Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

TIỂU LUẬN hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng tại sở giao dịch i – ngân hàng công thương việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.62 KB, 98 trang )

TIỂU LUẬN:
Hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng
tại Sở Giao Dịch I – Ngân hàng Công
Thương Việt Nam


LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống Ngân hàng được ví như hệ thần kinh của cả
nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả
là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng một cách hiệu quả,
kích thích tăng trưởng một cách bền vững. Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường, rủi ro
kinh doanh là không thể tránh khỏi, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động Ngân hàng có phản
ứng dây chuyền, lây lan và ngày một phức tạp.
Đối với hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam, kể từ khi chuyển qua cơ chế
thị trường, đã từng bước lớn mạnh và thu được những thành tựu quan trọng; nhưng cũng
trong quá trình đổi mới, hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam đã vấp phải
những rủi ro gây tổn thất nặng nề. Một trong những rủi ro đó là rủi ro tín dụng của Ngân
hàng thương mại.
Trong hàng thập kỉ qua, thế giới đã phát triển những công cụ hữu ích nhằm mục
đích hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM bởi lẽ đây là hoạt động cơ
bản chủ yếu của Ngân hàng cũng đồng thời là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro. Trong
các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, chấm điểm tín dụng là công cụ được phát
triển rộng rãi trên thế giới và các NHTM Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện các
mô hình chấm điểm để ứng dụng nó trong hoạt động phân tích và thẩm định tín dụng.
Nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng
đối với NHTM hiện nay, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác chấm
điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I – Ngân hàng Công Thương Việt Nam.”
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác chấm điểm tín dụng.
Chương 2: Thực trạng công tác chấm điểm tín dụng tại Sở Giao Dịch I- Ngân hàng Công
thương Việt Nam.




Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác chấm điểm tín dụng tại Sở
Giao Dịch I- Ngân hàng Công thương Việt Nam.


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC CHẤM ĐIỂM TÍN DỤNG
1.1. Hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, nguyên tắc tín dụng ngân hàng thương mại, điều kiện cấp tín dụng
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng thương mại
Thuật ngữ “Credit” (tín dụng) xuất phát từ chữ gốc La tinh: Creditium có nghĩa là
tin tưởng, tín nhiệm. Thông qua nghiên cứu bản chất của tín dụng người ta cho rằng: Tín
dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay
hiện vật) trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến
hạn, người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị
ban đầu. Khoản giá trị dôi ra này gọi là lợi tức tín dụng.
Tín dụng ngân hàng ra đời cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá và gắn
liền với quan hệ sở hữu. Kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển thì quan hệ tín dụng ngày
càng được mở rộng đồng thời mở ra nhiều cơ hội kinh doanh. Nền kinh tế luôn tồn tại
một nghịch lý là có những nơi vốn nhàn rỗi nhưng lại có những nơi thiếu vốn để sản
xuất. Tín dụng ra đời đã phần nào khắc phục được nghịch lý trên. Ban đầu hình thức tín
dụng chủ yếu là tín dụng thương mại hình thành dựa trên mối quan hệ buôn bán, bạn
hàng lâu năm. Qui mô của loại tín dụng này thường bị giới hạn bởi không gian và khả
năng tài chính. Nhu cầu vốn của nền kinh tế đòi hỏi phải có một tổ chức chuyên cấp tín
dụng. Tín dụng ngân hàng ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đó.
Tín dụng ngân hàng là giao dịch giữa ngân hàng với cá nhân hay tổ chức kinh tế
nào đó, trong đó ngân hàng cam kết cho phép cá nhân, tổ chức kinh tế được quyền sử
dụng vốn hoặc tài sản của ngân hàng theo nguyên tắc có hoàn trả.
Tín dụng ngân hàng cũng như các loại tín dụng thương mại phát sinh dựa trên cơ sở

bên cấp tín dụng tin tưởng vào khả năng trả nợ của bên nhận tín dụng. Do đó rủi ro tín
dụng luôn đi kèm với tín dụng ngân hàng.
1.1.1.2. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng thương mại


Mục tiêu hoạt động của ngân hàng thương mại là an toàn và sinh lợi. Do đó, hoạt
động tín dụng của NH cũng phải tuân theo nguyên tắc cơ bản sau:
Theo điều 6, Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng do NHNN nước
ban hành: KH phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoàn trả nợ gốc và lãi
vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
1.1.1.3. Điều kiện cấp tín dụng
Các ngân hàng thương mại xem xét và quyết định cho vay khi KH có đủ các điều kiện
sau:
Khách hàng có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật.
Khách hàng có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Khách hàng có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết.
Khách hàng có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và
có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù
hợp với qui định của pháp luật.
Khách hàng thực hiện các qui chế về bảo đảm tiền vay theo qui định của Chính
phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.1.2. Phân loại tín dụng ngân hàng thương mại
Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của các NHTM. Trong
quá trình hoạt động của mình, các ngân hàng luôn cố gắng đa dạng hoá các hình thức tín
dụng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu tín dụng của KH đồng thời tạo ra những lợi thế của
ngân hàng mình trong cạnh tranh. Người ta phân tín dụng ngân hàng theo một số tiêu chí
cơ bản sau:
1.1.2.1. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
Tín dụng Ngân hàng bao gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.

Cho vay là nghiệp vụ tín dụng trong đó NH cho KH sử dụng tiền của ngân hàng căn
cứ vào hợp đồng tín dụng theo nguyên tắc có hoàn trả.
Chiết khấu thương phiếu là việc NH ứng trước tiền cho KH tương ứng với giá trị của
thương phiếu trừ đi phần thu nhập của NH để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (


hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì NH không phải đã cho vay đối với chủ thương
phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền, tuy nhiên đối với NH, việc bỏ tiền ra ở
hiện tại và thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước gọi là
hoạt động tín dụng.
Bảo lãnh là việc NH cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ KH của mình. Mặc
dù không phải xuất tiền ra, song NH đã cho KH sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Cho
thuê là việc NH bỏ tiền ra mua tài sản để cho KH thuê theo những thoả thuận nhất định.
Sau thời gian nhất định, KH phải trả cả gốc lẫn lãi cho NH.
1.1.2.2. Phân loại theo thời gian
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với NH vì thời gian liên quan
mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của KH.
Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành:
Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn đến 1 năm;
Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm;
Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm;
1.1.2.3. Phân loại theo sự đảm bảo
Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo
lãnh của người thứ ba.
Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của bên
thứ ba.
1.1.2.4. Phân loại theo mục đích tín dụng
-

Tín dụng bất động sản (BĐS): Đây là loại tín dụng được bảo đảm bằng BĐS, bao

gồm:

-

Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai;

-

Tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ, cơ sở dịch vụ, trang trại và BĐS ở
nước ngoài.

-

Tín dụng công thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các DN để trang
trải các chi phí như mua hàng hoá, nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả lương.


-

Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp,
nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc.

-

Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm hàng hóa
tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà di động, trang thiết bị trong nhà...

-

Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các NH, công

ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.

-

Cho thuê tài chính: Là việc các NH mua các trang thiết bị, máy móc và cho thuê lại
chúng.

-

Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng như tín dụng kinh doanh chứng khoán...

1.1.2.5. Phân loại theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, NH cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia
loại rủi ro. Một số NH lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu từ thấp lên cao
cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh và chứng
khoán.
-

Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao;

-

Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như KH
chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, KH gặp thiên tai, KH trì hoãn
nộp báo cáo tài chính...

-

Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời gian ngắn và
KH có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn,


-

Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu; khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp
nhỏ hoặc bị giảm giá, KH chây ì...

1.2. Công tác chấm điểm tín dụng trong hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái quát về phương pháp chấm điểm tín dụng
1.2.1.1.Khái niệm chấm điểm tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động thường xuyên và chủ yếu của các NHTM. Do đó,
rủi ro tín dụng cũng là rủi ro thường gặp nhất trong hoạt động NH. Rủi ro tín dụng là rủi
ro về sư tổn thất tài chính ( trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không


thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán.
Như vậy, ngay từ khi cấp tín dụng cho KH, khoản tín dụng đó đã có rủi ro tiềm tàng. Để
hạn chế rủi ro tín dụng, các NHTM đã đưa ra các chỉ tiêu đánh giá năng lực KH như khả
năng tự tài trợ, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, đánh giá về vốn lưu động ròng, báo
cáo tài chính đã được kiểm toán hay chưa và chấm điểm tín dụng là một công cụ để NH
xem xét có cấp tín dụng cho KH hay không.
Chấm điểm tín dụng là phương pháp lượng hoá rủi ro không thanh toán của người
vay bằng điểm số tín dụng, được tính dựa trên những tiêu chí chấm điểm nhất định. Các
tiêu chí này nhất thiết phải có mối liên hệ với khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính của
KH và được xác định thông qua quá trình phân tích đặc tính của những khoản vay đã
được thực hiện.
1.2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của phương pháp chấm điểm tín dụng
Năm 1936, Fisher đã mô tả những nghiên cứu của ông về khả năng phân loại một
nhóm các cá nhân đi vay dựa trên các đặc tính khác nhau có thể lượng hóa được. Tuy
nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại trên phương diện lý thuyết cho tới năm
1938 nhà nghiên cứu Dunham đưa ra một hệ thống đánh giá các hồ sơ vay vốn có sử

dụng các tiêu chí cơ bản sau:
-

Chức danh, địa vị xã hội của người vay

-

Thống kê về thu nhập

-

Báo cáo tài chính

-

Tài sản thế chấp

-

Lịch sử trả nợ
Theo quan điểm của Dunham, việc lựa chọn những tiêu chí quan trọng này trên cơ

sỏ kinh nghiệm sẽ chính xác hơn so với khi áp dụng các kĩ thuật phân tích thống kê phức
tạp.
Năm 1941, một nhà kinh tế khác là Dunran đã lần đầu tiên sử dụng phương pháp
phân tích thống kê trong chấm điểm tín dụng. Ông đưa ra một mô hình chấm điểm trong
đó mối liên hệ giữa các đặc tính của người vay với rủi ro vỡ nợ của họ được biểu hiện
dưới mối quan hệ thống kê. Phương pháp này đã tạo động lực thúc đẩy cho sự ra đời các



lý thuyết xây dựng mô hình chấm điểm tín dụng sau này. Không dừng lại ở đó, Dunran
còn đưa ra gợi ý về việc phân tích rủi ro tín dụng và được coi như người sáng lập ra
những mô hình chấm điểm tín dụng được phát minh ngày nay. Hệ thống chấm đỉểm của
Dunran được sử dụng để phân loại người vay với mục đích mua ô tô cũ. Các chỉ tiêu
quan trọng bao gồm:
-

Nghề nghiệp, địa vị xã hội của người vay

-

Số năm làm công việc hiện tại

-

Số năm sống tại địa chỉ hiện tại

-

Giới tính

-

Bảo hiểm nhân thọ/ Các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng

-

Số tiền vay phải trả hàng tháng
Cũng trong giai đoạn này, một vài nỗ lực đã được thực hiện để đưa ra những phiếu


chấm điểm phát triển dựa trên đánh giá của các chuyên gia có kinh nghiệm. Điều này đã
mở đường cho sự phát triển của hệ thống chấm điểm theo phương pháp chuyên gia hiện
nay.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này vẫn chỉ mang tính chất nhỏ lẻ, phân tán và khả
năng ứng dụng là chưa cao. Mãi tới cuối những năm 50, khi thẻ tín dụng ra đời và phát
triển, đòi hỏi phải rút ngắn thời gian thẩm định khoản vay thì chấm điểm tín dụng mới
thực sự được biết đến và sử dụng phổ biến. Năm 1956, sự ra đời của hãng Fair, Isaac,
một công ty có tiếng tăm trong việc cung cấp các mô hình chấm điểm tín dụng được thiết
kế sẵn cho các ngân hàng đã đặt một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của mô
hình chấm điểm tín dụng. Song các mô hình chấm điểm tín dụng chỉ được áp dụng cho
các khoản vay cá nhân mang tính chất tiêu dùng.
Năm 1986, mô hình chấm điểm Z được R.Altman phát triển và áp dụng cho các
doanh nghiệp. Mô hình này sử dụng phương pháp phân tích biệt số để phân loại các công
ty thành các nhóm tùy theo xác suất phá sản của các công ty này lớn hay nhỏ. Các đặc
tính có thể đo lường được sau đây là cơ sở để phân loại:
-

Chi phí tài chính

-

Khả năng hoàn trả tiền vay


-

Tỷ lệ lợi nhuận gộp kinh doanh

-


Thời hạn mua chịu nhà cung cấp

-

Thời gian bán chịu cho KH

-

Tỷ lệ đầu tư
Mặc dù mô hình chấm điểm Z bộc lộ một số hạn chế do việc đánh giá một doanh

nghiệp chỉ dựa trên các chỉ số tài chính nhưng đã góp phần mở rộng đối tượng của chấm
điểm tín dụng sang các doanh nghiệp.
Ngày nay, các mô hình chấm điểm tín dụng rất được các ngân hàng ưa chuộng với
phạm vi áp dụng được mở rộng cho rất nhiều các sản phẩm tín dụng khác nhau. Các mô
hình chấm điểm này không ngừng được nâng cấp để đem lại kết quả có độ chính xác cao
hơn trong việc giúp NH dự đoán rủi ro của KH khi cấp tín dụng.
Đến năm 1995, Fair Isaac đã công bố phát minh mới trong việc ứng dụng mô hình
chấm điểm tín dụng đối với các DN vừa và nhỏ. Sau phát minh này, các ngân hàng ở
Hoa Kỳ đã triển khai mô hình này trong hệ thống của mình. Cho đến nay, chấm điểm tín
dụng đã trở thành một công cụ không thể thiếu trong hệ thống các ngân hàng trên thế
giới, nó trở thành cầu nối giúp thiết lập mối quan hệ vốn trước đây rất lỏng lẻo giữa DN
vay vốn và NH.
Các mô hình chấm điểm tín dụng được phát triển trong thời gian gần đây đã khẳng
định được sự vượt trội so với mô hình chấm điểm Z của Altman (1986). Các mô hình này
đánh giá rủi ro của người vay dựa trên một tập hợp khá toàn diện và đầy đủ các yếu tố
định tính và định lượng với các phương pháp phân tích hoàn chỉnh hơn nhiều so với các
mô hình trước đây. Các hãng cung cấp các mô hình chấm điểm tín dụng nổi tiếng trên
thế giới hiện nay bao gồm: Standard & Poor, Moody, KMV… Ngoài ra các ngân hàng
lớn có tiềm lực về tài chính và công nghệ thường tự trang bị cho mình những hệ thống

chấm điểm tín dụng riêng.
Những yếu tố trên đã tạo nên một sự phát triển đa dạng và phong phú các mô hình
chấm điểm cũng như các phương pháp phân tích. Cùng với sự phát triển của hệ thống tài
chính và ngân hàng dẫn đến những yêu cầu cấp thiết về quản trị rủi ro, sẽ có ngày càng
nhiều các mô hình chấm điểm tín dụng với độ tin cậy cao được sử dụng.


1.2.1.3. Một số mô hình chấm điểm tín dụng
Khoảng 29 năm trở về trước, hầu hết các NH chỉ dựa duy nhất vào phương pháp
truyền thống (định tính) để đánh giá rủi ro tín dụng người vay. Phương pháp truyền
thống này vừa tỏ ra mất thời gian, tốn kém, lại vừa mang tính chủ quan, chính vì vậy, NH
không ngừng cải tiến phương pháp đánh giá KH để ra các quyết định cho vay.
Ngày nay, một số NH đã sử dụng các mô hình cho điểm để lượng hoá rủi ro tín
dụng đối với người vay. Mô hình chấm điểm tín dụng có ưu điểm so với phương pháp
truyền thống là nó cho phép xử lý nhanh chóng một số lượng lớn các đơn xin vay, với
chi phí thấp, khách quan, do đó góp phần tích cực trong việc kiểm soát rủi ro tín dụng
ngân hàng. Các mô hình chấm điểm tín dụng sử dụng các số liệu phản ánh đặc điểm của
người vay thành các nhóm có mức độ rủi ro khác nhau. Để sử dụng các mô hình này, nhà
quản lý phải xác định được các tiêu chí, về kinh tế và tài chính liên quan đến rủi ro tín
dụng đối với từng nhóm khách hàng cụ thể. Đối với tín dụng tiêu dùng, các tiêu chí đó có
thể là thu nhập, tài sản, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp và nơi ở. Đối với tín dụng công
ty, các chỉ tiêu tài chính (như hệ số đòn bẩy) thường là các chỉ tiêu chủ yếu. Sau khi các
tiêu chí đã được xác định, kĩ thuật thống kê sẽ được sử dụng để lượng hoá (cho điểm) xác
suất rủi ro tín dụng hoặc để phân hạng rủi ro tín dụng.
1.2.1.3.1. Mô hình điểm số Z (Z- Credit Scoring Model)
Mô hình điểm số Z do E.I. Altman đề xướng để cho điểm tín dụng đối với các công ty
sản xuất của Mỹ. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với
người vay và phụ thuộc vào:
- Trị số các chỉ số tài chính của người vay (Xj)
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người


vay trong quá khứ.
Từ đó, Altman đi đến mô hình cho điểm như sau:
Z= 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5
Trong đó:
X1= Tỷ số vốn lưu động ròng/ Tổng tài sản;
X2: Tỷ số lợi nhuận giữ lại/ Tổng tài sản;


X3: Tỷ số lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/ Tổng tài sản;
X4: Tỷ số thị giá cổ phiếu/ giá trị ghi sổ của nợ dài hạn;
X5: Tỷ số doanh thu/ Tổng tài sản;
Trị số Z càng cao, người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Như vậy, khi trị số Z thấp
hoặc là một số âm sẽ là căn cứ để xếp KH vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Giả sử, một KH tiềm năng có các chỉ số tài chính là: X1=0,2; X2= 0; X3= -0.2; X4=
0,1; X5= 2,0; Chỉ số X2 bằng 0 và chỉ số X3 là một số âm nói lên rằng KH bị thua lỗ
trong kì báo cáo; còn chỉ số X4= 10% nói lên rằng KH có tỷ số “ nợ/ Nguồn vốn chủ sở
hữu” cao. Tuy nhiên, tỷ số “ Vốn lưu động ròng / tổng tài sản”(X1) và tỷ số “Doanh thu/
Tổng tài sản” (X5) lại cao, phản ánh khả năng thanh toán và duy trì doanh số bán hàng là
tốt. Điểm số Z sẽ là thước đo tổng hợp về xác suất vỡ nợ của KH. Từ các số liệu đã cho,
ta tính được điểm số Z của KH là 1,64.
Theo mô hình chấm điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số Z thấp hơn
1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Căn cứ vào kết luận này,
NH sẽ không cấp tín dụng cho KH này đến khi cải thiện được điểm số Z lớn hơn 1,81.
Mô hình điểm số Z có một số hạn chế sau:
- Mô hình này chỉ cho phép phân biệt khách hàng thành hai nhóm “ vỡ nợ” và “

không vỡ nợ”. Trong thực tế, vỡ nợ được phân thành nhiều loại, từ không trả đến chậm
chễ trong việc trả lãi tiền vay. Điều này hàm ý, cần có một mô hình cho điểm chính xác
hơn, toàn diện hơn theo nhiều thang điểm để phân loại KH thành nhiều nhóm tương ứng

với các mức độ vỡ nợ khác nhau.
- Không có lý do rõ ràng để giải thích sự bất biến về tầm quan trọng của các biến số

theo thời gian, dù là trong ngắn hạn. Tương tự như vây, các biến số (Xj) cũng không phải
là bất biến, đặc biệt là khi điều kiện thị trường và môi trường kinh doanh thường xuyên
thay đổi. Ngoài ra, mô hình cũng giả thiết rằng các biến số (Xj) là hoàn toàn độc lập,
không phụ thuộc lẫn nhau.
- Mô hình đã không tính tới một số nhân tố quan trọng nhưng khó lượng hoá và có

ảnh hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro tín dụng của KH. Ví dụ, yếu tố danh tiếng của KH,
yếu tố mối quan hệ truyền thống giữa KH và ngân hàng, hay yếu tố vĩ mô như chu


kỳ kinh tế, chu kỳ kinh doanh. Nhìn chung các nhân tố này thường không được đề cập đến
trong mô hình chấm điểm tín dụng Z. Mặt khác, mô hình cho điểm thường không sử dụng
các thông tin đại chúng có sẵn, như giá cả thị trường của các tài sản tài chính...
1.2.1.3.2. Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngày nay, nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp cho điểm để xử lý đơn xin vay của
người tiêu dùng. Thực tế, nhiều tổ chức thẻ tín dụng đã sử dụng mô hình điểm số để xử lý
số lượng đơn yêu cầu ngày một gia tăng, những ngân hàng cũng sử dụng mô hình này để
đánh giá những khoản tín dụng mua sắm xe hơi, trang thiết bị gia đình, bất động sản và
kinh doanh nhỏ. Nhiều KH ưa thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cầu của
họ được xử lý bằng hệ thống cho điểm tự động. Thông thường, khách hàng có thể gọi điện
thoại đến ngân hàng để liên hệ việc xin vay, thông qua hệ thống máy tính nối mạng, trên
cơ sở dữ liệu của KH, trong vòng vài phút, ngân hàng có thể thông báo kết quả tín dụng
cho KH.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến KH sử dụng cho mô hình chấm điểm tín dụng tiêu
dùng bao gồm: Hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà,
thu nhập, điện thoại cố định, số loại tài khoản cá nhân, thời gian công tác.
Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục, mỗi hạng

mục được cho điểm từ 1 đến 10. Ví dụ, bảng dưới đây cho thấy những hạng mục và điểm
của chúng thường được sử dụng ở các ngân hàng tại Mỹ.
Bảng 1.1: Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng

STT Các hạng mục xác định chất lượng tín
1

Nghề nghiệp của người vay

Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh

Công nhân có kinh nghiệm (tay nghề
Nhân viên văn phòng
Sinh viên
Công nhân không có kinh nghiệm
Công nhân bán thất nghiệp


2

Trạng thái nhà ở
Nhà riêng
Nhà thuê hay căn hộ
Sống cùng bạn hay người thân

3

Xếp hạng tín dụng
Tốt
Trung bình

Không có hồ sơ
Tồi

4

Kinh nghiệm nghề nghiệp
Nhiều hơn 1năm
Từ 1 năm trở xuống

5

Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành
Nhiều hơn 1năm
Từ 1 năm trở xuống

6

Điện thoại cố định

Không

7

Số người sống cùng (phụ thuộc)
Không
Một
Hai
Ba
Nhiều hơn ba


8

Các tài khoản tại ngân hàng

Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành Séc
Chỉ tài khoản tiết kiệm
Chỉ tài khoản phát hành Séc


Không có
Khách hàng có điểm số cao nhất theo mô hình với 8 hạng mục nêu trên là 43 điểm,
thấp nhất là 9 điểm. Giả sử ngân hàng biết rằng, mức 28 điểm là ranh giới giữa KH có tín
dụng tốt và KH có tín dụng xấu; trên cơ sở đó, ngân hàng hình thành một khung chính
sách tín dụng tiêu dùng theo mô hình điểm số như sau:
Bảng 1.2: Bảng các quyết định tín dụng tương ứng với số điểm
Tổng điểm số khách hàng
Từ 28 điểm trở xuống
29-30 điểm
31-33 điểm
34-36 điểm
37-38 điểm
39-40 điểm
41-43 điểm
Rõ ràng là mô hình điểm số đã loại bỏ được sự phán xét chủ quan trong quá trình cho
vay và giảm đáng kể thời gian quyết định tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên mô hình
này cũng có một số nhược điểm như đã không thể tự điều chỉnh một cách nhanh chóng
trước sự thay đổi của nền kinh tế và những thay đổi trong cuộc sống gia đình. Mô hình
điểm số không linh hoạt, có thể đe doạ đến chương trình tín dụng tiêu dùng của ngân
hàng, bỏ sót những KH lành mạnh, làm giảm lòng tin của cộng đồng vào dịch vụ ngân
hàng.

1.2.1.Ứng dụng của mô hình chấm điểm tín dụng trong xếp hạng tín nhiệm khách hàng
1.2.1.1. Khái niệm xếp hạng tín nhiệm khách hàng
Theo Born, John A. viết trong cuốn “ Phân tích rủi ro trên các thị trường đang chuyển
đổi” xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có thể thanh toán


đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời gian tồn tại của
nó.
Theo cách định nghĩa của công ty chứng khoán Merrill Lynch, xếp hạng tín nhiệm là
đánh giá hiện thời công xếp hạng tín nhiệm về chất lượng tín dụng của một nhà phát
hành chứng khoán nợ, về một khoản nợ nhất định.
Theo công ty Moody’s, xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng nhà phát hành có thể
thanh toán gốc và lãi đúng hạn. Trong kết quả xếp hạng có chứa cả đánh gía chủ quan
của chuyên gia xếp hạng tín nhiệm.
Như vậy, đối với ngân hàng, xếp hạng tín nhiệm là kết quả của việc đánh giá tổng hợp tất
cả các rủi ro về thanh toán gốc, lãi của các khoản nợ hiện tại và tương lai của người. Việc
xếp hạng tín nhiệm được thực hiện trong mối quan hệ mật thiết giữa quá khứ, hiện tại và
trên cơ sở đó đưa ra các dự đoán về tương lai, đồng thời kết quả xếp hạng tín nhiệm chứa
đựng những ý kiến chủ quan của chuyên gia xếp hạng.
Tựu chung lại, việc xếp hạng tín nhiệm được nhấn mạnh ở các nội dung sau:
-

Xác định khả năng trả nợ đúng hạn, các thứ hạng sẽ cho biết năng lực và thiện chí
của người vay với việc thanh toán lãi gốc và nợ đúng hạn, phù hợp với các điều
khoản đã cam kết.

-

Tính chất và các điều khoản cam kết.


-

Bảo vệ các cam kết nợ để chúng có đủ sức và vị trí tương đối trong từng trường
hợp phá sản, tái tổ chức hoặc những xếp đặt khác theo luật phá sản mà không
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ.

1.2.1.2. Ứng dụng của chấm điểm tín dụng khi xếp hạng tín nhiệm khách hàng
Điểm số tín dụng là kết quả của quá trình chấm điểm tín dụng, nó phản ánh mức độ rủi ro
của người vay hay phương án/ dự án xin cấp vốn. NH có thể sử dụng điểm số này để xây
dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm đối với khách hàng, từ đó đưa ra các phán quyết tín
dụng thích hợp.
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp trên thế giới như Moody’s hay Standard
& Poor thường xây dựng các mô hình xếp hạng tín nhiệm với 10 mức ứng với các điểm


chuẩn khác nhau và phản ánh các mức độ rủi ro khác nhau của người đi vay. Dưới đây là
ví dụ về hệ thống xếp hạng của Standard & Poor:
Bảng 1.3: Bảng xếp hạng của Standard & Poor

STT

Loại xếp hạng

1

AAA

2

AA


3

A

4

BBB

5

BB

6

B

7

CCC


8

CC

9

C


10

D

1.2.2.Vai trò của chấm điểm tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp trong hoạt động tín
dụng ngân hàng thương mại
Hoạt động chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng ra đời, phát triển và ngày càng
khẳng định tầm quan trọng không thể thiếu được trong việc phát triển thị trường vốn an
toàn và có hiệu quả đối với tất cả các đối tượng tham gia thị trường bao gồm doanh
nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian và các nhà quản lý.
-

Đối với doanh nghiệp

Chấm điểm tín dụng và xếp hạng tín nhiệm sẽ tăng them cơ hội cho các doanh nghiệp
khi tiếp cận thị trường vốn. Xếp hạng tín nhiệm giúp duy trì sự ổn định của thị trường,
doanh nghiệp có thể duy trì được thị trường vốn trong mọi hoàn cảnh, ngay cả khi thị
trường vốn có những biến động bất lợi thì những doanh nghiệp đã được tín nhiệm vẫn
luôn yên tâm khả năng vay vốn của họ khi tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng. Như
vây, một doanh nghiêp có thứ tự xếp hạng cao sẽ có nhiều điều kiện để tiếp cận các thị
trường vốn đa dạng hơn, với chi phí thấp hơn. Do mục tiêu cơ bản của các ngân hàng là
an toàn và sinh lợi, các ngân hàng thường rất quan tâm tới khả năng mất vốn, họ sẵn sàng
cấp vốn cho những người vay mà có thể chắc chắn được khả năng trả nợ.
Mặt khác, chấm điểm tín dụng còn giúp cho DN đánh giá được khả năng tài chính
của mình và có những chiến lược phát triển và quản lý thích hợp. Dựa vào thang điểm
xếp hạng của các ngân hàng cho mình, các DN có thể ý thức được khả năng thanh toán


nợ và khả năng huy động vốn của mình trên thị trường để từ đó đưa ra các biện pháp xây
dựng cơ cấu tài chính và chinh sách đầu tư thích hợp để phát triển.

Bên cạnh đó, các DN có thứ tự xếp hạng cao không chỉ được các ngân hàng ưu đãi
mà còn có thêm điều kiện nâng cao uy tín, nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, tạo
lập được thương hiệu trên thị trường.
- Đối với các ngân hàng thương mại
Chấm điểm tín dụng và xếp hạng tín nhiệm nâng cao khả năng quản trị rủi ro của các
NHTM. Thông qua hoạt động chấm điểm tín dụng, các ngân hàng thương mại đã thực
hiện và sử dụng kết quả xếp hạng tín nhiệm DN vay vốn theo định kỳ. Công tác này là cơ
sở để NH đưa ra các giải pháp xử lý các khoản vay có vấn đề, nhằm ngăn ngừa rủi ro có
thể xảy ra. Thực chất của quá trình phân tích, thẩm định người vay, để đưa ra quyết đinh
cho vay hay không cho vay đã là một phần của công tác chấm điểm và xếp hạng tín
nhiệm. Chấm điểm tín dụng cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của các ngân
hàng thương mại. Nhờ vào kết quả chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng, NH đã
thực hiện được việc sàng lọc đối với người vay, cấp tín dụng cho những người vay có tài
chính lành mạnh và có dự án đầu tư hiệu quả, qua đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn của nền kinh tế.
Xét trên góc độ quản lý toàn bộ danh mục tín dụng, hệ thống chấm điểm tín dụng và
xếp hạng khách hàng còn giúp cho các ngân hàng phát triển chiến lược marketing nhằm
hướng tới những KH có ít rủi ro hơn. Bên cạnh đó kết quả chấm điểm tín dụng còn là cơ
sở để ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng rủi ro
tín dụng.
- Đối với các nhà quản lý thị trường vốn
Sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động chấm điểm tín dụng và xếp hạng tín nhiệm trên thế
giới trong mấy thập kỉ gần đây đã ngày càng khẳng định vị trí, vai trò và sự cần thiết của
xếp hạng tín dụng trong phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán một cách an
toàn, hiệu quả. Các cơ quan quản lý thị trường bắt đầu sử dụng công cụ này như một tiêu
chuẩn kiểm tra tính lành mạnh về tài chính của một DN. Thông qua các biện pháp hành
chính (các qui định) các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ ngăn không cho các doanh


nghiệp yếu kém tham gia vào thị trường dựa trên những xếp hạng tín nhiệm đã được xác

định.
1.2.2. Các bước chấm điểm tín dụng
1.2.2.1. Phân loại khách hàng để tính điểm tín dụng
Do tính chất khác nhau giữa các KH thuộc các nhóm khác nhau, nhằm mục đích cho
điểm tín dụng chính xác, khoa học các KH đi vay được chia thành 4 nhóm: Nhóm các
KH là doanh nghiệp lớn, nhóm các KH là doanh nghiệp vừa và nhỏ; nhóm các KH là các
tổ chức tín dụng và công ty tài chính; và nhóm KH cá nhân.
Nhóm các KH là các doanh nghiệp lớn: là nhóm các DN có một trong những đặc điểm
sau đây:
-

Có doanh thu theo báo cáo tài chính có kiểm toán trên 300 triệu USD hay tương
đương;

-

Có tổng tài sản (sau khi đã trừ đi tài sản vô hình ) trên 300 triệu USD hay tương
đương;

-

Là công ty con của các công ty đa quốc gia mà tổng doanh thu toàn cầu hay tổng tài
sản toàn cầu đáp ứng được một trong hai tiêu chí trên đây.

Nhóm các KH là các doanh nghiệp vừa và nhỏ : Là nhóm các doanh nghiệp có một trong
các đặc điểm sau đây:
-

Có doanh thu theo báo cáo tài chính dưới 300 triệu USD hay tương đương;


-

Khách hàng không thuộc bất kì nhóm khách hàng nào khác.

Nhóm các khách hàng là các tổ chức tài chính- tín dụng: bao gồm các khách hàng là:
-

Các công ty tài chính

-

Các ngân hàng và định chế tài chính

Nhóm các khách hàng cá nhân: là nhóm khách hàng là cá nhân, tổ hợp tác hay gia đình
có quan hệ vay mượn với ngân hàng cho vay.
1.2.2.2. Các công cụ tính điểm tín dụng
Bảng các tiêu chí phi tài chính: Đối với mỗi loại KH như đã phân loại trên đây, NH cho
vay sẽ sử dụng các bảng các tiêu chí phi tài chính để đánh giá điểm tín dụng. Bảng này
đánh giá điểm tín dụng của mỗi KH dựa trên các tiêu chuẩn phi tài chính như chất lượng


ban lãnh đạo, vị trí trên thị trường, quan hệ với KH, với NH…Có ba loại bảng áp dụng
cho ba loại KH theo mục đích cho điểm tín dụng. Bảng các tiêu chí phi tài chính để đánh
giá điểm tín dụng cho mỗi nhóm KH được nêu trong các bảng vvv
Các điểm cần chú ý khi sử dụng các bảng tiêu chí phi tài chính:
- Sẽ có các trường hợp trong đó cần mạnh vào một hay một vài các tiêu chí, do vậy ảnh

hưởng đến tín dụng chung cho các KH. Ví dụ, mặc dầu KH có thể được cho điểm 4 đối
với phần đa các tiêu chí, song chỉ một điểm 7 đối với một tiêu chí khác cũng có thể đủ để
xác định rằng KH đó có điểm chung là 5,6 hay thậm chí là 7.

- KH không cần phải được điểm rnhư nhau đối với tất cả các tiêu chí để có thể được

điểm tín dụng đó. Mức độ ý nghĩa của mỗi tiêu chí và ảnh hưởng của tiêu của tiêu chí đó
là kết quả của việc đánh giá rủi ro của tín dụng trong khuôn khổ của các thông tin khác.
Bảng các chỉ số tài chính chuẩn: là một công cụ để đánh giá điểm tín dụng dựa trên một
số chỉ số tài chính căn bản mà được các tổ chức đánh giá điểm tín dụng quốc tế thường
dùng như tỷ lệ thanh toán ngắn hạn, tỷ số vốn vay…Bảng chỉ số và giá trị chỉ số tài chính
chuẩn làm công cụ để đánh giá điểm tín dụng đối với các tổ chức tài chính- tín dụng và
nhóm KH cá nhân.
1.2.2.3. Quy trình chấm điểm tín dụng
Mọi KH vay đều phải được đánh giá cho điểm tín dụng theo qui trình như sau:
Bước 1: Đánh giá chung về điểm tín dụng của KH dựa trên các định nghĩa khái quát và
các điểm trong thang điểm tín dụng của NH và bảng các tiêu chí đánh giá điểm tín dụng
theo từng loại KH. Chẳng hạn, nếu KH thuộc nhóm các KH là doanh nghiệp vừa và nhỏ,
thì phải áp dụng các công cụ dành cho các doanh nghiệp thuộc nhóm này.
Bước 2: Dùng các bảng chỉ số tài chính chuẩn cho loại KH thích hợp để kiểm trra lại kết
quả chấm điểm tín dụng có được từ bước 1.
Bước 3: Điểm tín dụng được đưa ra phải phù hợp với kết quả đánh giá về tài chính trong
quá khứ của KH và kết quả của việc đánh giá các vấn đề mấu chốt khác liên quan đến
KH. Bản đánh giá tổng hợp này sẽ được trình bày trong tờ trình xin duyệt hạn mức tín


dụng hay bằng một tờ trình riêng biệt về điểm tín dụng nếu việc chấm điểm tín dụng
được xem xét lại trước khi hạn mức tín dụng đến kì xét lại hàng năm.
Bước 4: Điểm tín dụng sau khi được phê duyệt, phải được cập nhật trong hệ thống của
NH cho vay và chuyển cho hệ thống thông tin tín dụng của NH cho vay.
Trong tất cả các trường hợp, hồ sơ về KH phải được lưu trữ một bản Bảng các tiêu chí cơ
bản để đánh giá điểm tín dụng của KH và bảng tỷ lệ tài chính chuẩn.
Trong trường hợp bên vay có bảo lãnh của một tổ chức có năng lực tài chính mạnh hơn,
khoản vay đó có thể được cho điểm tín dụng tương đương điểm tín dụng của bên bảo

lãnh ( nếu bên bảo lãnh cũng được chấm điểm tín dụng). Thủ tục chấm điểm tín dụng của
bên bảo lãnh cũng giống như chấm điểm tín dụng của bên vay.
1.2.3.Đánh giá lại điểm tín dụng
Điểm tín dụng phải phản ánh chính xác tình trạng rủi ro của mỗi KH. Do vậy, điểm tín
dụng được đánh giá lại mỗi năm một lần. Ngoài ra, các cán bộ chấm điểm tín dụng phải
đánh giá lại điểm tín dụng của KH bất cứ lúc nào có sự kiện xảy ra ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ của KH, và nếu cần thiết thì điểm tín dụng của KH sẽ được điều chính lại nếu
cần.
1.2.4.Bảng các tiêu chí chấm điểm tín dụng
Dưới đây là bảng các tiêu chí chấm điểm tín dụng được sử dụng để chấm điểm tín dụng
đối với các khách hàng là các doanh nghiệp lớn. Các tiêu chí bao gồm các tiêu chí cơ bản
như ngành kinh doanh, vị thế trên thị trường, mối quan hệ với khách hàng và các chỉ tiêu
tài chính phản ánh khả năng sinh lời và khả năng trả lãi của doanh nghiệp.


.

Bảng 1.4: Bảng các tiêu chí cơ bản để đánh giá điểm tín
dụng của các KH là các Doanh nghiệp lớn
Điểm tín
dụng/

1

Tiêu chí
Ngành

Rộng lớn,

kinh


mang tính chất

doanh/

quốc tế. Tiềm

Thị

năng tăng

trường

trưởng vững
chắc

Vị thế thị

Giữ vị trí

trường

thống trị, rào
cản ra nhập thị
trường cao

Quan hệ

Gắn bó chặt


với KH

chẽ và trung
thành tuyệt đối

Bảng 1.5: Bảng các chỉ số tài chính áp dụng cho đánh giá điểm
tín dụng của nhóm các DN lớn.

Điểm tín

Khả

dụng/

năng


Chỉ số tài

Trả lãi

chính
1

>11.0

2

5.5-11


3

3.6-4.7

4

2.9-3.3

5

2.2-7.7

6

1.5-2.0

1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác chấm điểm tín dụng của Ngân
hàng thương mại
1.3.1.Chất lượng thông tin thu thập
Thu thập thông tin về khách hàng là bước đầu tiên trong quy trình chấm điểm
tín dụng và xếp hạng doanh nghiệp. Đây là khâu vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng
trực tiếp và quyết định đến tính chính xác của điểm số tín dụng. Điều này đòi hỏi
nội dung thông tin phải đầy đủ, chính xác và trung thực, phản ánh đúng tình hình
tài chính và khả năng trả nợ của người vay. Chính vì vây, các thông tin này cần
được sàng lọc và kiểm tra kĩ lượng trước khi sử dụng để đánh giá về khách hàng.
Nguồn thu thập thông tin và số lượng thông tin thu thập được là hai yếu tố có
ảnh hưởng đến chất lượng thông tin. Thông thường, các thông tin do khách hàng
cung cấp thường có độ tin cậy thấp hơn cả vì các người đi vay có xu hướng cung
cấp cho NH những thông tin đẹp, đã qua xử lý để che giấu những điểm yếu của
mình. Trình độ và đạo đức nghề nghiệp của CBTD cũng có ảnh hưởng đến độ tin

cậy của các thông tin có được do điều tra trực tiếp. Bên cạnh đó, số lượng thông tin


thu thập càng nhiều và nguồn thông tin cung cấp đa dạng cũng làm tăng mức độ
chính xác của thông tin.
1.3.2. Cơ sở vật chất và pháp lý
Hệ thống chấm điểm tín dụng là cơ sở cho công tác chấm điểm tín dụng của
ngân hàng. Hệ thống chấm điểm tín dụng bao gồm quy trình chấm điểm tín dụng,
hệ thống các chỉ tiêu định tính và định lượng được sử dụng cho điểm và xếp hạng.
Quy trình và chỉ tiêu này một mặt phải tuân thủ theo những qui định chung của
NHNN, theo nguyên tắc chuẩn mực quốc tế đồng thời phải phù hợp với thực tiễn
hoạt động tín dụng của bản thân NHCV. Hệ thống chấm điểm càng chi tiết, khoa
học thì việc đánh giá các doanh nghiệp càng chính xác. Ngoài ra, để hệ thống chấm
điểm đạt hiệu quả cao, nó phải được triển khai một cách đồng bộ và rộng rãi trong
tất cả các chi nhánh của NHCV. Việc ban hành những văn bản qui định


×