếu tố hiện thực, đặc biệt là nhiệm vụ
do đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra thì không thể nào thấy được sự tất
yếu phải thay đổi, phải chuyển hướng của văn học nghệ thuật trong giai đoạn
này. Sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội sẽ giúp cho việc lý giải những cơ
sở thực tiễn và nguyên nhân sự chuyển hướng của nghệ thuật trong tác phẩm
của Lê Lựu.
4.2. Phương pháp so sánh
Văn học chịu sự chi phối trực tiếp và hết sức mạnh mẽ của hoàn cảnh xã
hội. Sự chuyển biến, đổi mới của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới
đang diễn ra trên toàn xã hội. Việc sử dụng phương pháp so sánh (lịch đại,
đồng đại) giúp chúng tôi có điều kiện so sánh sự chuyển hướng nghệ thuật về
phương diện nhân vật và người kể chuyện của Lê Lựu trong thời kỳ Đổi mới
cũng như những điểm nổi trội đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu so với tiểu
thuyết của các tác giả cùng thời.
4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp

Muốn làm rõ những đặc điểm tiêu biểu về nhân vật và người kể chuyện
trong tiểu thuyết Lê Lựu thì không thể không phân tích các khía cạnh của tác
phẩm để rút ra ý nghĩa thẩm mĩ của nó. Sử dụng phương pháp này sẽ giúp
chúng tôi đi sâu khám phá mọi cung bậc tình cảm, diễn biến tâm lý của nhân
vật cũng như nghệ thuật kể chuyện của nhà văn trên từng trang viết.
10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Xuân Thụy An (2006), Cảm hứng bi kịch trong văn xuôi Việt Nam thời
kỳ đổi mới (86-96), Luận văn thạc sĩ văn học, Trường ĐHSP Tp.HCM.
2. Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học vì sự phát triển, Tạp chí VH (4).
3. Lê Phương Anh (1961), Góp ý kiến nhận định về truyền thuyết Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Văn học (4).
4. Lại Nguyên Ân (1986), Văn xuôi gần đây diện mạo và vấn đề, Văn nghệ
Quân đội (1).
5. Lại Nguyên Ân (1989), Mấy nhận thức về đổi mới trong văn nghệ, Văn
nghệ số 42.
6. Lại Nguyên Ân(1986), Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua, Tạp chí Văn
học (1).
7. Lại Nguyên Ân (1986), Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8 - Một
nền sử thi hiện đại, Văn học (5).
8. M. Bakhtin (2003), Phạm Vĩnh cư tuyển chọn và dịch, Lý luận và thi pháp
tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn.
9. Lê Huy Bắc (1996), Đồng hiện trong văn xuôi, Văn học (6).
10. Lê Huy Bắc (1998), Giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Văn học 9.
11. Mai Huy Bích (1987), Trở lại với tiểu thuyết "Thời xa vắng" - Hôn nhân gia đình - xã hội qua một cuốn tiểu thuyết, Văn nghệ số 21.
12. Nguyễn Thị Bình (1996), Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt
Nam sau 1975, 50 năm văn học Việt Nam sau CMT8, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt

Nam sau 1975, khảo sát trên nét lớn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội.
11


14. Ngô Vĩnh Bình (1994), Nửa thế kỷ những nhà văn mang áo lính, Báo
SGGP Chủ nhật ra ngày 25/12.
15. Ngô Ngọc Bội (1987), Đổi mới tư duy một cuộc cách mạng tự thân, Văn
nghệ số 5.
16. Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam (1989), Văn học trong sự nghiệp
đổi mới, báo Nhân dân 28/10.
17. Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam (1990), Về tình hình sáng tác văn
học hiện nay, Báo Văn nghệ số 30, ngày 28/7.
18. Ban chấp hành Trung ương Đảng (1975), Những bức thư của Ban chấp
hành Trung ương Đảng gửi các Đại hội Văn nghệ, Nxb Sự thật, Hà Nội.
19. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
(1987), Nghị quyết 05 về văn hoá, văn nghệ.
20. Đào Thị Cúc, Không gian và thời gian trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi
mới (2010), Luận văn Thạc sĩ ĐHKHXH&NV –ĐHQG Hà Nội
21. Nông Quốc Chấn (1989), Đổi mới trong văn học, Văn nghệ số 37, 16/09.
22. Nguyễn Minh Châu (1987) Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn
nghệ minh hoạ, Vài suy nghĩ về tiểu thuyết, Văn nghệ (39- 49 - 50).
23. Trần Cương (1995), Văn xuôi về nông thôn từ nửa sau những năm 80,
Văn học (4).
24. Huy Cận (1990), Nhiệm vụ của văn học nghệ thuật trong giai đoạn cách
mạng hiện nay, Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
25. Nguyễn Thị Chiến (1992), Tính bi kịch xã hội qua hình tượng người phụ
nữ thơ ca thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, Văn học (2).
26. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học - lý luận và ứng dụng, Nxb

GD, Hà Nội.
27. Hoàng Diệu (1988), Mấy ghi nhận từ đời sống văn học năm 1987, Văn
12


nghệ Quân đội (4).
28. Đinh Trí Dũng (1992), Bi kịch tự ý thức, nét độc đáo trong cảm hứng nhân
đạo của Nam Cao, Nghĩ tiếp về Nam Cao, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
29. Đinh Xuân Dũng (1990), Đổi mới văn xuôi chiến tranh, Văn nghệ (51).
30. Đinh Xuân Dũng(1996), Văn học Việt Nam về chiến tranh, hai giai đoạn
của sự phát triển, 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Đinh Xuân Dũng (1987), Vài suy nghĩ về những cuộc tranh luận văn học
gần đây, Văn nghệ số 29.
32. Đinh Xuân Dũng (1990), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học, Nxb
Quân đội nhân dân.
33. Triều Dương (1989), Đánh giá đúng thực trạng văn học, bình tĩnh tiếp tục
công cuộc đổi mới, Văn nghệ (41).
34. Đỗ Đức Dục (1990), Vai trò của văn học trong việc "Đổi mới con người",
Tuổi trẻ chủ nhật số 5.
35. Lê Duẩn (1997), Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ
nghĩa, Nxb Văn hoá, Hà Nội
36. DOROTHY BREWSTER và ANGUS BURRELL(1971), Tiểu thuyết
hiện đại, Dương Thanh Bình dịch, Ủy ban dịch thuật phủ Quốc Vụ Khanh đặc
trách VH-XH.
37. Hà Minh Đức (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Hà Minh Đức (2002), Những thành tựu của văn học Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới, Văn học (7).
39. Hà Minh Đức (1997), Lý luận văn học, (Chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Trần Bạch Đằng (1991), Văn học Việt Nam và vấn đề con người trong
chiến tranh, Văn nghệ quân đội (7).
13


41. Trần Bạch Đằng (1988), Tiếp tục con đường đổi mới trong sáng tạo nghệ
thuật, Văn nghệ số 50.
42. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, HN.
43. Phan Cư Đệ (1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
44. Phan Cư Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử
và lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Phan Cư Đệ (1984), Tác phẩm và chân dung, Nxb Văn học, Hà Nội.
46. Phan Cư Đệ (1972), Về những tiểu thuyết gần đây của nhà văn quân đội,
Văn nghệ quân đội số 12.
47. Trần Trọng Đăng Đàn (1974), Từ Dấu chân người lính nghĩ đến những
cuốn tiểu thuyết lớn xứng đáng với dân tộc với thời đại, Tạp chí Văn học số 3.
48. Trần Thanh Đạm (1989), Nghĩ về một xu thế đổi mới trong đời sống văn
chương hiện nay, Văn nghệ số 1.
49. Nguyễn Khoa Điềm (1994), Một vài cảm nhận về đời sống văn chương
hôm nay, Văn nghệ số 35.
50. Trần Độ (1993), Cảm nhận về một nền văn nghệ mới đang ra đời, Văn nghệ
số 2.
51. Phạm Văn Đồng (1983), Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người
nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội.
52. Nguyễn Hà (2000), Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam
nửa sau thập niên 80, Văn học (3).
53. Nguyễn Hà (1998), Điểm lại 15 năm văn học Việt Nam (1975 - 1990),
Bình luận văn học, Niên giám 1997(1), Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học
Tp.HCM, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

54. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con
người trong văn xuôi Việt Nam sau CMT8, Đề tài cấp Nhà nước, Hà Nội.
14


55. Hoàng Thị Hồng Hà (2003), Những đặc điểm nghệ thuật của văn xuôi
Việt Nam cuối những năm 80 - đầu những năm 90, Luận án Tiến sĩ, Trường
ĐHKHXH và NV Tp.HCM.
56. Lưu Thị Thu Hà (2004), Hiện tượng phân rã cốt truyện trong “Phiên chợ
Giát" và "Thân phận tình yêu", evan.com.vn.
57. Nam Hà (1992), Viết về đề tài chiến tranh, Văn nghệ số 33.
58. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb GD, Hà Nội.
59. Nguyễn Văn Hạnh (1987),Văn học trên con đường đổi mới, Văn học (4).
60. Nguyễn Văn Hạnh (1987), Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong văn
học nghệ thuật, Văn học (2).
61. Nguyễn Văn Hạnh- Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học - vấn đề
và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Nguyễn Văn Hạnh (1979), Suy nghĩ về văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi
mới cách nhìn về con người, Tạp chí Văn học số 3.
64. Lê Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
65. Nguyễn Thị Hiền (2009) Tiểu thuyết viết về nông thôn thời kì đổi mới,
luận văn thạc sĩ – ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
66. Hoàng Ngọc Hiến (1987), Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu, Văn nghệ quân
đội (4).
67. Hoàng Ngọc Hiến (1991), Những nghịch lý của chiến tranh, Văn nghệ (15)
68. Đỗ Đức Hiểu (1994), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học Xã hội
69. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.
70. Nguyễn Hoà (1989), Suy nghĩ về vấn đề con người trong văn học viết về
15


chiến tranh, Văn nghệ (51).
71. Nguyễn Hoà (1994), Để văn học thực sự là văn học, Văn nghệ số 14.
72. Nguyễn Hoà (1990), Một đoạn đường mới sau chiến tranh, Văn nghệ
quân đội (2).
73. Nguyễn Hoà (1987), Suy tư từ một Thời xa vắng, Văn nghệ (49-50).
74.Thanh Hương (1995), Trao đổi về văn xuôi mấy năm gần đây, Văn nghệ 44.
75. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam
75 - 95, Luận án phó tiến sĩ, Trường ĐH KHXH & NV Tp.HCM.
76. Lê Thị Hường (1994), Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn
hôm nay, Văn học (2).
77. Lê Thị Hường (1995), Các kiểu kết thúc truyện ngắn hôm nay, Văn học (2).
78. Nguyễn Thị Huệ (1998), Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma
Văn Kháng những năm 80, Văn học số 2.
79. Nguyễn Trí Huân (1994), Những trang viết về người lính, Văn nghệ số 41.
80. Tố Hữu (1982), Phấn đấu vì một nền văn nghệ XHCN, Nxb sự thật, HN.
81. Hêghen, Phan Ngọc dịch (1999), Mĩ học, tập 1, Nxb Văn học, HN.
82. Nguyễn Khải (1984),Văn xuôi trước yêu cầu của cuộc sống mới, Văn
nghệ Quân đội (1).
83. Nguyễn Khải (1988), Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn, Văn nghệ ngày
30 /11.
84. Nguyễn Khải (1990), Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ, Văn nghệ (41).
85. Đỗ Văn Khang (2002), Mỹ học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
86. Đỗ Văn Khang (1989), Văn nghệ cần tiếp tục đổi mới như thế nào, Văn
nghệ (19).
87. Nguyễn Hoành Khung (1998), Về nhân vật Chí Phèo Nam Cao, tác giả

và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
88. M.B.Khrapchenkô, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch (1978), Cá tính sáng tạo
16


của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt
Nam, Hà Nội.
89. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 45 - 75,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
90. Chu Lai (1996), Nhân vật người lính trong văn học, 50 năm văn học Việt
Nam sau Cách Mạng Tháng 8, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
91. Chu Lai (2004),Viết về chiến tranh đôi điều suy ngẫm, Văn nghệ quân đội,
số ra tháng 8.2004.
92. Nguyễn Thị Hương Lan (1999) Tiểu thuyết viết về nông thôn trong văn
xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ – ĐHSP Hà Nội
93. Tôn Phương Lan (2001), Một vài suy ngĩ về con người trong văn xuôi thời
kỳ đổi mới, Văn học (9).
94. Tôn Phương Lan (1995), Tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, Văn nghệ
Quân đội (6).
95. Phong Lê (1988), Văn học và đời sống - hôm qua và hôm nay, Văn học (1).
96. Phong Lê (1990), Văn học học và hiện thực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn, HN.
98.Cao Tiến Lê (1985), Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay, Văn nghệ (15)
99. Nguyễn Văn Long (1985), Văn xuôi sau 1975 viết về cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Văn nghệ quân đội số ra tháng 4.
100. Nguyễn Văn Long (2001), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau
Cách Mạng Tháng 8, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
101. Nguyễn Văn Lưu (1996), Thử nhìn lại văn học Việt Nam sau 10 năm đổi
mới, Văn nghệ quân đội (6).
102. Phương Lựu (1991), Góp bàn với một số truyện viết về sự hy sinh mất

mát trong chiến tranh, Văn nghệ quân đội (7).
103. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam - Lê Ngọc Trà - La
17


Khắc Hoà - Thành Thế Thái Bình (1997), Lí luận văn học (Tái bản lần 1),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
104. Lê Lựu - Lê Lựu tự bạch (2001), Kỷ yếu các nhà văn quân đội, Nxb
Quân đội nhân dân.
105. Lê Lựu (1996), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
106. Lê Lựu (2000), Cần thống nhất quan niệm về tiểu thuyết, Tạp chí nhà
văn số 8.
107. Lê Lựu (2003), Tạp văn, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
108. Lê Lựu (2003), Sóng ở đáy sông, Nxb Hải Phòng.
109. Lê Lựu (2003), Chuyện làng Cuội, Nxb Văn học, Hà Nội..
110. Lê Lựu (2003), Thời xa vắng, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
111. Lê Lựu (2002), Bước đầu tập viết, Lê Lựu tạp văn, Nxb VHTT, Hà Nội.
112. Lê Lựu (2002), Tôi viết “Sóng ở đáy sông”, Lê Lựu tạp văn, Nxb
VHTT, Hà Nội.
113. Lê Lựu (2002), Vài lời về tiểu thuyết mấy năm qua, Lê Lựu tạp văn, Nxb
VHTT, Hà Nội.
114. Lê Lựu (2002), Về “Thời xa vắng”, Lê Lựu tạp văn, Nxb VHTT, HN.
115. Lê Lựu (2002), Vì sao tiểu thuyết mấy năm qua chưa hay, Lê Lựu tạp
văn, Nxb VHTT, Hà Nội.
116. Lê Lựu (2003) Mở rừng (tái bản), Nxb Thanh niên, Hà Nội.
117. Lê Lựu (2004) Đại tá không biết đùa, (tái bản) Nxb Hội nhà văn, HN.
118. Lê Lựu (2006) Hai nhà, tiểu thuyết, Nxb văn hoá thông tin, Hà Nội.
119. Thiếu Mai (1987), Nghĩ về một Thời xa vắng chưa xa, Văn nghệ QĐ (4).
120. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử,
Ngô Thảo(1987), Một thời đại văn học mới, NXB Văn học, Hà Nội.

121. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Một cuộc nhận đường mới, Văn học (4).
122. Lê Thành Nghị (1991), Qua những cuốn sách gần đây viết về chiến
18


tranh, Văn nghệ quân đội (52).
123. Lê Thành Nghị (1996), Tiểu thuyết viết về chiến tranh mấy ý nghĩ góp
bàn, 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
124. Phan Huy Nghiêm (1997), Thành công của tiểu thuyết về đề tài chiến
tranh trong 10 năm đổi mới văn học (1986 -1996), Luận văn Thạc sĩ, Trường
ĐHSP Tp. HCM.
125. Nguyên Ngọc (1990), Hội thảo tình hình văn xuôi hiện nay, Văn nghệ 15.
115. Nguyên Ngọc (1992), Văn học đổi mới và những bước đi hợp quy luật,
Văn nghệ (48).
126. Nguyên Ngọc (1988), Văn xuôi sau 1975 thử thăm dò đôi nét về quy luật
phát triển, Văn học (4).
127. Nguyên Ngọc, Bài thuyết trình tại trường Đại Học Diderot –PariVII, Văn
học Việt Nam đang ở đâu, tp://Perso.wanadoo.fr/iendan.
128. Lã Nguyên (1988), Văn học nghệ thuật trong bước ngoặt chuyển mình,
Tạp chí Văn học (4).
129. Phạm Xuân Nguyên (1991), Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết, Văn học
số 2.
130. Phạm Xuân Nguyên (1992), Văn học hôm nay có gì mới, Văn học (6).
131. Vương Trí Nhàn (1987), Một đóng góp vào việc nhận diện con người
Việt Nam hôm nay (Trở lại với tiểu thuyết "Thời xa vắng"), Văn nghệ (49-50).
132. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau CMT8, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
133. Nhiều tác giả (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi
mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

134. Nhiều tác giả: Lê Quang Trang- Nguyễn Trọng Hoàn (1996), Những vấn
đề văn hoá Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19


135. Võ Văn Nhơn (1998), Cảm hứng anh hùng và cảm hứng bi kịch trong
tiểu thuyết viết về chiến tranh xuất bản sau 1975, Bình luận văn học - Niên
giám 1997
136. Bảo Ninh (2005), Hiệu ứng thời xa vắng. Báo Văn nghệ trẻ, số 47- 2005.
137. Đỗ Hải Ninh (2006), Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới, Tạp chí Nghiên
cứu văn học số 7- 2006.
138. Huỳnh Như Phương (1991), Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ
hoá nền văn học, Văn học (4).
139. Huỳnh Như Phương (1993), Văn học đang nhìn lại chính mình, Văn học
số (1).
140. Huỳnh Như Phương (1983), Cảm hứng phê phán trong văn chương hiện
nay, Văn nghệ (24)
141. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn.
142. N.Poxpêlop (1998), (Trần Đình Sử dịch), Dẫn luận nghiên cứu văn học,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
143. Trần Thị Kim Soa (2002) Tiểu thuyết Lê Lựu thời kì đổi mới, Luận văn
thạc sĩ - ĐHSP Hà Nội.
144. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội.
145. Trần Đình Sử (1987), Tự sự học một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
146. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục
và Đại học, Hà Nội.
147. Trần Hữu Tá (1989), Về vấn đề định hướng của văn học trong tình hình
hiện nay, Văn học (5).
148. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, TP. HCM.

149. Nguyễn Đình Thi (1998), Chuyện văn - Chuyện đổi mới trong văn học,
Văn nghệ quân đội (11).
20


×