Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.58 KB, 11 trang )

Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất quan
trọng, được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong thi pháp học. Mặc dù hiện
nay, khái niệm này chưa được các nhà nghiên cứu định nghĩa một cách
thống nhất và chặt chẽ, nhưng nó đã phần nào gợi mở cho chúng ta
hướng đến đối tượng chủ yếu của văn học. Theo đó, “Văn học nghệ thuật
là một sự ý thức về đời sống, nên nó mang tính chất quan niệm rất cụ
thể” và “Hình tượng nghệ thuật một khi đã hình thành là mang tính chất
quan niệm, ngay cả vô thức cũng là quan niệm về cái vô thức. Nhà văn
không thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm về đối
tượng”[4;23]. Có thể khẳng định, quan niệm chính là một phương tiện
thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật. Do vậy, tìm hiểu quan niệm nghệ thuật
về con người trong văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói
chung, chính là bước đi thiết thực để đến với chiều sâu của các tác phẩm,
của các giai đoạn văn học.
1. Quan niệm về con người trong văn học
Macxim Gorki đã từng khẳng định: “Văn học là nhân học”.
Đó là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Do vậy, con
người chính là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma
quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều nhằm
mục đích miêu tả và thể hiện vào con người.
Thực tế cho thấy, không có một tác phẩm, một tác giả hay một
nền văn học nào lại chỉ đơn thuần nói về thiên nhiên mà không liên quan
đến con người. Nói cách khác, mục đích miêu tả của nhà văn là nhằm
hướng đến thể hiện con người.

1



Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
Ví dụ: Truyện cổ tích, thần thoại: miêu tả thần linh, ma quỷ, địa
ngục, đồ vật...là nói đến cáihiện thực tồn tại trong đầu óc con người, góp
phần thể hiện ước mơ, khát vọng con người.
Ngay cả những nhân vật không thực, ví như trong Tây Du Ký của
Ngô Thừa Ân. Ngoài việc bóc trần hiện thực xã hội Trung Quốc hỗn
loạn thời bấy giờ, tác giả còn thể hiện sự khái quátvề triết lí làm
người. Con người muốn đạt được thành công phải có đầy đủ sự kiên định
như Đường Tăng, lanh lợi như Ngộ Không, cần cù như Sa Tăng và rất
đời như Bát Giới.
Hay với những dòng thơ viết về cảnh vật, thiên nhiên. Đó không
phải là động tác phác thảo vài nét cơ bản vào không gian, mà là sự bộc
lộ những tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình cũng như chủ thể tác giả
dấu mặt. Bởi thế mới Voltaire khẳng định: "Thơ là âm nhạc của tâm
hồn”.
Tóm lại, trong văn học, yếu tố con người được nói đến như một
điều tất yếu. Con người chính là nhân vật trung tâm của văn học.
2. Xác định khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm cơ bản nhằm thể
hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con
người của nhà văn. Có thể nói, nó giống như là một chiếc chìa khóa
vàng góp phần gợi mở cho chúng ta tất cả những gì bí ẩn trong sáng tạo
nghệ thuật của mỗi người nghệ sĩ nói chung và từng thời đại nói
riêng. Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm tìm hiểu, song khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người vẫn còn
nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau. Cụ thể như sau:
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con
người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí
tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác

phẩm của mình”[5;15]. Tức, quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi
2


Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
vàophân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã được hóa thân thành các
nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học của
tác giả, từ đó, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng
nhân vật trong đó. Vì vậy, chúng ta sẽ thấy được giá trị của hình tượng
nghệ thuật trong các tác phẩm.
Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng góp tiếng nói của mình bằng
một cách nhìn khá bao quát: “Quan niệm nghệ thuật về con người thể
hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”.
Cũng với vấn đề về quan niệm nghệ thuật về con người, Từ
điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật về
con người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình
thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng
tác, phong cách của nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học
và cơ sở của tư duy nghệ thuật.”
Nhìn chung, tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng những khái
niệm trên đều nói lên được cái cốt lõi của vấn đề quan niệm nghệ thuật về
con người. Từ đó, chúng ta có thể đi đến khái quát cách hiểu quan niệm
nghệ thuật về con người như sau:
Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn,
cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải về con người của nhà văn.
Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan
niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan
sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không
giống so với đối tượng.
Như vậy, vì trung tâm của văn học là con người nên con người

cũng chính là đối tượng thẫm mĩ thể hiện quan niệm của tác giả về cuộc
sống. Người sáng tác sẽ là người vận động, suy nghĩ về con người, cho
con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người. Bởi người ta
không thể miêu tả và tạo nên chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con
3


Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
người trong văn học nếu không hiểu biết, cảm nhận và có các phương
tiện, biện pháp nhất định.
Từ việc hướng đến xác định khái niệm quan niệm nghệ thuật về
con người, có thể khẳng định rằng: Chúng ta sẽ không thể hiểu một cách
đầy đủ những đổi thay trong nội dung phản ánh cũng như nghệ thuật biểu
hiện của văn học, nếu không quan tâm tới sự vận động của con người
trong văn học, đặc biệt là vấn đề quan niệm nghệ thuật của các tác giả về
con người trong văn học. Nói cách khác, nếu bỏ qua quan niệm nghệ
thuật về con người sẽ dẫn tới cách hiểu đơn giản về bản chất phản ánh
của nghệ thuật, hạ thấp yêu cầu sáng tạo thẩm mĩ của nghệ thuật. Cho
nên,tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người là điều hết sức quan
trọng. Đây được xem là cơ sở lí luận để chúng ta bắt tay vào tìm hiểu
Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại Việt Nam.
3. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại
Con người trong văn học trung đại Việt Nam rất phong phú. Nó
khác biệt với con người trong văn học dân gian. Mỗi thể loại có một cách
quan niệm và biếu hiện con người riêng nhưng vẫn có cái chung. Quan
niệm chung chi phối văn học trung đại Việt Nam là:
3.1. Con người vũ trụ
Thời trung đại, con người chủ yếu sống bằng nông
nghiệp nên thường dựa vào tự nhiên, khai thác tự nhiên để sống.
Do đó, con người trung đại tin ở sự thống nhất trong thế giới. Thiên

nhiên là bạn tri âm tri kỷ của con người. Người phương Đông
xưa cũng quan niệm: thiên nhiên có mối giao hòa, giao cảm với con
người bởi con người là một "tiểu vũ trụ" có quan hệ tương thông tương
cảm với "đại vũ trụ"- thiên nhiên ngoại giới (Thiên nhân tương cảm,
thiên nhân hợp nhất). Con người là một yếu tố trong mô hình vũ trụ:
Thiên - Địa - Nhân hợp thành "Tam Tài". Con người sống trong
vòng "Thiên phú địa tái" (Trời che, đất chở). Cho nên, quan niệm “Thiên
4


Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
– Địa – Nhân” hay “Thiên Nhân tương cảm” cổ xưa ấy đã chi phối nhiều
đến sự biểu hiện trong tác phẩm nghệ thuật. Do đó thơ văn trung đại
thường chỉ xuất hiện một con người đứng trước trời đất.
Chẳng hạn, thi đề quen thuộc của thơ trữ tình trung đại chính là
con người một mình đối diện, đàm tâm với thiên nhiên vũ trụ. Người anh
hùng được nhắc đến với tầm vóc sánh ngang vũ trụ:
“Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.”
(Phò vua bụng những mong xoay đất,
Gột giáp sông kia khó vạch trời)
(Đăng Dung – Cảm Hoài)
Hay trong bài thơ Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), không gian nghệ
thuật hiện lên là một không gian vũ trụ khoáng đạt, rộng lớn và hoành
tráng, mà trong đó, con người dù nhỏ bé song vẫn cố gắng vươn lên
ngang tầm và có khát vọng làm chủ trời đất, vũ trụ, chinh phục thiên
nhiên. Tác giả đã phóng lớn ngọn giáo của mình cho tương xứng với kích
thước của đất nước, của vũ trụ:
“Hoành sóc giang san cáp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân hùng dũng nuốt sao Ngưu)
Ở bài Tự tình nổi tiếng của nữa sĩ Hồ Xuân Hương, hình tượng
con người vũ trụ nổi bật rõ:
"Trơ cái hồng nhan với nước non".
Con người được đặt giữa không gian mênh mông của vũ trụ nhưng
không hòa nhập vào không gian bao la rộng lớn ấy mà cô độc, lẻ loi một
mình. Nữ sĩ đưa từ “trơ” ra đầu câu như để nhấn mạnh sự đối lập của một
cá thể đơn lẻ với cả vũ trụ mênh mông, để gia tăng cảm giác cô đơn,
quạnh vắng trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Khi bất đắc chí, đau đáu vì
5


Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
cuộc duyên không trọn, con người tìm về với thiên nhiên như trở về
nguồn cội nhưng lại bắt gặp:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Thiên nhiên và lòng người vốn tương ứng tương cảm và có sự
đồng điệu. Thế nên con người đang đau đáu vì cuộc duyên không trọn
vẹn thì vầng trăng kia cũng chỉ có thể là vầng trăng khuyết giữa trời đang
dần xế bóng.
Chính vì vậy, ở đây, con người không xuất hiện với tư cách cá
nhân. Họ buồn không phải một cá nhân buồn, mà cả vũ trụ cũng buồn
theo, đúng như Nguyễn Du đã từng nói:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 12431244)
Đó là “con người vũ trụ” sống trong quy tắc “hô, ứng”. Vui buồn
của mỗi con người buộc cả vũ trụ chuyển động.
“Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa,

Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai.”
(Nguyễn

Du

- Truyện

Kiều –

Câu 2795-2796)
Sự miêu tả gián tiếp trong thơ trung đại chính là bị sự chi phối của
quan niệm vũ trụ đó. Con người không được miêu tả như một hiện tượng
xã hội mà được như là một bộ phận của thiên nhiên, của vũ trụ. Chẳng
hạn như khi nói sự bình phục của Kiều, thì Nguyễn Du viết:
“ Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong”
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 1191)
về tình yêu của từ Hải và Kiều, thì:
“ Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”
6


Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
(Nguyễn Du - Truyện Kiều – Câu 2211,2212)
Ngoài ra, do quan niệm vũ trụ trong văn học ta bắt nguồn từ rất xa
xôi, gắn liền với những quan niệm thần bí, tướng số. Cho nên, đặc biệt
đối với những nhân vật xuất chúng, tác giả thường miêu tả thành những
con người dị tướng, phi thường, hun đúc một sức mạnh nào đó của vũ
trụ. Đó là những con người “chịu mệnh trời”. Từ Hải chính là nhân vật
được Nguyễn Du xây dựng dựa trên quan niệm này:

“Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tất rộng thân mười thước cao”.
(Câu

2168-

2169)
Đây là con người mà chí khí và tài năng được đo bằng chiều kích
của vũ trụ. Bởi thế, nói đến Từ Hải, người đọc như thấy hiện rõ trước mắt
mình một hình ảnh cao rộng của trời đất và vũ trụ.
Như vậy, hình tượng con người vũ trụ trong dòng chảy văn học
trung đại Việt Nam đã cho chúng ta thấy được quan niệm về con người
của các tác giả trung đại. Con người đó là một cá thể vũ trụ, mang dấu ấn
vũ trụ, thiên nhiên qua đất trời, mây nước, cỏ cây, muông… với cái đạo
vững bền, sâu thẳm của nó. Đây là nét khu biệt không thể lẫn so với các
kiểu con người trong các thời kì sau của văn học.
3.2. Con người đạo đức
Toàn bộ xã hội trung đại được nhìn nhận trong một hệ thống tôn
giáo đạo đức. Cho nên, con người luôn được nhìn nhận ở phương diện
đạo đức luân lí. Vì thế, văn chương xưa chia xã hội thành hai tuyến: thiện
– ác, tốt – xấu với mục đích, chức năng nổi bật là giáo huấn:
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.”
(Nguyễn Đình Chiểu – Lục
Vân Tiên)
7


Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
Chính vì vậy, con người sống theo luân lí đạo đức, theo lí trí thì

được coi là chân chính; còn những người sống theo xúc cảm, theo những
luân lí trần thế, nhân bản thì bị coi thường, chê trách.
Bên cạnh đó, con người trong văn học trung đại còn là con người
của tấm lòng, con người của chí khí và việc tỏ lòng, tỏ chí khí là nét đặc
trưng của họ. Bởi vậy, cái có giá trị nhất của con người thuộc về tấm
lòng, muốn đánh giá về một con người là xem tấm lòng của họ như thế
nào. Trong Truyện Kiều, để “tỏ lòng” hiếu thảo, Kiều đã bán mình chuộc
cha. Đó là một hành động phi thường, trên thực tế nàng có thể vay tiền
chuộc cha, nhưng như thế thì quá bình thường. Tương tự, Kiều Nguyệt
Nga cũng thể hiện tấm lòng trinh liệt của mình khi ôm bức chân dung
Vân Tiên nhảy xuống sông tự vẫn.
Như vậy, sự “tỏ lòng” là rất quan trọng trong văn học trung đại.
Chính nó đã làm cho hệ thống sự kiện trở nên gay gắt, căng thẳng hơn
chứ không hề xây dựng được cốt truyện đơn thuần trên những việc bình
thường hàng ngày.
Nguyễn Trãi, vị anh hùng dân tộc, vào thế kỷ thứ XV, là một nhà
quân sự thiên tài, nhà chính trị lỗi lạc, một nhà văn hóa vĩ đại của dân
tộc. Trong tác phẩm Gia huấn ca, ông đã đề cao đạo đức luân lí trong
mối quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội. Đạo hiếu được nhấn mạnh
rất rõ:
“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy
Đừng tranh giành bên ấy, bên này
Cù Lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.”
Còn phận làm con đối với cha mẹ thì:
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
8



Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
Người đà vô sự ta thì an tâm”.
Trong truyện Nôm, các nhân vật luôn luôn bày tỏ tấm lòng rất rõ
rệt. Các nhân vật tự trừu tượng hóa, đem tấm lòng ra đối diện với nhau.
Trong Truyền kỳ mạn lục hình tượng con người đạo đức cũng được xuất
hiện, có thể kể đến nhân Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên. Với hình ảnh người trí thức Tử Văn có tính tình cương trực, dũng
cảm “thấy sự gian tà thì không chịu được” Nguyễn Dữ hướng đến đề cao
con người của công lý, chính nghĩa, đồng thời phê phán và trừng trị
những kẻ phi đạo đức, xảo quyệt, làm hại nhân dân.
Tóm lại, cùng với con người vũ trụ, hình tượng con người đạo đức
cũng xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học trung đại. Qua đó góp
phần làm phong phú thêm hệ thộng nhân vật của một thời kỳ văn học.
3.3. Con người đấng bậc
Cùng với mô hình con người vũ trụ và con người đạo đức là thái
độ tôn xưng với những con người tài tình, phân biệt với những người
khác. Trong văn học trung đại còn tồn tại một quan niệm khác về con
người đó là quan niệm về con người đấng bậc. Điều này được thể hiện rõ
nét nhất là trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Cách miêu tả
của Nguyễn Du chịu sự chi phối của quan niệm đấng bậc về con người.
Trong quan niệm của ông, những con người như Kim Trọng, Thúy Kiều,
Từ Hải là những “đấng”, những “bậc” đáng kính trọng. Họ là “đấng tài
hoa” (Đạm Tiên); “bậc tài danh” (Kim Trọng); “bậc bố kinh” (Thúy
Kiều); “đấng anh hùng” (Từ Hải)... Đối với những nhân vật ấy, tác giả
dành cho những lời trang trọng, tượng trưng. Còn bọn Tú Bà, Mã Giám
Sinh là bọn vô loài, bọn chúng không có mẫu mực gì cả, mỗi đứa một vẻ,
đều là “tuồng” vô lại. Bọn chúng được miêu tả theo đặc tính thực tế về
nghề nghiệp cá nhân theo kiểu “Thoắt trông nhờn nhợt màu da”, hoặc:
“Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”… rất hiện thực.


9


Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
Như vậy, con đường đi đến chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du rất
độc đáo, theo kiểu phương Đông. Cách “quan niệm về con người” này
chi phối một giai đoạn rất dài của Văn học Việt Nam gần mười thế kỷ.
3.4. Con người có ý thức cá nhân
Con người cá nhân trong văn học chính là sự phản ánh cái tôi, là sự
giãi bày, diễn tả thế giới tư tưởng, tình cảm riêng tư của tác giả. Nói cách
khác, con người cá nhân trong văn học chính là sự tự khắc họa tâm tư,
tình cảm, ý chí của tác giả được thể hiện thông qua những tác phẩm mà
họ sáng tác. Tùy theo từng giai đoạn, thời kỳ văn học, mà con người cá
nhân có những đặc điểm khác nhau.
Riêng đối với văn học trung đại con người cá nhân cũng được thể
hiện ở mức độ đậm nhạt và qua nhiều bình diện khác nhau. Cụ thể, ý thức
về con người cá nhân trong văn học trung đại Việt Nam trải qua hai giai
đoạn với những hình thái khác nhau. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVIII về cơ
bản con người cá nhân được “khẳng định trên bình diện tinh thần, như
một thực thể tinh thần, siêu nghiệm dưới các hình thức tu dưỡng, lựa
chọn xuất xử, hoàn thiện nhân cách, tự hạn chế nhu cầu vật chất, tự đối
lập với thói tục. Con người cá nhân tự khẳng định mình bằng cách gắn
mình với đạo, với tự nhiên, với nghĩa vụ trong sự nghiệp chung của của
cộng đồng. Yếu tố quyền lợi cá nhân chưa được chú ý [3;194]. Còn từ thế
kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, “con người trong văn học đã kêu to lên nhu
cầu về quyền sống cá nhân, quyền hưởng hạnh phúc cá nhân như một
quyền tự nhiên” [3;194].
Ví như, con người cá nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài
năng (thơ Hồ Xuân Hương); con người với nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng

tư, tâm sự u uẩn (thơ Nôm Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,...); con
người thể hiện cảm hứng sống ẩn dật, hành lạc (thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Hàng); con người với tình yêu lứa đôi, hạnh phúc, khát vọng nhu
cầu trần thế (Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái và Truyền kỳ mạn
10


Quan niệm về con người trong văn học trung đại Việt Nam
lục); Con người cá nhân với niềm lo sợ tuổi trẻ chóng tàn (Chinh phụ
ngâm), Con người cá nhân công danh hưởng lạc ngoài khuôn khổ (thơ
văn Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát); Con người cá nhân giải thoát
bằng hưởng lạc (thơ ca trù cuối thế kỉ XIX), Con người cá nhân trống
rỗng, mất hết ý nghĩa (thơ Nguyễn Khuyến,…
Qua quá trình khảo sát ta có thể khẳng định rằng, con người cá
nhân trong văn học trung đại Việt Nam có một quá trình tự ý thức chậm
chạp, lâu dài nhưng mạnh mẽ. Tuy qua từng thời kì lịch sử có chịu ảnh
hưởng của ý thức hệ thống trị đương thời nhưng không bao giờ đóng
khung trong ý thức hệ đó, mà phản ánh quá trình vận động, giải phóng cá
tính của con người trong thực tế đời sống.
KẾT LUẬN
Có ý kiến cho rằng, mọi sự thay đổi trong văn học đều bắt nguồn
từ sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Do vậy, đi sâu
khám phá quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học trung đại
Việt Nam là bước đi ngắn nhất để chúng ta đến gần với cái bản chất nội
tại của tác phẩm, nắm được sự thay đổi, cách tân và vận động của cả một
giai đoạn, một thời kì văn học trung đại, đồng thời nêu bật được sức hấp
dẫn của thời kì văn học này cũng như khẳng định những giá trị không lỗi
thời của nó về sau.

11




×