BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
LƯỜNG THỊ HOA
BIỆN PHÁP LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO
(4 - 5 TUỔI) THÔNG QUA CÁC BÀI ĐỒNG DAO
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
LƯỜNG THỊ HOA
BIỆN PHÁP LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO
(4 - 5 TUỔI) THÔNG QUA CÁC BÀI ĐỒNG DAO
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp phát triển ngôn ngữ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Khổng Cát Sơn
SƠN LA, NĂM 2016
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến Th.S Khổng Cát Sơn, người đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ chúng em trong suốt quá trình nghiên cứu để em
hoàn thành khóa luận.
Xin chân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo, Thư viện, Ban chủ
nhiệm Khoa Tiểu học - Mầm non Trường Đại học Tây Bắc, các ban ngành và
các bạn sinh viên lớp K53 ĐHGD Mầm non B đã tạo điều kiện cho em học tập
và nghiên cứu để hoàn thành khóa luận này.
Xin cảm ơn các cô giáo và các cháu mẫu giáo 4 - 5 tuổi Trường Mầm non
Hoa Hồng - Mai Sơn - Sơn La và Trường Mầm non Hoa Phượng - Chiềng Sinh Sơn La đã tạo điều kiện giúp đỡ để em hoàn thành khóa luận đúng thời gian.
Sơn La, tháng 05 năm 2016
Người thực hiện
Lường Thị Hoa
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
MGN : Mẫu giáo nhỡ
% : Phần trăm
MĐ : Mức độ
TĐ : Tổng điểm
ĐC : Đối chứng
TN : Thực nghiệm
TB : Trung bình
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 4
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 6
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu .................................................................. 6
6. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 6
7. Giả thuyết khoa học........................................................................................... 7
8. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 7
9. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 7
10. Cấu trúc đề tài ................................................................................................. 7
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ............................................................................... 9
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ......................................... 9
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 9
1.1.1. Cơ sở tâm lý học.......................................................................................... 9
1.1.2. Văn học đối với giáo dục trẻ mầm non ..................................................... 10
1.1.3. Đồng dao đối với việc giáo dục trẻ mầm non ........................................... 14
1.1.4. Vai trò của đồng dao đối với việc làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo nhỡ .. 20
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 21
1.2.1. Khảo sát điều tra ........................................................................................ 21
1.2.2. Phân tích kết quả điều tra .......................................................................... 22
Tiểu kết ................................................................................................................ 26
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP LÀM GIÀU VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO
NHỠ THÔNG QUA CÁC BÀI ĐỒNG DAO ................................................. 27
2.1. Biện pháp sưu tầm các bài đồng dao theo chủ đề dạy học ở trường mầm
non ....................................................................................................................... 27
2.2. Biện pháp đọc diễn cảm đồng dao kết hợp với đàm thoại, giảng giải nội dung ... 32
2.3. Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan (tranh ảnh, băng đĩa, video,…) ............... 35
2.4. Biện pháp cho trẻ sử dụng đồng dao khi tham gia các trò chơi ................... 39
2.4.1. Trò chơi với việc làm giàu vốn từ ............................................................. 39
2.4.2. Biện pháp cho trẻ sử dụng đồng dao khi tham gia các trò chơi ................ 41
2.5. Biện pháp chủ động sáng tạo ra “Đồng dao mới” ........................................ 43
2.5.1. Cần phải chủ động sáng tạo ra “Đồng dao mới” ....................................... 43
2.5.2. Chủ động sáng tạo ra “Đồng dao mới” ..................................................... 44
Tiểu kết ................................................................................................................ 47
CHƯƠNG 3: THỂ NGHIỆM SƯ PHẠM ....................................................... 48
3.1. Mục đích thể nghiệm .................................................................................... 48
3.2. Thời gian, đối tượng và địa bàn thể nghiệm ................................................ 48
3.3. Điều kiện và tiêu chí thể nghiệm.................................................................. 48
3.4. Nội dung thể nghiệm .................................................................................... 49
3.5. Kết quả thể nghiệm ...................................................................................... 49
Tiểu kết ................................................................................................................ 51
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 54
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân, có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và phát
triển nhân cách của con người. Giáo dục mầm non đặt nền móng cho sự phát
triển về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của trẻ em Việt Nam. Phát triển giáo
dục mầm non là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và toàn xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước.
Bước vào thế kỉ XXI, trước những yêu cầu mới của đất nước và của giáo
dục mầm non, chương trình chăm sóc - giáo dục mẫu giáo ở Việt Nam đã bộc lộ
một số hạn chế, bất cập về mục tiêu, nội dung, phương pháp chăm sóc - giáo dục
trẻ. Điều đó đòi hỏi chương trình cần có những cải tiến, đổi mới.
Nghị quyết lần thứ II - BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đã nêu rõ mục tiêu giáo dục của giáo dục Mầm non đến năm 2000 là
“Phát triển bậc mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của từng nơi. Bảo
đảm hầu hết trẻ 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo chuẩn bị vào lớp 1”.
Đồng thời, nghị quyết cũng đã chỉ rõ mục tiêu của giáo dục Mầm non đến năm
2020 là “Xây dựng và phát triển bậc học Mầm non cho hầu hết trẻ em trong độ
tuổi. Phổ biến kiến thức nuôi dạy trẻ trong các gia đình”.
Từ năm 1963, ngành Giáo dục mầm non đã có những chương trình thử
nghiệm nhằm đáp ứng được yêu cầu, mục tiêu cải cách chương trình giáo dục
mầm non. Năm 1966, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình Giáo dục
mầm non chính thức có nhiều môn học để giúp trẻ phát triển trên các lĩnh vực
như nhận thức, thể chất, đạo đức… Để đáp ứng những yêu cầu bức thiết của tình
hình mới, ngày 21/01/1978, Bộ Giáo dục và Đào tạo chính thức ban hành
“Chương trình giáo dục mẫu giáo” còn gọi là “Chương trình cải tiến” áp dụng
trên phạm vi cả nước. Lần này, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Giáo dục mầm non,
chủ trương đi sâu cải tiến rõ rệt nhận thức của ngành là phải có nội dung đào
tạo, giáo dục trẻ dựa trên những tri thức của môn học tự nhiên, xã hội, nghệ
1
thuật nhằm giáo dục trẻ em một cách toàn diện. Trong đó môn học Phương pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ được xem là phương tiện chính trong lĩnh vực phát
triển ngôn ngữ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
Cơ sở khoa học của việc đổi mới hoạt động giáo dục mầm non xuất phát từ
quan điểm “Trẻ em ở độ tuổi mẫu giáo đang trong thời kì tiền thao tác, các
chức năng sinh lý và tâm lý chưa phân hóa rõ rệt”. Do vậy, trẻ chưa lĩnh hội
kiến thức khoa học theo các môn học riêng biệt mà chỉ có thể tiếp nhận kiến
thức khoa học trong đó có văn học dưới hình thức tích hợp các môn học theo
từng chủ đề và chủ điểm. Hệ thống chủ đề thể hiện mục tiêu phát triển toàn diện
cho trẻ về nhận thức, thể lực, ngôn ngữ, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm xã hội.
“Văn học dân gian là nguồn suối không cạn của văn học dân tộc, nguồn
suối trong sạch đó là ngọn nguồn của sự sáng tạo mà mỗi con người đều tìm về
cội nguồn đó” [5.1]. Đặc biệt, đồng dao là món ăn tinh thần không thể thiếu đối
với trẻ thơ. Trong cuộc sống cũng như trong chương trình giáo dục ở nhà trường
mầm non, những bài đồng dao thường được trẻ tiếp nhận một cách hào hứng,
thích thú. Trẻ thường hát xướng lên các bài đồng dao trong những lúc vui chơi,
bản thân việc “đọc” đồng dao cũng là một hình thức chơi, những trò chơi dân
gian đó được nhiều trẻ yêu thích. Qua đó đồng dao góp phần phát triển thể chất,
cung cấp và trau dồi những kiến thức về thế giới xung quanh, nuôi dưỡng nhân
cách trẻ, mở ra cho trẻ một chân trời nghệ thuật ngôn từ, đem đến những xúc cảm,
tình cảm thẩm mỹ tốt đẹp.
Đối với trẻ mầm non, đồng dao có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và
phát triển nhân cách. Ngay từ thuở lọt lòng các trẻ đã được nghe những tiếng hát
ru ầu ơ của bà, mẹ và những người thân xung quanh. Rời khỏi lòng mẹ, đứa trẻ
theo anh, theo chị bước sang một môi trường văn hóa khác mang tính chất cộng
đồng, cùng chơi cùng hát những khúc đồng dao. Lúc này những khúc đồng dao
có thể coi như một sự tiếp nối những khúc hát ru để gắn bó đứa trẻ với gia đình,
làng xóm, quê hương, bạn bè. Nếu trước đây đứa trẻ chỉ biết tiếp nhận tiếng hát
ru của mẹ một cách thụ động thì nay đã có thể chủ động tìm trò để chơi, tìm câu
để hát và bước đầu làm quen với sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng. Có thể
2
nói những bài đồng dao là dòng sữa ngọt ngào thấm vào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ
thơ. Từ đó, giáo dục trẻ biết yêu cái đẹp, yêu quê hương, yêu cuộc sống của
mình. Nhà sư phạm Xukhômlinski đã tổng kết: “Tuổi thơ không thể thiếu âm
nhạc cũng không thể thiếu trò chơi và truyện cổ tích. Thiếu những cái đó trẻ em
chỉ là những bông hoa khô héo” [13.7]. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức đúng
đắn một thực tiễn rằng: hiện nay, cuộc sống phát triển theo hướng hiện đại hoá
mạnh mẽ đã tác động không nhỏ đến nhu cầu vui chơi, giải trí, nhu cầu thưởng
thức văn học, âm nhạc của trẻ. Phần lớn trẻ được tiếp xúc với những phương tiện,
thiết bị học, chơi hiện đại, tiện lợi và trở nên say mê chúng. Đối với các em,
những câu chuyện cổ tích, những bài đồng dao, những trò chơi dân gian đôi khi
nhạt dần tính hấp dẫn. Câu hỏi đặt ra cho các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ là
làm thế nào để lưu lại trong tâm hồn trẻ những nét đẹp, những giá trị độc đáo của
bản sắc văn hoá dân tộc? Làm thế nào để cuốn hút trẻ tham gia vào việc giao tiếp
trong môi trường của văn hoá, văn học dân gian để các em biết và yêu một nền
nghệ thuật dân tộc? Vấn đề mang tính tầm vóc nhưng không phải chỉ được giải
quyết trên tầm vĩ mô. Nó bắt đầu từ chính những việc cụ thể, thiết yếu nhất.
Chẳng hạn, dạy cho trẻ biết đọc, biết hát đồng dao, biết chơi và yêu thích
các trò chơi dân gian. Chính vì những lý do trên mà việc đưa các tác phẩm đồng
dao vào chương trình giáo dục mầm non và quan tâm đến các phương pháp dạy
đồng dao cho trẻ là hết sức cần thiết.
Lứa tuổi 4 - 5 tuổi là giai đoạn mà khả năng ngôn ngữ của trẻ phát triển,
cuối 4 tuổi trẻ đã bắt đầu kết nối giữa tình huống hiện đại và quá khứ thành một
“văn cảnh”. Đã hình thành những cảm xúc ngôn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu,
âm tiết… tuy nhiên dưới tác động của cảm xúc trẻ có thể nghe nhầm, phát âm
nhầm. Vì vậy việc dạy trẻ tăng số lượng từ trong các trường nghĩa để có điều
kiện lựa chọn là việc hết sức cần thiết. Việc dạy trẻ nhằm tăng số lượng từ trong
các trường nghĩa để có điều kiện lựa chọn là việc hết sức cần thiết. Nếu vốn từ ít
thì khả năng lựa chọn sẽ bị hạn hẹp và hiệu quả dùng từ sẽ giảm, số lượng từ đó
cũng chưa đủ để trẻ thể hiện được chính xác những nội dung phức tạp, tinh tế
3
mà cuộc sống đòi hỏi. Chính vì vậy cần có kế hoạch để vừa làm tăng chất lượng
sử dụng từ vừa mở rộng vốn từ cho trẻ.
Xuất phát từ những lí do trên, người viết đã chọn nghiên cứu đề tài: “Biện
pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo (4 - 5 tuổi) thông qua các bài đồng
dao” nhằm tìm hiểu vai trò vị trí quan trọng của đồng dao đối với việc làm giàu
vốn từ cho trẻ ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ; từ đó đề xuất một số biện pháp cơ bản
làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo nhỡ qua các bài đồng dao.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua quá trình tìm hiểu về sự tác động của đồng dao trong việc làm giàu
vốn từ cho trẻ mẫu giáo (4 - 5 tuổi) và xây dựng một số biện pháp phát triển vốn
từ cho trẻ mẫu giáo nhỡ thông qua các bài đồng dao tác giả đã tiếp cận với một số
công trình nghiên cứu trong cũng như ngoài nước. Ở những công trình này, theo
những mục đích nghiên cứu khác nhau, người viết nhận thấy các tác giả chủ yếu
quan tâm đến những vấn đề khái quát về đồng dao hoặc vai trò của ca đồng dao
đối với đời sống tinh thần của trẻ em chứ chưa đi sâu nghiên cứu tác động đặc
biệt của đồng dao đối với việc phát triển vốn từ ở trẻ lứa tuổi mầm non, từ đó đưa
ra các biện pháp cụ thể để phát triển vốn từ cho trẻ thông qua các bài đồng dao.
Ngôn ngữ là tài sản quý báu của văn minh nhân loại. Ngôn ngữ là điểm mốc
then chốt giúp cho nhiều công trình nghiên cứu được tỏa sáng. Không những
vậy ngôn ngữ có sức hút mạnh mẽ, lôi cuốn sự tham gia nghiên cứu của rất
nhiều nhà khoa học, từ những lĩnh vực khác nhau: Triết học, tâm lí học, ngôn
ngữ học, giáo dục học, xã hội học,… vai trò phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ lâu
được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến
các tác giả như:
Borodis.A.M với cuốn: Phương pháp phát triển tiếng cho trẻ em.
Xôkhin với tác phẩm: Phương pháp phát triển lời nói trẻ em.
E.Ti.Khêiva với tác phẩm: Phát triển ngôn ngữ trẻ em.
Các tác giả: Phedorenco.L.P, Phomitreva.G.A, Lomarep.V.K cũng có những
cuốn sách tương tự.
4
Ngay từ những năm 80 của thế kỉ trước, chúng ta đã có những cuốn giáo
trình đầu tiên về phương pháp phát triển lời nói trẻ em trong các trường đào tạo
giáo viên mầm non:
Phan Thiều với cuốn: Dạy nói cho trẻ trước tuổi cấp 1
Hay nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa (1997) về: Phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ Mẫu giáo (0 - 6 tuổi).
Các tác phẩm trên đều đề cập đến nội dung và các phương pháp nhằm hình
thành và phát triển vốn từ ngữ cho trẻ. Đây chính là cơ sở, là tiền đề cho các nhà
khoa học sau này nghiên cứu, tìm tòi, khám phá về vấn đề ngôn ngữ của trẻ.
Về đồng dao, một số công trình nghiên cứu từ việc sưu tầm tư liệu đồng dao
dành cho trẻ em đã đi vào nghiên cứu ý nghĩa giáo dục của thể loại này đối với
trẻ em như cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt Nam của Nguyễn Thúy
Loan, Trò chơi dân gian cho trẻ em dưới 6 tuổi của Trương Kim Oanh, Lời đồng
dao trong trò chơi cổ truyền của trẻ em của Phan Đăng Nhật (1992). Các công
trình này đều đi đến kết luận đồng dao có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ em. Trong bài Ca dao và viết cho
thiếu nhi tác giả Trần Đức Ngôn, Dương Thu Hương đã khẳng định: “Ca dao là
đại bộ phận dành cho người lớn tuy nhiên tác giả dân gian khi sáng tác ca dao
vẫn không quên trách nhiệm đối với thế hệ trẻ nên đã dành trọn một phần ca
dao cho các em được gọi là đồng dao” [8.76]. Cuốn Đồng dao với tuổi thơ tác
giả đã đề cập đến chức năng giáo dục của đồng dao với trẻ em “Đồng dao có tác
dụng mạnh đối với trẻ em trước hết là nó giáo dục thái độ văn hóa đối với hai
mối quan hệ chủ yếu của con người đó là con người với thiên nhiên và con
người với xã hội”. Đây là những vấn đề hết sức quan trọng đối với sự hình
thành, phát triển nhân cách con người [11.122.123].
Qua khảo cứu các bài viết, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
người viết đã nhận thấy như sau:
Các công trình nghiên cứu đã đánh giá căn bản về vai trò của đồng dao đối
với trẻ em. Những đánh giá này cho thấy sự cần thiết đưa các bài đồng dao còn
giá trị vào chương trình giáo dục trẻ ngay từ bậc học mầm non.
5
Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu riêng về phương pháp
làm giàu vốn từ cho trẻ mầm non thông qua các bài đồng dao. Nhận ra khoảng
trống đó người viết tiến hành nghiên cứu đề tài: Biện pháp làm giàu vốn từ cho
trẻ mẫu giáo (4 - 5 tuổi) thông qua các bài đồng dao.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của các môn khoa học liên quan đến đề tài: Tâm lý học,
Giáo dục học, Văn học… và xuất phát từ tình hình thực tế về việc dạy đồng dao
cho trẻ mầm non người viết tiến hành nghiên cứu và xây dựng Biện pháp làm
giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo (4 - 5 tuổi) thông qua các bài đồng dao.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Xây dựng một số biện pháp nhằm nâng cao vốn từ cho trẻ mẫu giáo (4 - 5
tuổi) thông qua các bài đồng dao.
Tổ chức thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi của các biện pháp.
Xử lí kết quả nghiên cứu.
5. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo (4 - 5 tuổi) thông qua các bài
đồng dao.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Nhóm trẻ 4 - 5 tuổi của trường Mầm non Hoa Hồng - Mai Sơn - Sơn La.
Nhóm trẻ 4 - 5 tuổi của trường Mầm non Mầm non Hoa Phượng - Chiềng
Sinh - Sơn La.
6. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn và khuôn khổ đề tài, người viết
chỉ tiến hành nghiên cứu các biện pháp giúp trẻ mẫu giáo nhỡ làm giàu vốn từ
thông qua các bài đồng dao (ở đây là những bài ca đồng dao quen thuộc, gần
gũi, phù hợp với tâm lý và trình độ tiếp nhận của trẻ mẫu giáo nhỡ).
6
7. Giả thuyết khoa học
Trên thực tế, đồng dao chưa được chú trọng đúng mức và giảng dạy đúng
hướng, sáng tạo để giúp trẻ mẫu giáo nhỡ làm giàu vốn từ, tiếp nhận một cách
có hiệu quả thể loại văn học dân gian này. Nếu các biện pháp tác giả đưa ra được
áp dụng một cách triệt để sẽ góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của việc
dạy đồng dao.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài; hệ thống hóa các vấn đề khái
quát trong tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp quan sát.
8.2.2. Phỏng vấn, trao đổi với giáo viên, học sinh.
8.2.3. Sử dụng phiếu điều tra.
8.2.4. Phân tích, tổng hợp.
9. Đóng góp của đề tài
Sự thành công của đề tài sẽ bổ sung một số biện pháp làm giàu vốn từ cho
trẻ mẫu giáo (4 - 5 tuổi) thông qua các bài đồng dao. Đề tài hoàn thành sẽ được
lưu trữ tại thư viện trường Đại học Tây Bắc, là tài liệu tham khảo cho sinh viên
chuyên ngành Mầm non khoa Tiểu học - Mầm non và những người quan tâm
đến vấn đề này.
10. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo nội dung của
khóa luận gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.2. Cơ sở lý luận
1.2. Cơ sở thực tiễn
Chương 2: Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho trẻ mẫu giáo (4 - 5 tuổi)
thông qua các bài đồng dao.
7
2.1. Biện pháp sưu tầm các bài đồng dao ca theo chủ đề dạy học ở trường
mầm non
2.2. Biện pháp đọc diễn cảm đồng dao kết hợp với đàm thoại, giảng giải nội dung
2.3. Biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan (tranh ảnh, băng đĩa, video,…)
2.4. Biện pháp hướng dẫn trẻ sử dụng đồng dao khi tham gia các trò chơi
2.5. Biện pháp chủ động sáng tạo ra “Đồng dao mới”
Chương 3: Thể nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích thể nghiệm
3.2. Thời gian đối tượng và địa bàn thể nghiệm
3.3. Điều kiện và tiêu chí thể nghệm
3.4. Nội dung thể nghiệm
3.5. Kết quả thể nghiệm
8
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở tâm lý học
Nhân cách hình thành trong suốt thời kỳ ấu thơ và niên thiếu của con
người. Trong đó, với điều kiện phát triển bình thường thì bước vào năm tuổi thứ
ba ý thức bản ngã bắt đầu nảy sinh và đến đầu tuổi thanh niên thì nhân cách của
con người cơ bản được hình thành. Giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành
nhân cách con người là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ mẫu giáo. Ở độ
tuổi mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi), nhân cách của trẻ tiếp tục hình thành và phát triển
mạnh mẽ với những đặc điểm nổi bật sau:
Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng để giúp trẻ điều chỉnh hành vi của
mình cho phù hợp với chuẩn mực của quy tắc xã hội. Đồng thời, ý thức bản ngã
còn cho phép trẻ thực hiện các hoạt động một cách chủ quan. Nhờ đó, quá trình
tâm lý mang tính chủ động rõ rệt. Cuối tuổi mẫu giáo, ngôn ngữ của trẻ có tốc
độ phát triển nhanh về số lượng và chất lượng. Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ biết
tự giác hướng sự chú ý của mình vào đối tượng nhất định. Cho nên, mỗi một đối
tượng được tiếp nhận trong thời kỳ này đều có tác động sâu sắc đối với sự phát
triển nhân cách và trí tuệ của trẻ.
Sức tưởng tượng, khả năng ghi nhớ của trẻ mẫu giáo nhỡ ngày càng có
tính chủ định so với trẻ ở lứa tuổi nhỏ hơn. Trong sự phát triển các hoạt động ý
chí của trẻ mẫu giáo nhỡ có thể thấy được liên kết chặt chẽ giữa ba mặt; thứ nhất
là sự phát triển tính mục đích của hành động; thứ hai là sự xác lập mối quan hệ
giữa hành động và động cơ; thứ ba là tăng vai trò điều chỉnh của ngôn ngữ trong
việc thực hiện hành động.
Giai đoạn 4 - 5 tuổi ở giai đoạn này trẻ có sự hình thành tâm lý rõ ràng, có
sự phát triển vượt bậc so với lứa tuổi 2 - 3 tuổi. Giai đoạn trẻ 3 tuổi có sự hình
thành tâm lý, cá tính riêng của từng trẻ, sang 4 tuổi cá tính đó trở nên khá ổn
định dần thành cá tính riêng của một của người hoàn thiện.
9
Tóm lại, lứa tuổi mầm non, nhất là độ tuổi 4 - 5 là lứa tuổi rất nhạy cảm
với cái đẹp và luôn khao khát được tiếp xúc, khám phá cái đẹp phong phú, đa
dạng trong cuộc sống. Đồng dao là một thể loại văn học dân gian có khả năng
đáp ứng nhu cầu này của trẻ. Tuy nhiên, trẻ lứa tuổi mầm non thường hát xướng
lên các bài đồng dao trong những lúc vui chơi đơn thuần chỉ để giải trí, mà chưa
phát huy hết được vai trò to lớn của chúng trong việc phát triển ngôn ngữ đặc
biệt là việc làm giàu vốn từ. Có nhiều trẻ hát, đọc các bài đồng dao thuộc lòng
mà không hiểu nội dung ý nghĩa của các từ ngữ trong các bài đồng dao đó.
Chính vì vậy, các cô giáo mầm non đều cần phải hiểu những đặc điểm
tâm lý rất cơ bản của trẻ, có như thế thì mới có thể phát huy được sức mạnh của
văn học nói chung, đồng dao nói riêng trong việc giáo dục trẻ thơ.
1.1.2. Văn học đối với giáo dục trẻ mầm non
1.1.2.1. Đặc điểm tiếp nhận văn học của trẻ mầm non
Tiếp nhận văn học gián tiếp: Ở lứa tuổi 4 - 5, trẻ chưa biết đọc mà mới chỉ
dừng lại ở việc nhận biết chữ cái nên việc cảm thụ tác phẩm văn học chủ yếu
qua khâu trung gian là cô giáo. Với tư cách là người đọc trực tiếp rồi đọc, kể lại
cho trẻ nghe, cô giáo là người giúp trẻ tiếp cận với tác phẩm, hiểu nội dung, ý
nghĩa của tác phẩm, có những ấn tượng sâu đậm về thế giới nghệ thuật của tác
phẩm văn học.
Cảm nhận văn học mang đậm màu sắc xúc cảm: Tuổi mẫu giáo là thời kỳ
nhạy cảm với những “cái đẹp”. Có thể coi đây là thời kỳ phát triển đầy mới mẻ
và mạnh mẽ của những xúc cảm thẩm mỹ đối với thế giới xung quanh. Khác với
người lớn, sự tiếp nhận văn học vừa mang tính cảm xúc vừa chịu sự chi phối của
lí tính, trẻ em tiếp nhận văn học hoàn toàn cảm tính. Khi nghe cô giáo đọc thơ
hay kể chuyện, trẻ tập trung cao độ vào giọng đọc, kể cũng như cử chỉ, nét mặt,
cảm xúc của cô giáo rồi dần biến thành cảm xúc của mình. Trẻ thích thú với
những câu chuyện vui, xúc động với những câu chuyện buồn. Trẻ cũng nhăn
mặt khi nghe kể về những nhân vật độc ác, mỉm cười khi nghe kể về những nhân
vật ngốc nghếch, có những hành động hài hước; có khi trầm tư suy nghĩ, lo âu,
hồi hộp muốn biết tình huống tiếp theo xảy ra như thế nào.
10
Tiếp nhận văn học ít bị ràng buộc bởi lý trí và kinh nghiệm mà chứa đựng
khả năng tưởng tượng mạnh mẽ: “Đối với trẻ em, những gì làm xúc động mạnh
mẽ là phương tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng và tính nhạy cảm phải
hoạt động” [1.14]. Giàu tưởng tượng là thuộc tính của trí tuệ, gắn liền với năng
lực hiểu biết của trẻ. Trong quá trình quan sát, trẻ hấp thụ những ấn tượng từ
thực tại, cải biến chúng và tạo ra một cách hiểu, cách cảm thụ đầy đủ và sâu sắc
hơn trong nhận thức của mình. Trí tưởng tượng được trẻ vận dụng trong tiếp
nhận văn học là để đi sâu, mở rộng và thanh lọc đời sống cảm xúc của mình,
nhận ra cái mới trong mối quan hệ tưởng như khó gắn kết lại. Qua đó làm nảy
sinh khát vọng và khả năng sáng tạo của trẻ khi tiếp xúc tác phẩm văn học.
Cảm nhận văn học ngây thơ và triệt để: Tiếp nhận ngây thơ đối với tác
phẩm văn học vì trẻ còn rất ít vốn kiến thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực
tiễn. Nên những gì được nói đến trong trang sách đều được trẻ tin tưởng tuyệt đối.
Trẻ cũng tiếp nhận triệt để tác phẩm văn học vì trong chương trình giáo dục mầm
non văn học và âm nhạc là những bộ môn được đưa vào sớm nhất để giáo dục trẻ.
Nên lượng tri thức có trong các tác phẩm văn học được lựa chọn giới thiệu cho trẻ
được trẻ tiếp nhận một cách triệt để nhằm hình thành và phát triển trí tuệ, tâm
hồn, tình cảm...
1.1.2.2. Văn học đối với giáo dục trẻ mầm non
Nhu cầu thưởng thức văn học của trẻ mầm non: Ngay từ thuở ấu thơ, trẻ
em đã được tiếp xúc với văn học, qua lời hát ru của bà, của mẹ, qua những câu
chuyện kể về thế giới thần tiên, qua những vần thơ chứa bao điều kì diệu về
cuộc sống xung quanh... rất tự nhiên, văn học thấm sâu vào tâm hồn các em. Và
nghe hát ru, nghe kể chuyện, đọc thơ trở thành một trong những nhu cầu cần
thiết đối với cuộc sống của trẻ. Khi trẻ đến trường, việc giới thiệu văn học cho
trẻ được nâng lên một vị trí cao hơn, với một mục tiêu rõ ràng và phương pháp
bài bản hơn. Điều đó càng khiến cho văn học trở thành một món ăn tinh thần
không thể thiếu của trẻ.
Văn học đối với việc giáo dục trẻ mầm non: Trong số các loại hình nghệ
thuật, văn học là loại hình nghệ thuật đặc biệt, có vai trò to lớn không gì thay thế
11
được trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ em. Nhà
phê bình văn học Nga V.G.Bielinxki từng nói: “Một tác phẩm viết cho thiếu nhi
là để giáo dục mà giáo dục là một sự nghiệp vĩ đại vì nói quyết định số phận con
người” [15.79]. Là loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học có khả năng đi vào
lòng người một cách tự nhiên và sâu sắc. Đối với trẻ em, văn học nói chung, các
tác phẩm văn học thiếu nhi nói riêng càng có khả năng tác động trực tiếp, sâu
sắc tới đời sống tâm hồn của trẻ.
Việc cho trẻ em lứa tuổi mầm non làm quen với tác phẩm văn học từ lâu
đã được đặt ra như một nội dung vô cùng quan trọng trong chương trình giáo
dục mầm non. Văn học đóng vai trò là phương tiện, đồng thời cũng mang các
nội dung nhằm:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non: Phát triển ngôn ngữ là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu trong giáo dục mầm non, đặc biệt là giáo dục mẫu giáo.
Bởi lẽ ngôn ngữ gắn liền với tư duy, nếu trẻ không được trang bị một vốn ngôn
ngữ nhất định, trẻ không thể tăng cường, rèn luyện khả năng tư duy khoa học,
chuẩn bị cho việc theo học ở trường phổ thông sau này. Các sáng tác văn học có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển và làm phong phú ngôn ngữ cho trẻ.
Bằng các hình tượng nghệ thuật, văn học mở ra và giải thích cho trẻ cuộc sống xã
hội và thiên nhiên, thế giới tình cảm và các quan hệ qua lại của con người. Nó làm
phong phú những xúc cảm, phát triển trí tưởng tượng và đưa đến cho trẻ những
hình tượng tuyệt diệu của ngôn ngữ dân tộc. Đồng thời, vốn ngôn ngữ được sử
dụng một cách nghệ thuật trong các tác phẩm cũng giúp trẻ thành thạo các phát âm,
mở rộng vốn từ, đặc biệt là từ ngữ sử dụng theo phong cách nghệ thuật; giúp trẻ
phát triển lời nói mạch lạc, nâng cao khả năng diễn đạt (diễn đạt vấn đề một cách
sinh động, giàu hình ảnh, giàu tính tạo hình và tính biểu cảm).
Phát triển nhận thức cho trẻ mầm non: Cũng như hầu hết các nội dung giáo
dục khác trong chương trình giáo dục mầm non, phát triển nhận thức cho trẻ có
vị trí hết sức quan trọng và cần thiết. Mục tiêu mở rộng và nâng cao nhận thức
cho trẻ mầm non được thực hiện thông qua nhiều hoạt động khác nhau. Hoạt
động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là một hoạt động hữu hiệu giúp trẻ
12
mở rộng, nâng cao nhận thức về cuộc sống xung quanh. Những bài thơ, những
câu chuyện đã giúp các trẻ mở rộng tầm nhìn và sự hiểu biết về thế giới tự
nhiên, thế giới động vật, thực vật…; giúp trẻ biết được tên gọi, những đặc tính,
những quan hệ và những ý nghĩa của chúng đối với con người; giúp trẻ hiểu biết
về cuộc sống của con người và những điều cơ bản trong mối quan hệ giữa con
người với con người... Có thể nói, với chức năng phản ánh cuộc sống, văn học
thiếu nhi như “những cuốn sách giáo khoa” đầu tiên giúp trẻ nhận thức và hiểu
biết về thế giới xung quanh.
Phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non: Văn học luôn đem đến cho trẻ những
hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng; gợi mở trong các em những xúc cảm thẩm mỹ tốt đẹp,
hình thành thị hiếu thẩm mỹ đúng đắn. Tiếp xúc với tác phẩm văn học là các em
được tiếp xúc với cả một thế giới bao la đầy âm thanh và màu sắc với những hình
ảnh đẹp đẽ, sinh động, muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên và cuộc sống. Trẻ em
lứa tuổi mầm non có một đời sống tâm hồn ngây thơ, chưa có những trải nghiệm
cá nhân, sự nhận thức về thế giới xung quanh chủ yếu dừng ở mức cảm tính, gắn
với cái cụ thể trước mắt. Chính vì thế, vẻ đẹp lấp lánh của ngôn từ nghệ thuật và
sức tưởng tượng phong phú của các nhà văn trong tác phẩm văn chương là cơ sở
để khơi gợi trong tâm hồn các em những rung cảm thẩm mỹ đẹp đẽ và sâu sắc.
Phát triển tình cảm xã hội cho trẻ mầm non: Trẻ thơ rất nhạy cảm, dễ rung
động. Các em chủ yếu sống và cư xử với tất cả các đối tượng xung quanh bằng
tình cảm. Đặc biệt, trẻ khác với người lớn ở chỗ thường bộc lộ thái độ trước một
hiện tượng, một sự việc trong cuộc sống một cách rõ ràng: yêu - ghét, vui - buồn,
thích - không thích... Vì vậy, giáo dục lòng nhân ái cho con người hữu hiệu nhất
là bắt đầu giáo dục lòng nhân ái cho trẻ thơ. Một trong những phương tiện giáo
dục đạo đức cho trẻ có giá trị độc đáo là văn học. Những bài học đạo đức, nhân
văn được gửi gắm trong thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm sẽ tác động
một cách tự nhiên mà sâu sắc đến tình cảm của trẻ. Một tấm gương về lòng hiếu
thảo, về tình yêu thương và ý thức trách nhiệm đối với người thân, đối với mọi
người xung quanh sẽ cho các bé bài học quý giá về nhân cách làm người. Từ đó
hình thành ở trẻ một đời sống tình cảm phong phú, nhạy bén, tinh tế.
13
Phát triển thể chất cho trẻ mầm non: Văn học ngoài chức năng phục vụ nhu
cầu học tập của các em, còn là yếu tố hữu cơ của các trò chơi sinh hoạt, đưa trẻ
vào thế giới của trò chơi nhẹ nhàng, có nhịp điệu làm cho trò chơi trở nên hấp
dẫn. Từ đó phát triển ở trẻ thể chất khỏe mạnh, linh hoạt. Khi trẻ chơi chính là lúc
các vận động cơ được phát triển, khả năng tai nghe cũng được vận dụng linh hoạt
gợi ra những phản ứng vận động của cơ thể (thay đổi nhịp tim mạch, sự tuần hoàn
máu, hô hấp và dãn nở cơ). Trong khi chơi, trẻ không những phối hợp các động
tác đi lại vững vàng chạy nhảy nô đùa mà còn có những động tác khó: lộn cầu
vồng, nhảy lò cò… Nhưng trẻ vẫn kết hợp tay chân một cách nhịp nhàng.
Qua văn học trẻ, không chỉ được học một cách thuần túy mà còn được chơi
được vận động, kết hợp nhịp nhàng giữa chân và tay. Vì thế sự định hướng trong
không gian, sự lôgic ngôn ngữ bên trong với động tác bên ngoài càng hoàn
thiện, giúp trẻ phát triển cân đối hài hòa, có đủ sức khỏe, là yếu tố ảnh hưởng
đến sự phát triển trí tuệ của trẻ.
1.1.3. Đồng dao đối với việc giáo dục trẻ mầm non
1.1.3.1. Một số vấn đề chung về đồng dao
Gắn liền với những kỉ niệm sâu sắc về thời thơ ấu của mỗi người dân Việt
Nam không chỉ có những bài hát ru, mà còn có những bài hát do chính các em
hát. Đó là những bài “hát vui chơi”. Nội dung những bài hát vui chơi là những
nhận xét, những ý nghĩa và cảm xúc ngây thơ về thế giới tự nhiên, về đời sống
con người và đời sống xã hội.
1. Sáng thức dậy,
Lấy bàn chải
Bé đánh răng
Rồi lấy khăn
Bé rửa mặt
Vào ăn sáng
Thật khẩn trương
Bé đến trường
Cùng với chị
14
Để ba, mẹ
Đi làm ca
Nắng chan hòa
Theo chân bé.
2. Con mèo mà trèo cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đường xa,
Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo.
Thuở ban đầu, đồng dao chỉ được truyền miệng, nhưng nhờ ngắn gọn
đơn giản ba, bốn hoặc năm chữ, có khi ngô nghê, nhưng vần điệu tiết tấu nhịp
nhàng nên rất dễ hiểu dễ nhớ. Về sau, rất nhiều bài đồng dao được đặt nhạc nên
được phổ biến rộng rãi.
1. Nhong nhong nhong nhong
Ngựa ông đã về
Cắt cỏ bồ đề
Cho ngựa ông ăn
Nhong nhong nhong nhong.
2. Một ngón tay nhúc nhích này/ một ngón tay nhúc nhích này
Một ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy
Hai ngón tay nhúc nhích này/ hai ngón tay nhúc nhích này
Hai ngón tay nhúc nhích cũng đủ cho ta vui vầy.
Những bài hát vui chơi của trẻ em có khi gắn liền với những trò chơi nhất
định, cho nên trong những trường hợp ấy còn gọi là những “bài hát trò chơi”.
Những bài hát trò chơi, hay những “trò chơi có bài hát” là một sinh hoạt của các
em. Cho nên đây là một trong những bộ phận tại thành cái mà chúng ta gọi là
“văn học dân gian thiếu nhi”.
1.1.3.2. Đồng dao đối với việc giáo dục trẻ mầm non
Đồng dao là những câu vè, ngắn gọn có vần điệu nhịp điệu được trẻ con
thích và hát trong khi chơi, trong sinh hoạt cộng đồng [13.30].
15
Ngày xưa ở trong các gia đình đứa con từ lọt lòng đến 3 tuổi được trực
tiếp hưởng thụ tiếng hát ru khi nằm trong lòng mẹ. Nhưng từ 3 tuổi trở đi phần
lớn đứa con không còn trực tiếp hưởng thụ tiếng hát ru, lời nói nựng của mẹ
nữa. Rời khỏi lòng mẹ, đứa trẻ theo anh, theo chị bước sang một môi trường văn
hóa khác mang tính chất cộng đồng, cùng chơi cùng hát những khúc đồng dao.
Lúc này những khúc đồng dao có thể coi như một sự nối tiếp những khúc hát ru
để gắn bó đứa trẻ với gia đình, làng xóm, quê hương, bạn bè. Nếu trước đây đứa
trẻ tiếp nhận tiếng hát ru của mẹ một cách thụ động thì nay đã có thể chủ động
tìm trò để chơi, tìm câu để hát và bước đầu làm quen với sinh hoạt văn hóa
mang tính cộng đồng.
Đặc điểm của đồng dao:
Thứ nhất: Đặc điểm của đồng dao dễ nhận ra trước tiên là có vần điệu rõ
ràng nên dễ thuộc, dễ hát:
Mèo già ăn trộm
Mèo ốm phải đòn
Mèo con phải vạ
Con quạ đứt cành
Đòn gánh có mấu
Củ ấu có sừng
Bánh chưng có lá
Con cá có vây.
Những câu trong bài đồng dao thường lặp đi lặp lại theo chu kì một
cách tự nhiên:
Bồ các là bác chim ri
Chim ri là dì sáo sậu
Sáo sậu là cậu sáo đen
Sáo đen là em tu hú
Tu hú là chú bồ các.
Rồi lại:
Bồ các là bác chim ri
(Quay đi quay lại nhiều lần)
16
Thứ hai: Ngôn ngữ đồng dao nhiều khi kì quặc chắp vá một cách ngẫu nhiên:
phần lớn gần như chỉ là những đoạn chắp vá, gặp đâu nói đó, cốt cho vần vè,
còn ý nghĩa chung thì rời rạc, câu nọ xọ sang câu kia, đang nói chuyện này bắt
sang chuyện khác.
Nu na nu nống
Cái cống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Phật ngồi phật khóc
Con cóc nhảy ra…
Thứ ba: Lôgic của đồ ng dao chính là lôgic của trò chơi, không thể bắ t nó phải
tuân theo lôgic của hiê ̣n thực. Chiń h cái ngôn ngữ kỳ quă ̣c theo lố i tư duy nhảy
cóc đó la ̣i là yế u tố gắ n bó với trò chơi để đưa trẻ vào thế giới trò chơi, khác hẳ n
với thế giới bên ngoài. Nế u đồ ng dao đươ ̣c tổ chức chă ̣t chẽ như mô ̣t bài dân ca,
như mô ̣t bài thơ thì yế u tố trò chơi, nhấ t là trò chơi trẻ em không còn nữa.
Trời làm một trận mưa rào
Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô
Thóc giống đuổi chuột trong bồ
Đong đong cân cấn đuổi bò ngoài ao…
Hay:
Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
Những đặc điểm đó của đồng dao rất gần với đặc điểm của trò chơi. Do
đó người ta coi đồng dao như trò chơi, nó thể hiện đặc tính ngộ nghĩnh của trẻ
nhỏ nên được các em ưa thích.
Nội dung của đồng dao:
Tuy ý nghĩa của nhiều câu đồng dao có khi không rõ ràng, thậm chí vô
nghĩa, nhưng không phải vì thế mà đồng dao không có nội dung gì. Thực ra nội
17
dung của đồng dao rất phong phú, nó phản ánh nhiều mặt của cuộc sống mà chủ
yếu là ở nông thôn.
Rất nhiền bài đồng dao phản ánh những hiện tượng trong thiên nhiên hết
sức phong phú giúp trẻ hiểu, gắn bó với môi trường xung quanh:
Mây kia sinh ở đằng đông
Mây hóa ra rồng mây hiện ra mưa
Có khi mây kéo như cờ
Mây phẳng như tờ mây lại kéo sang
Có khi mây đỏ mây vàng
Mây xanh mây tím ngổn ngang đầy trời.
Tiếng con chim ri gọi dì gọi cậu
hay:
Tiếng con sáo sậu gọi cậu gọi cô
Tiếng con cồ cồ gọi cô gọi chú
Tiếng con tu hú gọi chú gọi dì
Mau mau tỉnh dậy mà đi ra đồng.
Đồng dao phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người đầy xúc
cảm yêu thương, sâu nặng tình người, thường là thông qua thân phận của cái
tôm cái tép, con cò con vạc, cái bống cái bang, bằng con mắt nhân cách hóa của
trẻ thơ.
Cái cò đi đón cơn mưa
Tối tăm mù mịt ai đưa cò về
Cò về thăm quán cùng quê
Thăm cha thăm mẹ, cò về thăm anh.
hay:
Cái bống là cái bống bang
Thổi cơm nấu nước cả nhà cùng ăn
Nhà bống có khách sang chơi
Cơm bưng nước rót cho vui lòng bà.
Chức năng của đồng dao:
Dùng để ru trẻ em: Ru trẻ ngủ chủ yếu là nhiệm vụ của những người mẹ,
người bà, nhưng ở nông thôn những đứa trẻ là anh, là chị trong gia đình cũng có
18
nhiệm vụ ru em bé ngủ khi người lớn vắng nhà. Những lời đồng dao nghe rất
ngô nghê, nhưng với giai điệu hát ru, trẻ nhỏ cũng đưa em bé của mình vào giấc
ngủ ngon lành:
Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về
Bắt được con trắm con trê
Buộc cổ lôi về cho cái ngủ ăn
hay: Em tôi buồn ngủ buồn nghê
Con tằm đã chín con dê đã mùi
Con tằm để lại mà nuôi
Con dê đã mùi làm thịt em ăn
Dùng trong khi chơi: Nhân dân ta có một kho tàng trò chơi dân gian hết sức
phong phú mà điều đặc biệt thú vị là phần lớn trò chơi đều đi kèm với lời đồng dao
rất ngộ nghĩnh làm tăng thêm sự cuốn hút của trò chơi đối với trẻ em.
Những trò chơi đó được truyền tụng từ đời này sang đời khác cho đến ngày
nay, như trò chơi “Kéo cưa lừa xẻ”, “Chi chi chành chành”, “Rồng rắn lên mây”,
“Trồng nụ trồng hoa”, “Thả đỉa ba ba”...
Tác dụng của đồng dao: Đồng dao có tác động giáo dục mạnh mẽ đối với
trẻ em, trước hết là nó giáo dục thái độ văn hóa đối với hai mối quan hệ chủ yếu
của con người: con người - thiên nhiên, con người - xã hội.
Giáo dục tình đối với thiên nhiên: Đồng dao gợi nên ở các em nhỏ tình
yêu hồn nhiên đối với cái ong cái kiến, con cò con vạc, con trâu con nghé; cây
cỏ, chim chóc qua các bài gọi nghé của trẻ mục đồng, qua những bài giới thiệu
các loài chim muông, hoa quả,…
Giáo dục lòng nhân ái: Đồng dao gợi lên ở trẻ tình yêu đối với ông bà,
cha mẹ, bà con xóm làng; đồng cảm với những người có cảnh ngộ éo le, sẵn
lòng giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật. Có thể nói là đồng dao là những
bài học đạo đức rất nhẹ nhàng mà hấp dẫn đối với các em nhỏ.
Nhưng nhiều hơn hết đồng dao với tính hài hước của nó đã mang lại cho
trẻ em những niềm vui sướng vô tư, nụ cười sảng khoái. Hơn nữa chính tính
19