Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tóm tắt bài giảng môn kinh tế học phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.65 KB, 56 trang )

TÓM TẮT BÀI GIẢNG KINH TẾ HỌC PHÁT TRIỂN
ChươngI: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VẾ TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I Phân chia các nước theo trình độ phát triển
1.Sự hình thành thế giới thứ ba
Cho tới 1945, nhiều quốc gia Tây Âu, nhất là các nước Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ,…còn
kiểm soát những thuộc địa rộng lớn.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều nước ở Châu Á châu Phi, Mỹ La tinh giành
được độc lập dân tộc, có những cố gắng trong phát triển kinh tế với đường lối “độc
lập tự chủ” nhằm giảm bớt sức ép từ các nước phát triển vốn đã từng là “chính quốc”
của họ.Các nước này được gọi là “Thế giới thứ ba”?!
2 Phân chia các nước theo trình độ phát triển.
-Về mặt kinh tế, các nước thuộc thế giới thứ ba còn được gọi là các nước “đang
phát triển”. Khái niệm này xuất hiện vào những năm 1960.
. Xuất phát từ trình độ phát triển và những đặc trưng trong quá trình vận động, Ngân
hàng thế giới đề nghị sắp xếp các nước trên thế giới thành 4 nhóm: các nước công
nghiệp phát triển, các nước mới công nghiệp hóa, các nước đang phát triển, các
nước xuất khẩu dầu mỏ.
Bảng 1: Phân loại các nước theo trình độ phát triển
Các chỉ tiêu,
thông số để phân
loại
1-Giai đoạn kinh tế

2-Thu nhập bình
quân/người/năm

3-Về cơ cấu kinh
tế kỹ thuật

4-Về mặt thể chế



Các nước công nghiệp
phát triểnDCs

Các nước mới công nghiệp
hóaNICs

Các nước đang phát triển
LDCs

-Đã công nghiệp hóa, đi
vào giai đoạn trưởng thành

-Đã
công
nghiệp
hóa
trongthời kỳ đặc biệt những
nắm1960-1980, đang ở giai
đầu của trưởng thành về kinh
tế.
-Trên 6.000USD

-Đang hoặc chưa công
nghiệp hòa,đang ở giai
đoạn cất cánh hoặc trước
cất cánh

-Định hình và chuyển dịch
nhanh theo các lợi thế.

-Kỹ thuật hiện đại.
-Cơ cấu ngành chuyển dịch
theo hướng dịch vụ-công
nghiệp-nông nghiệp.
-Tỷ trọng xuất khẩu chiếm
ưu thế trong GDP

-Định hình và chuyển dịch
nhanh theo các lợi thế.
-Kỹ thuật hiện đại, có sự kết
hợp thích dụng các loại hình
kỹ thuật.

-Đang trong quá trình điều
chỉnh cơ cấu kinh tế kỹ
thuật.
-độ chuyển dịch nhỏ

-Cơ cấu ngành chuyển dịch
theo hướng công nghiệpdịch vụ-nông nghiệp

-Cơ cấu ngành đang trong
thời kỳ nông nghiệp- công
nghiệp-dịch vụ.

-Các truyền thống, tập tục
lạc hậu suy giảm nhanh.
-Hệ thống quản lý hoàn
thiện theo sự tiến bộ của


-Các truyền thống, tập tục lạc
hậu suy giảm nhanh.
-Hệ thống quản lý hoàn thiện
theo sự tiến bộ của môi

-Nhiều truyền thống tập tục
lạc hậu đang đè nặng
,thậm chí quyết định sự
phát triển.

-Trên 10.000USD

1

-Bao gồm ba nhóm:
* Thu nhập bình quân trong
khoảng 2.000-6.000USD
*Thu nhập bình quân từ
600-2000USD
*Thu nhập bình quân dưới
600USD


môi trường kinh tế
-Đã thiết lập mạng các
quan hệ kinh tế-thể chế với
bênngoài, hoạt động có
hiệu quả

trường kinh tế

-Đã thiết lập mạng các quan
hệ kinh tế-thể chế với
bênngoài, hoạt động có hiệu
quả.
-Đang tìm cách nối kết các
quan hệ kinh tế-thể chế với
các nước phát triển và đang
phát triển

-Đang tìm cách nối kết các
quan hệ kinh tế-thể chế với
các nước phát triển và
đang phát triển

*Các nước xuất khẩu dầu mỏ (Hầu hết các nước này đề gia nhập tổ chức OPEC).
II. Đặc trưng của các nước đang phát triển
1-Những khác biệt giữa các nước đang phát triển
1-Quy mô đất nước (Dân số, diện tích ), 2-Điều kiện lịch sử - tự nhiên, 3-Vai trò của
khu vực Nhà nước và tư nhân,4-Việc lựa chọn đồng minh và sự giúp đỡ của các
đồng minh,…
2- Những đặc điểm chung của các nước đang phát triển
Bên cạnh những khác biệt, LDCs có những giống nhau cơ bản là:
(1)-Mức sống thấp, (2)-Tỷ lệ tích lũy nhỏ, (3)-Trình độ kỹ thuật lạc hậu, (4)-Năng
suất lao động thấp.
Những đặc điểm này tác động, quy định lẫn nhau, tạo nên "vòng luẩn quẩn” của đói
nghèo và chậm phát triển.

Thu nhập thấp

Năng suất

thấp

Tỷ lệ tích lũy
thấp
Trình độ kỹ thuật
lạc hậu

Hình 1:Vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ
2


III. Tổng quan về tăng trưởng và phát triển kinh tế .
1.Tăng trưởng kinh tế
1.1.Khái niệm
-Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất
định (thường là một năm).
Gần đây, khái niệm này được định nghĩa theo hướng mở rông :
-Tăng trưởng là sự gia tăng sản lượng quốc gia trong một thời kỳ nhất định, đồng
thời là sự gia tăng các nhân tố sản xuất được sử dụng, trong điều kiện trạng thái kinh
tế vĩ mô tương đối ổn định.
1.2.Đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng người ta sử dụng một hệ thống chỉ tiêu có tính chất phối
hợp và bổ sung cho nhau:
(1) Chỉ tiêu phản ánh quy mô và tốc độ tăng trưởng:
-Quy mô sản lượng quốc gia tăng thêm:∆G, G là sản lượng quốc gia,
- Tốc độ tăng của sản lượng
∆IG= :∆G/G
Trong đó: I là chỉ số phát triển của sản lượng
∆I là chỉ số tăng hay là tốc độ tăng của sản lượng
(2) Chỉ tiêu phản ánh quy mô và tốc độ các nhân tố sản xuất được sử dụng:

K, IK ; L, IL; R;, IR;…
(3) Chỉ tiêu thu nhập bình quân /người-năm.
(4) Chỉ tiêu phản ánh tính ổn định kinh tế vĩ mô.
Từ thực tế nghiên cứu và quản lý, cần phải trả lời câu hỏi:
Thứ nhất, Các thông số chỉ số trên đây ở trong giới hạn nào thì trạng thái
kinh tế vĩ mô được coi là ổn định?
Thứ hai, Việt nam tăng trưởng ở mức độ nào, trạng thái kinh tế vỹ mô ra
sao trong thời gian gần đây?
Thứ ba, các loại hình giá được sử dụng trong đo lường tăng trưởng?

3


Một số trường hợp tăng trưởng cần chú ý:
1-Tăng trưởng không gia tăng việc làm.
2- Tăng trưởng thô bạo.
3- Tăng trưởng không biết đến ngày mai.
4- Tăng trưởng không ổn định: Là sự tăng trưởng, theo thờì gian xuất hiện tình
trạng lạm phát cao hoặc thâm hụt ngân sách lớn hoặc nhập siêu quá nhiều,…
5- Tăng trưởng hiệu quả.
Khi nghiên cứu các trường hộp tăng trưởng đặc biệt trên, hãy thử xác
định nguyên nhân và hậu quả của nó về kinh tế, xã hội nếu duy trì chúng
trong dài hạn?
2 Phát triển kinh tế
2.1. Khái niệm:Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến (lớn lên) về mọi mặt của
nền kinh tế, là quá trình biến đổi nhiều mặt về kinh tế, xã hội và cấu trúc theo hướng
tiến bộ. Như vậy, phát triển bao gồm các nội dung cơ bản:
-Phát triển là một quá trình, bao gồm sự thay đổi số lượng và chất lượng kinh
tế, xã hội và cấu trúc.
-Phát triển bao hàm quá trình tăng trưởng tương đối ổn định, dần đi vào hiệu

quả
-Nội hàm của phát triển là chuyển dịch mặt bằng kinh tế, xã hội và giai đoạn
kinh tế.
2.2.Đo lường phát triển kinh tế
Để đo lường phát triển người ta cũng dùng hệ thống chỉ tiêu:
(1) Các chỉ tiêu vế tăng trưởng kinh tế
(2) Các chỉ tiêu về thay đổi cơ cấu kinh tế
(3) Các chỉ tiêu phát triển xã hội và phản ánh cơ cấu xã hội
(4) Các chỉ tiêu về nghèo đói và bất bình đẳng
(5) Các chỉ tiêu phản ánh những giá trị chung mà nhân loại hằng theo đuổi.
III Phát triển bền vững
Từ những năm 1970-1980, tình trạng suy kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường
xuất hiện có tính toàn cầu.
-Năm1987, lần đầu tiên WB đưa ra khái niệm phát triển bền vững:”là sự phát
triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng
nhu cầu của các thế hệ tương lai,…”
-Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững ở Johannesbug (Nam
Phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết
hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: tăng trưởng
kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá
sự phát triển bền vững là tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và
công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên,
bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.

4


IV Các chiến lược phát triển

4.1.Khái niệm chiến lược

Thuật ngữ chiến lược bắt nguồn từ lĩnh vực quân sự,sau này được vận dụng
váo lĩnh vực quản lý kinh tế với nội hàm thích hợp:
-Chiến lược là phương châm và kế hoạch có tính chất toàn cục, xác định mục
tiêu chủ yếu và sự sắp xếp lực lượng cả một thời kỳ của cuộc đấu tranh chính trị xã
hội (Từ điển tiếng việt)
-Chiến lược là đường hướng hoặc kế hoạch kết hợp các mục tiêu lớn, chính
sách và các chương trình hành động thành một thể thống nhất.(Quinn 1980).
-Chiến lược là kế hoạch, mưu lược, mẫu hình vị thế và tầm nhìn.
(Mintzberg,1987)
Có thể kết luận: Chiến lược là công cụ quản lý có tính định hướng căn bản cho một
giai đoạn kinh tế, gồm nhiều bộ phận hợp thành, phản ánh các mục tiêu (dài hạn) cho
một giai đoạn kinh tế, các phân kỳ với những mục tiêu tương ứng, hướng hoàn thiện
các công cụ, các giải pháp quản lý; các nguồn lực cơ bản cần tạo ra và sử dụng,
cùng với các mục tiêu về chính trị- xã hội-d
4.2.Phân loại chiến lược
Chiến lược được xây dựng, quản lý theo nhiều hình thức (tiêu thức) khác nhau.
Điều này do tính hệ thống và tính đa chiều trong tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Trong
thực tế ở một giai đoạn người ta thường lấy một chiến lược nào đó làm căn bản,
trong từng trung hạn người ta bổ sung vào đó những nội dung cần thiết hợp lý của
các chiến lược khác. Vì vậy thường nói việc xây dựng và quản lý chiến lược ngày
nay có tính hỗn hợp.
4.2.1.Xét theo thị trường căn bản: Có hai loại hình chiến lược
-Chiến lược phát triển hướng ngoại
-Chiến lược phát triển hướng nội
4.2.2.Xét theo mức độ ưu tiên về đầu tư và tạo lợi thế tương quan cho các
nhóm ngành thông qua chính sách:
- Chiến lược phát triển từ thượng lưu xuống hạ lưu
- Chiến lược phát triển từ hạ lưu lên thượng lưu
-chiến lược phát triển toàn bộ
-Chiến lược phát triển theo công đoạn

4.2.3. Xét theo mức độ ưu để đáp ứng các nhu cầu trong các thời kỳ:
-Chiến lược đáp ứng nhu cầu cơ bản
-Chiến lược phát triển đa dạng hóa
4.2.4. Xét theo mức độ tác động của chính phủ
- Chiến lược phát triển áp đặt hành vi
- Chiến lược phát triển hỗn hợp
V. So sánh chiến lược phát triển hướng nội và phát triển hướng ngoại
5


Đây là hai loại hình chiến lược được nhiều nước lựa chọn làm chiến lược căn
bản sau khi đã nỗ lực thiết lập sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Bảng 2: So sánh một số nội dung của hai chiến lược
Chiến lược phát triển
hướng nội

Chiến lược phát triển
hướng ngoại

1-Xét về thị trường

- Lấy thị trường nội địa làm căn
bản để xác định cơ cấu sản xuất và
các ưu tiên trong chính sách,…

- Lấy thị trường nội địa làm căn bản
để xác định cơ cấu sản xuất và các
ưu tiên trong chính sách,…

2-Đặc trưng về cơ cấu và phương

thức vận động

-Sau khi tập trung phát triển các
ngành để đáp ứng nhu cầu cơ bản
chuyển sang phát triển đa dạng về
mặt hàng và cấp độ kỹ thuật
-Thường phát triển từ thượng lưu
xuống hạ lưu

-Tập trung vào một số ngành có
sức cầu lớn ở bên ngoài về quy mô
và tốc độ mà nền kinh tế có lợi thế

3-Các ưu tiên trong chính sách

-Có hệ thống chính sách giải pháp
bảo hộ bảo trợ, tạo lợi thế tương
đối cho các ngành hướng nội
-Khuyến khích nhập hàng đầu tư
so với hàng tiêu dùng
- Đầu tư chính phủ có vai trò dẫn
dắt, khơi gợi đầu tư và lấp lỗ trống
thiếu hụt về hàng hóa, dịch vụ

- Phối hợp chính sách tạo lợi thế
tương đối cho các ngành hướng
ngoại và xuất khẩu
- tăng cường phối hợp về chính
sách với các nước, các tổ hợp tài
chính-kinh tế quốc tế


4- Mặt tích cực

-Tạo nhiều việc làm
-Cho phép kết hợp tăng trưởng với
công bằng
-Giảm bớt sức ép từ bên ngoài

-Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả
cao, cho phép cân bằng có hiệu
quả sản xuất với tiêu dùng cuối
-Cơ cấu mặt hàng-kỹ thuật linh
hoạt với từng khu vực thị trường
-Du nhập nhanh và thích dụng kỹ
thuật công nghệ, kiến thức kinh
doanh và quản lý

5-Mặt hạn chế

-Tốc độ tăng trưởng và hiệu quả
giảm dần
-Tính cạnh tranh yếu, có tình trạng
ỷ lại vào bảo hộ và trợ cấp của
chính phủ

-Có sự phân hóa nhanh thu nhập
giữa các ngành, vùng, các tầng lớp
dân cư
-Việc làm tăng chậm
-Chịu nhiều tác động của thị trường

thế giới

Các nội dung so sánh

6

-Phương thức vận động không rõ
nét nếu xét trong trung hạn


-Câu hỏi nghiên cứu sâu:
1-Trong điều kiện một nước gia nhập WTO, hoặc AFTA, nếu muốn duy trì một
ngành nào đó phát triển hướng nội là chính, những trở ngại nào sẽ gặp phải và cần
phải có những giải pháp nào để phát triển ngành đó mà không vi phạm các cam kết
quốc tế?
2-Trong thời kỳ 1986 đến nay, Việt Nam đã lấy những chiến lược nào làm căn
bản?Trong từng trung hạn đã bổ sung vào đó những nội dung hợp lý, cần thiết của
những chiến lược nào?
CHƯƠNG II:CÁC LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
A CÁC MÔ HÌNH VÀ LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I. MÔ HÌNH CỔ ĐIỂN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.Điểm xuất phát của mô hình
Adam Smith được coi là người khai sinh của khoa học kinh tế, với tác phẩm
“Của cải của các nước”. ông trình bày những nội dung cơ bản :
-Học thuyết về “giá trị lao động”: Lao động chứ không phải đất đai, tiền bạc là
nguồn gốc cơ bản tạo ra mọi của cải cho đất nước.
-Học thuyết “Bàn tay vô hình” của thị sẽ đưa mọi người đến những cái tốt đẹp.
-Về vai trò của chính phủ ông viết:” Hãy để mặc tất cả, hãy để mọi sự việc xẩy
ra. Dầu nhờn của lợi ích cá nhân sẽ làm cho các bánh xe kinh tế hoạt động một

cách gần như kỳ diệu. Không ai cần kế hoạch, không cần quy tắc, thị trường sẽ giải
quyết tất cả…”.
-Ông cũng đưa ra lý thuyết về phân phối thu nhập, theo nguyên tắc "ai có gì
được nấy”…." đây là nguyên tắc phân phối công bằng, hợp lý.
2.Các yếu tố tăng trưởng kinh tế và quan hệ giữa chúng
Nếu Adam Smith là người khai sinh, thì David Ricardo là đại diện xuất sắc của
trào lưu kinh tế học cổ điển. Ricardo cho rằng:
-Nông nghiệp là ngành quan trọng nhất, theo đó các yếu tố cơ bản của tăng
trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Trong từng ngành, với một trình độ kỹ
thuật nhất định, các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định.
-Trong ba yếu tố của tăng trưởng, đất đai là quan trọng nhất, do đó đất đai là
giới hạn của tăng trưởng. Để tăng trưởng, liên tục hóa sự vận động của nền kinh tế,
chỉ có thể xuất khẩu hàng công nghiệp để nhập khẩu nông phẩm, đặc biệt là lương
thực, hoặc phát triển công nghiệp để tác động vào nông nghiệp.
3.Phân chia các nhóm người trong xã hội và thu nhập của họ
Tương ứng với các yếu tố tăng trưởng, Ricardo chia xã hội thành các nhóm
người: địa chủ, nhà tư bản, công nhân. Phân phối thu nhập của mõi nhóm phụ
thưộc quyền sở hữu của họ với các yếu tố sản xuất:
- Địa chủ có đất sẽ nhận được địa tô
- Công nhân có sức lao động thì nhận đượctiền công
- Tư bản có vốn sẽ nhận được lợi nhuận.
Do vậy, thu nhập của xã hội là tổng thu nhập của các tầng lớp dân cư, nghĩa là bằng:
tiền công + lợi nhuận + địa tô.
7


Trong các nhóm người của xã hội, các nhà tư bản giữ vai trò quan trọng trong
sản xuất và phân phối, đặc biệt họ là tầng lớp chính thực hiện tích lũy cho phát triển
sản xuất.
4.Quan hệ cung cầu và vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng

Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng, thị trường với bàn tay vô hình dẫn dắt đã gắn
lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, làm linh hoạt giá cả và tiền công, tự hình thành và
điều chỉnh các cân đối kinh tế, bảo đảm công việc làm đầy đủ. Đây là quan điểm
cung tạo nên cầu.
Hình 2:

ADO

AD1

Yo

GDP

Trong mô hình này, đường cung AS luôn là đường thẳng đứng ở mức sản lượng
tiềm năng. Đường cầu AD thực chất là đường biểu thị hàm cung tiền, được xác định
bởi mức giá, không quan trọng với việc hình thành sản lượng. điều này cũng có
nghĩa là các chính sách kinh tế không có tác động đáng kể vào hoạt động kinh tế.
Tác giả còn cho rằng:
-Chính sách kinh tế nhiều khi lại hạn chế khả năng phát triển kinh tế.
-Với các khoản chi tiêu của Chính phủ, các nhà kinh tế cổ điển cho đó là những
chi tiêu “không sinh lời”.
-Những người làm việc trực tiếp và gián tiếp tạo ra sản phẩm là những lao
động sinh lời, còn những người khác là lao động không sinh lời.Do những hoạt
động không sinh lời này mà khả năng phát triển kinh tế bị giảm bớt.
II MÔ HÌNH CỦA K. MARX VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.Các yếu tố tăng trưởng kinh tế
8



Theo Marx, (1818-1883) các yếu tố tác động đến quá trính tái sản xuất là đất
đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật.
- Về yếu tố lao động: Tác giả cho rằng lao động là yếu tố duy nhất tạo ra giá trị
thặng dư. Thời gian lao động của công nhân chia ra hai phần. Tỷ lệ m/v phản ánh
mức độ bóc lột công nhân của nhà tư bản.
-Về yếu tố kỹ thuật: Do tăng thời gian lao động, giảm tiền lương của công nhân
có giới hạn. Cho nên tăng năng suất lao động thông qua cải tiến kỹ thật là con
đường cơ bản để tăng khối lượng giá trị thặng dư và quy mô kinh tế.
Marx nhấn mạnh:
-Tiến bộ kỹ thuật là làm tăng mức trang bị kỹ thật cho công nhân, vì vậy cấu tạo
hữu cơ (c/v) cũng ngày càng tăng lên.
-Để trang bị kỹ thuật, nhà tư bản phải đầu tư thông qua phân chia giá trị thặng
dư thành phần tiêu dùng cho cá nhân và phần cho tích lũy. Đây là nguyên lý của
tích lũy tư bản chủ nghĩa.
2. Sự phân chia giai cấp trong xã hội
-Cũng như Ricardo, Marx cho rằng, khu vực sản xuất của cải vật chất cho xã
hội gồm ba nhóm người: địa chủ, nhà tư bản và công nhân. Tương ứng thu nhập
của ba nhóm người này là địa tô, lợi nhuận, tiền công.
-Khác với Ricardo, Marx cho rằng phân phối này là bất hợp lý, mang tính chất
bóc lột.
3.Các chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng
Marx đứng trên lĩnh vực sản xuất để nghiên cứu và phân chia:
-Hoạt động xã bao gồm 2 hai lĩnh vực, chỉ có lĩnh vực sản xuất mới sáng tạo ra
sản phẩm xã hội.
- Sản phẩm xã hội biểu hiện dưới2 hình thái hiện vật và giá trị.
- Sản phẩm xã hội bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng.
-Trên cơ sở phân chia trên tác giả đưa ra chỉ tiêu tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân.
4.Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế
-Marx bác bỏ quan điểm cung tạo ra cầu và sự bế tắc của tăng trưởng do giới

hạn về đất đai của các tác giả cổ điển.
-Mác cho rằng, nguyên tắc cơ bản của sự vận động tiền và hàng trên thị
trường là phải bảo đảm thống nhất giữa hiện vật và giá trị.
- Khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản thường là khủng hoảng thừa do cung
tăng nhanh để tối đa hóa lợi nhuận trong khi sức cầu tăng chậm bởi tích lũy tư bản.
Khủng hoảng là một “giải pháp” để lập lại thế cân bằng Khủng hoảng diễn ra với
những phân kỳ và đặc điểm của nó.
-Chính sách kinh tế của chính phủ có vai trò quan trọng, đặc biệt là chính sách
khuyến khích, nâng cao sức cầu hiện có.
III. MÔ HÌNH TÂN CỔ ĐIỂN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Nội dung cơ bản của mô hình
Trường phái kinh tế “tân cổ điển” đứng đầu là Marshall, có những điểm thống
nhất với trường phái cổ điển, đồng thời có những điểm mới:
-Bác bỏ quan điểm của trường phái cổ điển cho rằng trong một tình trạng
nhất định, tỷ lệ kết hợp của các yếu tố sản xuất là không thay đổi.
9


- Cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công và có nhiều cách kết hợp
các yếu tố sản xuất.
- Đưa ra quan điểm “phát triển kinh tế theo chiều sâu” trên cơ sở trang bị
kỹ thuật tăng nhanh hơn lao động và tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản thúc
đẩy phát triển kinh tế.
- Nền kinh tế có hai đường tổng cung:AS-LR phản ánh sản lượng tiềm năng,
còn đường AS-SR phản ánh khả năng thực tế.
- Mặc dù vậy, họ cũng nhất trí với các nhà kinh tế cổ điển là nền kinh tế luôn
cân bằng ở mức sản lượng tiềm năng bởi sự linh hoạt của giá cả và tiền công đưa
nền kinh tế về lại sản lượng tiềm năng.
- Chính sách kinh tế của Chính phủ không thể tác động vào sản lượng, nó chỉ
ảnh hưởng đến mức giá cả, do vậy vai trò Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển

kinh tế.

PL

AS-LR
AS-SR

2.Mô hình Cobb –Douglas
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng
thông qua hàm số sản xuất. Cobb-Douglas là tác giả đã đề xuất mô hình được nhiều
người thừa nhận và ứng dụng trong phân tích tăng trưởng. Mô hình này phản ánh
mối quan hệ giữa sự tăng lênY0của đầu ra với sựGDP
tăng lên của các yếu tố đầu vào vốn,
lao động, tài nguyên, khoa học công nghệ.
Xuất phát từ hàm sản xuất nguyên tắc:Y=F(K, L, R, T)
Trong đó: Y:Đầu ra, chẳng hạn GDP
K:Vốn sản xuất
LSố lượng nhân lực được sử dụng
R:Tài nguyên thiên nhiên huy động vào hoạt động kinh tế
T: Khoa học công nghệ
Tác giả đã đưa ra mô hình thực nghiệm:
Y=KαLβ.Rγ.T, Trong đó α, β, γ là các số lũy thừa, phản ánh tỷ lệ cận
biên các chi phí của yếu tố đầu vào, ( α + β + γ = 1). Sau khi biến đổi, tác giả thiết lập
được mối quan hệ giữa kết quả tăng trưởng phụ thuộc và các yếu tố như sau:
g = kα+ lβ + r γ +t t
10


Trong đó: g, Tốc độ tăng trưởng của sản lượng,
k, l, r : tốc độ tăng các yếu tố đầu vào

t: phần dư tăng trưởng do tác động của khoa học công nghệ.
Như vậy, hàm Cobb- Douglas cho biết 4 yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế và
cách thức, mức độ đóng góp của mỗi yếu tố này là khác nhau. Các tác giả cũng cho
rằng, khoa học công nghệ có vai trò quan trọng nhất với tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
IV MÔ HÌNH KEYNES VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.Nội dung mô hình
Vào những năm 30 của thế kỷ 20, Khủng hoảng kinh tế 1929-1933 cho thấy
học thuyết “ tự do điều tiết “ của thị trường và ”bàn tay vô hình” của trường phái cổ
điển và tân cổ điển đã không còn sức thuyết phục.
Năm 1936, trong tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của
J.Keynes đánh giá sự ra đời một học thuyết mới.
1.1.Sự cân bằng của nền kinh tế: -J.Keynes cho rằng:
-Nền kinh tế có xu hướng tự điều chỉnh đi đến cân bằng ở một mức sản lượng
nào đó dưới mức công ăn việc làm đầy đủ cho tất cả mọi người, tại nơi mà những
khoản chi tiêu mới cho đầu tư được hình thành từ tiết kiệm bắt đầu được bơm vào
hệ thống kinh tế.
-Có hai đường tổng cung: AS-LR phản ánh mức sản lượng tiềm năng và ASSR phản ánh khả năng thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở mức
sản lượng tiềm năng, thông thường sản lượng thực tế đạt ở mức cân bằng nhỏ hơn
mức sản lượng tiềm năng (YO
PL
AS-LR

AS-RS

PL0

AD
Y0 Y*


GDP

Hình 3:Sự cân bằng kinh tế theo J.Keynes
.2.Vai trò của tổng cầu trong việc xác định sản lượng
Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng trong việc kéo theo sản lượng thực
tế:
- Khi thu nhập tăng lên thì xu hướng tiết kiệm trung bình cũng tăng lên và xu
hướng tiêu dùng trung bình sẽ giảm xuống kết quả là giảm cầu tiêu dùng. Đây là
nguyên nhân của trì trệ trong kinh tế.
11


-Mặt khác, đầu tư quyết định quy mô việc làm. Nhưng quy mô đầu tư lại phụ
thuộc lãi suất cho vay và hiệu suất cận biên của vốn. Ông viết:”Sự thúc đẩy tăng sản
lượng phụ thuộc vào sự tăng lên của hiệu suất cận biên của một khối lượng vốn nhất
định so với lãi suất” .
-Tác giả đã đề xuất nhiều hình thức hoạt động để kích thích và tăng tổng cầu
và việc làm. Do đó lý thuyết này còn được gọi là lý thuyết trọng cầu.
3. Vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng
Từ phân tích tổng quan, Keynes đi đến kết luận: Muốn thoát khỏi khủng hoảng,
thất nghiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách, đặc
biệt là những chính sách nhằm kích thích và tăng cầu tiêu dùng.
Ông đề nghị:
-Chính phủ sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư (thông qua các đơn đặt
hàng của chính phủ, trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp).
-Áp dụng nhiều biện pháp để tăng lợi nhuận, giảm lãi suất.
-Tăng khối lượng tiền trong lưu thông, lạm phát có mức độ
-Coi trọng hệ thống thuế, áp dụng thuế thu nhập lũy tiến để làm cho phân phối
công bằng hơn.

-Coi trọng đầu tư của Chính phủ vào khu vực công cộng, trợ cấp tất nghiệp,…
như là một loại bơm trợ lực khi đầu tư tư nhân giảm sút.
V. MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG HARROD-DOMAR
Dựa vào tư tưởng của J.Keynes, vào những năm 40 của thế kỷ 20, Harrod và
Domar độc lập nghiên cứu, cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa thất
nghiệp và sản lượng ở các nước đang phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng để
xem xét quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu về vốn.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào đều phụ thuộc vào vốn
đầu tư dành cho nó.
Nếu gọi đầu ra làY, tốc độ tăng trưởng của nó là g, K là vốn sản xuất, I là vốn
sản xuất tăng thêm do đầu tư mà có, S là khối lượng tiết kiệm,
Trong đó: g= ∆Y/Yt ; s=St/Yt ; St=It; s=It/Yt ; It=∆Kt+n; k=∆Kt+n/∆Y= It/∆Y.
Với những giả thiết và điều kiện trên, qua biến đổi sẽ có:

g = s/k

Ở đây, k là hệ sốICOR (hệ số gia tăng vốn và đầu ra ). Hệ số này nói lên để tăng một
đơn vị sản lượng cần có thêm bao nhiêu đơn vị tiết kiệm ( cùng có nghĩa là phải có
bao nhiêu đơn vị đầu tư tăng thêm). Hệ số này cũng cho biết trình độ kỹ thuật của
sản xuất.
Tuy vậy, các nhà kinh tế trường phái tân cổ điển cũng phê phán mô hình này ở
các nội dung sau:
-Tăng trưởng trong thực tế không chỉ duy nhất là do đầu tư
12


-Nếu đầu tư có tăng lên, nhưng đầu tư sai về mục tiêu và địa điểm,…thì chưa
chắc có tăng trưởng.
VI. LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ HIỆN ĐẠI
Dựa vào lý thuyết của Keynes, Chính phủ nhiều nước đã linh hoạt trong sử dụng

các chính sách để hạn chế lạm phát, thất nghiệp, làm tăng sản lượng thực tế. Sau
một thời kỳ, do quá nhấn mạnh vai trò của chính sách, vai trò tự điều tiết của thị
trường bị xem nhẹ. Nhiều trở ngại mới cho tăng trưởng đã xuất hiện. Trong bối
cảnh đó, một trường phái kinh tế mới đã ra đời, mà người đại diện là
P.A.Samuelson với tác phẩm ”Kinh tế học”-1948. Ngày nay, hầu hết các nền kinh tế
đều vận động theo cơ chế hỗn hợp với nội hàm là nền kinh tế vừa chịu tác động
của các chính sách và công cụ quản lý vừa chịu tác động cùa các lực của thị
trường. Liều lượng “pha trộn” hai lực này do hoàn cảnh kinh tế, xã hội của từng
nước, từng thời kỳ và nhận thức của Chính phủ. Vì vậy học thuyết của Samuelson
được coi là cơ sở của lý thuyết tăng trưởng hiện đại. Nội dung cơ bản của lý thuyết
này là:
1.Sự cân bằng kinh tế
-Kinh tế học hiện đại cũng thừa nhận sự cân bằng kinh tế theo quan điểm của
Keynes, nghiã là điểm cân bằng không nhất thiết ở mức sản lượng tiềm năng, mà
thường ở dưới mức sản lượng đó.
-Trong khi nền kinh tế hoạt động bình thường vẫn có thể có thất nghiệp và lạm
phát. Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát ở mức chấp nhận được.
2.Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế
-Lý thuyết tăng trưởng hiện đại cũng thống nhất với trường phái tân cổ điển về
các yếu tố tác động dến sản xuất: K,L,R,T, và thống nhất cách phân tích tăng trường
của Cobb-Douglas. Họ coi các yếu tố này là nguồn gốc của sự tăng trưởng.
-Lý thuyết này cũng đồng ý với lý thuyết tân cổ điển ở các vấn đề: quan hệ
giữa các yếu tố, nhà sản xuất kinh doanh có thể lựa chọn kỹ thuật và tỷ lệ kết hợp
giữa các yếu tố, vai trò của đầu tư với tăng trưởng. Samuelson nhấn mạnh: kỹ thuật
công nghiệp tiên tiến, hiện đại dựa vào sử dụng vốn lớn. Vốn là cơ sở để sử dụng
các yếu tố khác.
-Các lực lượng hướng dẫn tổng cầu bao gồm các nhân tố như mức giá, thu
nhập, dự kiến về tương lai cũng như các biến số về chính sách như thuế khóa, chi
tiêu của chính phủ, lượng cung tiền,…
3.Vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế

-Lý thuyết tăng trưởng hiện đại cho rằng thị trường là nhân tố, là lực lượng cơ
bản điều tiết các hoạt động của nền kinh tế. Sự tác động qua lại giữa tổng mức cung
và tổng mức cầu tạo ra mức thu nhập thực tế, công ăn việc làm - tỷ lệ thất nghiệp,
mức giá – tỷ lệ lạm phát, đây là những cơ sở để giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ
chức kinh tế.
-Một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế hiện đại là Chính phủ trở
thành trung tâm để đinh hướng, phối hợp các hoạt động của toàn xã hội; ổn định và
cân bằng tổng chể; kích thích, tạo nhân tố mới cho sự phát triển.
- Vai trò Chính phủ tăng lên không chỉ vì những thất bại của thị trường mà còn
do xã hội đặt ra những yêu cầu mới cao hơn.
-Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp, Chính phủ có bốn chức
năng cơ bản: Thiết lập khuôn khổ pháp luật; xác lập chính sách ổn định kinh tế vĩ mô,
13


tác động vào việc phân bổ tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế; thiết lập các
chương trình tác động tới phân phối thu nhập.
Vì vậy Chính phủ cần:
* Tạo môi trường ổn định để các tác nhân kinh tế kinh doanh thuận lợi.
* Đưa ra những định hướng cơ bản về phát triển kinh tế với những hướng ưu
tiên cần thiết cho từng phân kỳ, sử dụng các công cụ quản lý, các chương trình để
hướng dẫn các ngành, các doanh nghiệp hoạt động
* Tìm cách duy trì công việc làm ở mức cao thông qua chính sách thuế, tiền tệ
và chi tiêu hợp lý.
* Khuyến khích đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, chống ô nhiễm
và bảo vệ môi trường.
* Điều tiết, phân phối lại thu nhập.
* Thực hiện các chương trình phúc lợi công cộng và phúc lợi xã hội.
B. CÁC LÝ THUYẾT PHÁT TRIỂN
-Trong ba tiêu thức đánh giá phát triển, cơ cấu kinh tế được coi là tiêu thức

phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu cơ bản để đánh giá các giai đoạn phát triển
của nền kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế được thể hiện (và nghiên cứu quản lý) dưới nhiều hình thức,
trong đó cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Vì nó phản ánh phân công lao động (của
mỗi quốc gia và cả quốc tế) và sự phát triển của lực lượng sản xuất, thể hiện rõ nét
ba vấn đề cơ bản của fổ chức kinh tế.
-Chỗ khác nhau căn bản của các lý thuyết, mô hình tăng trưởng với các lý
thuyết phát triển là lý thuyếtnày đề cập đến nội dung và phương thức chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.Cơ cấu ngành kinh tế: Là tương quan giữa trong tổng thể kinh tế, phản
ánh quan hệ và tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với
nhau. Các ngành này được hình thành, vận động trong những điều kiện nhất định về
kinh tế, xã hội và thể chế, hướng vào những mục tiêu nhất định.
Cơ cấu ngành được thể hiện ở các nội dung sau:
-Thứ nhất, đó là số lượng các ngành chủ yếu của nền kinh tế.
Về nguyên tắc, để nghiên cứu và quản lý chính xác trong phạm vi cần thiết, cho
phép ngành phải là ngành “sạch”. Nhưng thực tế, số lượng ngành không cố định, và
nếu theo tiêu chuẩn sạch thì số lượng lại rất lớn.Vì vậy phải dựa vào phương pháp
phân chia và hợp nhất ngành để có số lượng ngành cần thiết, đủ lớn.
-Thứ hai, đó là mối quan hệ tương tác giữa các ngành về số lượng và chất
lượng. Mặt số lượng thể hiện ở tỷ trọng (của sản lượng,vốn, nhân lực) mà mổi ngành
tạo hoặc sử dụng trong tổng thể kinh tế. Mặt chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan
trọng và tính chất tác động qua lại giữa các ngành với nhau. Sự tác động qua lại giữa
các ngành có thể trực tiếp hoặc gián tiếp…Nói chung mối quan hệ giữa các ngành
luôn biến đổi theo đà phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội,
và sự thay đổi cơ cấu tiêu dùng cuối cùng.
14



-Thứ ba, là các xu hướng có tính quy luật hoặc xu hướng ưu tiên (do quản lý)
trong chuyển dịch cơ cấu ngành.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành
Cơ cấu ngành kinh là phạm trù động, thay đổi theo từng thời kỳ phát triển, do
sự thay đổi của các nhân tố quy định nó. Ngày nay, khoảng thời gian trung bình cần
thiết để cơ cấu ngành kinh tế định hình, chuyển dịch, đạt mục tiêu có xu hướng rút
ngắn lại.
Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình thay đổi cơ cấu ngành từ trạng thái này
sang trạng thái khác trong những điều kiện xác định. Sự chuyển dịch này thường
phải đạt tiến bộ hơn. Quá trình này bao gồm sự thay đổi số lượng ngành, tỷ lệ mỗi
ngành, vị trí, tính chất của từng ngành trong hệ thống.
Về mặt phương pháp luận, chúng ta phải thiết lập các tiêu chuẩn (bao gồm các
chỉ tiêu thích ứng) và phương pháp đánh giá tính tiến bộ của cơ cấu ngành:
Bảng:3 Đánh giá tính tiến bộ của cơ cấu nghành
Tiêu chuẩn (hay vấn
đề)đánh giá
I Tiêu chuẩn có tính chất
thường xuyên
1-Số lượng các ngành chủ
yếu
2-Tăng trưởng
3-Chuyển dịch cơ cấu

4-Tính ổn định kinh tế vĩ mô
-Lạm phát
-Thâm hụt ngân sách
-Thất nghiệp

Chỉ tiêu đánh giá


-Tốc độ tăng sản lượng (của GDP,
GNP)
-Tỷ lệ và mức độ thay đổi tỷ lệ của các
ngành
-Tổng chuyển dịch của các ngành
-Chỉ số giá cả (hàng hóa, dịch vụ theo
danh mục quy ước)
-Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trong sản
lượng
-Tỷ lệ thất nghiệp trong dân số hoạt
động
-Tỷ lệ tích lũy và tích lũy nội địa

Phương pháp đánh giá

-So với kế hoạch, với kỳ trước,với
kinh nghiệm chung
-------------------------

-Tỷ lệ tích lũy
5-Thu nhập
6-Hiệu quả
II Các tiêu chuẩn không
thường xuyên
(Là những tiêu chuẩn hay
vấn đề có tính đặc thù của
một giai đoạn kinh tế, hoặc
của một phân hệ kinh tế được
thể bằng những chỉ tiêu cụ
thể )


-Thu nhập bình quân /người-năm
-Thu nhập của ngân sách

---------

-Năng suất lao động
-

-----

-

15


II.CÁC LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN
1.Những vấn đề có tính quy luật trong chuyển dịch cơ cấu ngành
1.1.Quy luật tiêu dùng của E.Engel
Từ thế kỷ 19,trên cơ sở thực
nghiệm Engel đã phát hiện tính quy luật giữa thu nhập và phân phối thu nhập cho các
nhu cầu cá nhân. Đường Engel là đường biểu thị mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu
dùng cá nhân về một loại hàng hóa cụ thể:

Tiêu dùng hàng
hóa i
Đường Engel

Thu nhập
Hình đường Engel

Độ dốc của đường cong tại bất kỳ điểm nào chính là xu hướng tiêu dùng biên của hàng hóa đó
và cho thấy tỷ số thay đổi tiêu dùng so với thay đổi thu nhập

Bằng thực nghiệm, Engel nhận thấy rằng:
-Khi thu nhập của các hộ gia đình đạt đến một mức độ nào đó thì tỷ lệ chi tiêu
cho lương thực thực phẩm giảm xuống.Chức năng chính của khu vực nông nghiệp là
sản xuất lương thực, thực phẩm. Từ xu hướng trên, có thể suy ra tỷ trong nông
nghiệp trong sản lượng quốc gia sẽ giảm dần, khi thu nhập đạt đến mức nhất định.
-Quy luật Engel về tiêu dùng lương thực thực phẩm đã gợi ý hướng nghiên
cứu cho các hàng hóa khác.
-Các nhà kinh tế gọi hàng hóa nông sản là hàng hóa thiết yếu, hàng hóa công
nghiệp là hàng hóa lâu bền, cung cấp dịch vụ là hàng hóa cao cấp. Qua nghiên cứu
họ phát hiện tính quy luật sau: Trong quá trình gia tăng thu nhập, tỷ lệ chi tiêu
cho hàng hóa thiết yếu có xu hướng giảm, tỷ lệ chi tiêu cho hàng hóa lâu bền
có xu hướng tăng lên, nhưng tăng nhỏ hơn tốc độ tăng thu nhập, còn tỷ lệ chi
tiêu cho hàng hóa chất lượng cao có xu hướng ngày càng tăng. Đến một mức
thu nhập nào đó, tốc độ tăng tiêu dùng lớn hơn tóc độ tăng thu nhập.
1.2.Quy luật tăng năng suất lao động của A. Fischer
Phân chia nền sản xuất thành 3 khu vực và dựa vào đặc tính kinh tế kỹ thuật
của các ngành, tác giả cho rằng:
-Nông nghiệp là ngành dễ thay thế nhân lực bằng máy móc và các phương
thức canh tác hiện đại, do đó năng suất lao động tăng lên, nhu cầu nông phẩm cho
16


xã hội được bảo đảm, trong khi đó vẫn có thể giảm tương đối và tuyệt đối nhân lực
nông nghiệp trong cơ cấu nhân lực theo ngành.
-Công nghiệp khó thay thế nhân lực hơn so với nông nghiệp và hệ số co dãn
cầu tiêu dùng sản phẩm của ngành này lại luôn luôn dương (> 0 ), vì vậy, tỷ trọng
nhân lực hoạt động trong công nghiệp có xu hướng tăng lên.

- Dịch vụ, cũng do đặc tính kinh tế-kỹ thuật, là ngành có rào cản lớn nhất trong
thay thế nhân lực bằng máy móc và khi nền kinh tế ở trình độ cao thì độ co dãn cầu
dịch vụ lại càng lớn hơn1 (> 1 ). Do vậy, tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ sẽ tăng
lên và tăng ngày càng nhanh.
1.3.Xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Từ những cơ sở lý thuyết đã nêu ở trên, có thể rút ra các xu hướng có tính quy
luật của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là:
-Xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn chuyển một nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp phải chuyển từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công – nông nghiệp để từ đó chuyển sang nền kinh tế công
nghiệp phát triển.
-Trong ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành sản xuất các sản phẩm có dung
lượng vốn cao ngày càng tăng và tăng nhanh; tỷ trọng các ngành sản xuất các sản
phẩm có dung lượng lao động cao sẽ giảm dần.
-Trong các ngành dịch vụ, các ngành có chất lượng cao như ngân hàng, bảo
hiểm, giáo dục, du lịch,…có tốc độ tăng trưởng cao và tỷ trọng ngày càng tăng trong
sản lượng ngành cũng như toàn bộ.
Cần chú y rằng, trong xu hướng chung đó, mỗi nước có mức độ chuyển dịch
có thể khác nhau bởi sự quy định của nhiều nhân tố khác nhau về tự nhiên, nhân lực,
hoàn cảnh lịch sử kinh tế- xã hội, điểm xuất phát và mức độ, trình độ hợp tác quốc tế.
II.Lí thuyết phát triển theo giai đoạn
Đây là lý thuyết phát triển đề cập đến phương thức, chuyển dịch cơ cấu ngành.
Lý thuyết này còn có các tên gọi “Mô hình suy diễn lịch sử”hoặc “ Lý thuyết cất cánh”.
Trong cuốn ”Các giai đoạn phát triển kinh tế”, nhà lịch sử kinh tế người Mỹ
W.W.Rostow đã đưa ra một cách phân tích theo tiến trình lịch sử phát triển từ những
bước khởi đầu của các nền kinh tế. Theo tác giả, các quốc gia trong quá trình phát
triển có thể phải trải qua 5 giai đoạn và có thể có giai đoạn thứ 6. Mỗi giai đoạn có
những đặc trưng về cơ cấu kinh tế, thể chế phản ánh bản chất của giai đoạn kinh tế
đó.
Việc nghiên cứu các giai đoạn kinh tế nhằm làm rõ các vấn đề:Dưới những tác

động nào, một nền kinh tế cổ truyền có thể đi vào quá trình hiện đại hóa; những lực
lượng nào đã thúc đẩy quá trình tăng trưởng; những đặc trưng cơ bản của từng giai
đoạn phát triển; những lực lượng nào tác động đến mối quan hệ giữa các khu vực
trong quá trình tăng trưởng.
Giai đoạn1-Xã hội truyền thống cũ
Giai đoạn này được định nghĩa là giai đoạn dựa trên khoa học, công nghệ tiền
Niu ton. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là: nông nghiệp là ngành kinh tế thống
17


trị, mang nặng tính tự cung, tự cấp; năng suất thấp; kỹ thuật lạc hậu, thủ công là
chính; tích lũy thấp và không ổn định (gần như là con số không); hoạt động xã hội
kém linh hoạt, nhiều lề thói, tập tục lạc hậu đang đè nặng lên các hoạt động kinh tế
xã hội.
Tuy vậy, kinh tế xã hội không hoàn toàn tĩnh tại vẫn có đi lên, nhưng chậm
chạp. Cơ cấu ngành lấy nông nghiệp làm căn bản. Do vậy đi nhanh ra khỏi giai đoạn
này là khó khăn, lâu dài không chỉ do các vấn đề kinh tế mà còn do các vấn đề thể
chế,đặc biệt là các thể chế có tính chất tự nguyện của các cộng đồng dân cư, cộng
đồng sắc tộc,…
Giai đoạn 2- Chuẩn bị cất cánh
Giai đoạn này được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống cũ và cất
cánh, với nội dung cơ bản là chuẩn bị những điều kiện tiên quyết để đi vào cất cánh.
Những đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là: Những hiểu biết về khoa học–kỹ thuật
đã bắt đầu được ứng dụng vào trong các ngành;giáo dục được mở rộng và có những
cải tiến phù hợp với sự phát triển; cầu đầu tư tăng lên thúc đẩy sự ra đời của hệ
thống ngân hàng và các hình thức tín dụng; trao đổi hàng hóa nội địa và với bên
ngoài đã thúc đẩy sự hình thành cơ sở hạ tầng về vận tải và thông tin liên lạc;…
Tuy vậy, các hoạt động này chưa đủ sức có tính chất là lực đẩy đưa nền kinh tế
ra khỏi nền kinh tế năng suất thấp, còn đậm dấu ấn của nền kinh tế cổ truyền. Cơ cấu
ngành vẫn là nông - công nghiệp.

Giai đoạn 3- Cất cánh (Take off)
Đây là giai đoạn trung tâm trong phân tích của tác giả về các giai đoạn kinh tế.
Thuật ngữ này hàm ý đất nước đã bước vào giai đoạn phát triển hiện đại và ổn định,
đã tích tụ và tạo ra được những điều kiện về kinh tế, xã hội và thể chế, có tính chất là
những lực nội sinh để vận động theo những yêu cầu có tính quy luật của giai đoạn
kinh tế đó.
Những yếu tố cơ bản (điều kiện) bảo đảm cho sự cất cánh là:
-Huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết, tỷ lệ tiết kiệm tăng lên, vượt 10%
thu nhập quốc dân thuần túy, huy động vốn đầu tư bên ngoài, để kéo theo sự du
nhập, đuổi bắt tiến bộ khoa học công nghệ,…nhờ đó tác động nhanh vào các ngành,
kể cả nông nghiệp,…
-Công nghiệp giữ vai trò đầu tàu, tăng trưởng cao, bắt đầu có hiệu quả và ổn
định, kéo theo sự tăng trưởng các ngành và các lĩnh vực khác,…kể cả nhận thức và
lối sống của con người
-Hợp tác hóa , thương mại hóa, đô thị hóa phát triển nhanh,..
Cơ cấu ngành của giai đoạn này là công nghiệp – nông nghiệp- dịch vụ. Theo
tác giả giai đoạn này kéo dài khoảng 20 - 30 năm.
Giai đoạn 4- Trưởng thành về kinh tế
Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là : tỷ lệ đầu tư tăng liên tục,chiếm khoảng
20% thu nhập quốc dân thuần túy; khoa học công ngệ được hấp thụ, tạo ra ứng dụng
trong tất cả các ngành, lĩnh vực, của đời sống kinh tế - xã hội; nền kinh tế “hòa mạng”
có hiệu quả với kinh tế thế giới. Tác giả dự đoán giai đoạn này kéo dài khoảng 60
năm. Cơ cấu ngành giai đoạn này là công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp.
18


Giai đoạn 5 -Tiêu dùng hàng loat ở mức cao
Trong giai đoạn này có hai xu hướng cơ bản về kinh tế: Thứ nhất, thu nhập
bình quân đầu người tăng nhanh, dân cư ngày càng giầu có kéo theo cầu hàng hóa
dịch vụ chất lượng cao tăng lên. Thứ hai cơ cấu nhân lực, đặc biệt là nhân lực có

trình độ cao và dân cư thay đổi theo hướng tăng ở khu vực thành thị. Về mặt xã hội,
các chính sách hướng vào tăng phúc lợi xã hội nhằm kích thích tiêu dùng hàng lâu
bền, chất lượng cao và giảm bớt bất bình đẳng. Theo tác giả, đây là giai đoạn lâu dài
nhất, nước Mỹ có thể phải mất 100 năm để hoàn thành cơ bản giai đoạn này. Cơ cấu
ngành có thể là dịch vụ- công nghiệp.
Ngoài 5 giai đoạn trên đây, tác giả còn dự báo nhưng chưa đưa vào phân tích
là có thể có giai đoạn 6 với tên gọi ”theo đuổi chất lượng cuộc sống”.
Nhận xét lý thuyết phát triển theo giai đoạn
Lý thuyết này có những hạn chế như: chưa làm rõ cơ sở của sự phân chia các giai
đoạn và sự thống nhất trong việc đưa ra các đặc trưng mỗi giai đoạn; coi sự vận
động là một quá trình tịnh tiến mà không có những “lổ hổng” hoặc thời cơ. Dù vậy,
W.W.Rostow đã đưa ra sự suy diễn lịch sử, cung cấp một tầm nhìn của sự vận động
kinh tế. Đặc biệt, trên phương diện quan hệ giữa phát triển và chuyển dịch cơ cấu thì
đây là một tầm nhìn hợp lý.
III Mô hình hai khu vực cảa Athus Levis
3.1. Đặt vấn đề
Vào những năm 1950 nhà kinh tế học người Mỹ gốc Jamaica A.Levis trong
cuốn “Lý thuyết về phát triển” đã đưa ra các giải thích về mối quan hệ giữa công
nghiệp và nông nghiệp trong quá trình tăng trưởng dưới tên gọi “Mô hình hai khu vực
cổ điển”. Mô hình này được Jon Fei và Gustar Ranis chính thức hóa, áp dụng những
năm 1960 để phân tích tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. Do những
đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế, A.Lewis đã nhận được giải thưởng Nobel
về kinh tế.
Tác giả đã xuất phát từ cách nhìn của Ricardo:
-Thứ nhất, khu vực nông nghiệp có lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô (và
tiến tới bằng không), do quy mô sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng đòi hỏi phải sử
dụng ruộng đất ngày càng xấu hơn, làm tăng chi phí cho một đơn vị xuất lượng, đồng
thời số và lượng đơn vị đất đai là có giới hạn.
- Hai là, trong khi ruộng đất có xu hướng cạn kiệt thì nhân lực sử dụng (và phải
sử dụng) tiếp tục tăng lên làm cho hiện tượng dư thừa nhân lực ngày càng phổ biến.

(Ricardo cũng phân biệt dư thừa nhân lực ở nông thôn về hình thức khác với dư thừa
nhân lực ở thành thị).
Với hai vấn đề nêu trên, Ricardo kết luận rằng nông nghiệp mang tính trì trệ
tuyệt đối, cần giảm dần quy mô, tỷ lệ đầu tư, chuyển nhân lực dư thừa vào công
nghiệp và mở rộng quy mô, tốc độ của công nghiệp để tiếp tục duy trì tăng trưởng.
Trong quá trình này, có thể thể thu hút nhân lực từ nông nghiệp mà không cần tăng
lương đáng kể để tăng tích lũy phụ thêm cho công nghiệp, khuyến khích tái đầu tư
phát triển công nghiệp, góp phần làm cho lợi nhuận biên khu vực này tăng dần. Đây
là cơ sở trong nghiên cứu của mô hình hai khu vực của Lewis.
TPM
19


TPA2= f(K,T,LA2)

TP3=f(k3,l3)

TPA 3
TPA 2

TP2=f(k2l2)
TP2=f(k2,l2)

TPA 1

TPA2=f(K,T,LA1

LA 1

LA 2


LA 3

TP1=f(k1,l1)
LA

3.2 Nội dung mô hình
a- Bắt đầu từ khu vực nông nghiệp (khu vực truyền thống)
Sơ đồ hàm sản xuất nông nghiệp cho thấy sản lượng phụ thuộc vào vốn, công
nghệ, nhân lực. Với giả định vốn, kỹ thuật, công nghệ thay đổi không đáng kể, trong
khi đó nhân lực sử dụng L có thay đổi. Sản lượng tăng dần tùy theo mức sử dụng
nhân lực. Đến lúc nào đó sản tượng sẽ tăng chậm dần và không tăng nữa, dù có
tăng nhân lực (ở mức LA3) . Điều này do giới hạn của đất đai và sức sản xuất của cây
trồng quy định.
b-Khu vực hiện đại (công nghiệp)
Để mở rộng hoạt động, ngoài các yếu tố vốn, kỷ thuật,…khu vực công nghiệp
phải thu hút thêm nhân lực từ nông nghiệp với mức tiền công cao hơn mức tiền công
tối thiểu trong nông nghiệp mà họ hiện đang được hưởng. Theo tác giả, mức trả cao
hơn khoảng 30% so với mức tiền công tối thiểu .
Sơ đồ hàm sản xuất công nghiệp cho thấy, trong điều kiện dư thừa nhân lực
trong nông nghiệp, khu vực công nghiệp có một khoảng thời gian và số lượng nhân
lực mà ở đó khi thu nhận thêm nhân lực không phải tăng thêm mức tiền công. Ứng
với mỗi mức kết hợp vốn và nhân lực sẽ có một đường biểu diễn sản lượng. Khu vực
công nghiệp tiếp tục mở rộng sản xuất, cho đến khi nhân lực trở nên khan hiếm thì
khu vực này phải tăng tiền lương lên một tỷ lệ nhất định. Đến một lúc nào đó, tính
khan hiếm nhân lực chính trong nông nghiệp sẽ xuất hiện, giá cả nông phẩm tăng
lên,quan hệ trao đổi có lợi cho nông nghiệp. Theo thời gian, quan hệ công nông
nghiệp sẽ thích ứng, tính nhị nguyên giảm dần, cả hai khu vực đều phải đầu tư chiều
sâu để duy trí tăng trưởng.
IV Mô hình hai khu vực của Harry T. Ôshima

Ôshima là nhà kinh tế người Nhật, trong tác phẩm”Tăng trưởng kinh tế ở các
nước châu Á gió mùa” đã đưa ra những quan điểm mới về phát triển và mối quan hệ
công-nông nghiệp, dựa trên những khác biệt về tự nhiên, kinh tế, xã hội, thể chế,…
của các nước châu Á so với các nước Âu-Mỹ. Những khác biệt đó là:
- Nền kinh tế nông nghiệp lấy cây lúa nước làm chính, có tính thời vụ cao.
- Có tình trạng vừa dư thừa vừa thiếu nhân lực.
- Tích lũy thấp và không ổn định.
- Cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu tính hệ thống và liên kết các vùng.
- Nhiều lề thói, tập tục lạc hậu đang chi phối và đè nặng lên các hoạt động kinh
tế-xã hội…
20


1.Cách đặt vấn đề của Ôshima
Trước khi đưa ra mô hình, tác giả phân tích có tính phê phán về tính hiện thực
của các mô hình đã có, đặc biệt là mô hình của Lewis và đưa ra các lập luận sau:
-Dư thừa nhân lực trong nông nghiệp là một thực tế nhưng khu vực nông
nghiệp lúa nước châu Á không phải lúc nào cũng xẩy ra, đặc biệt là thời vụ đỉnh
cao.Do vậy nếu theo Lewis, việc chuyển nhân lực vào công nghiệp sẽ ảnh hưởng
đến sản lượng, giá cả và bảo đảm tính thời vụ của nông nghiệp.
-Trong khi đồng ý với trường phái tân cổ điển về việc phải đồng thời quan tâm
đầu tư ngay từ đầu cho cả hai khu vực và đồng ý với Ricardo về một mô hình phát
triển phải bắt đầu từ một nền nông nghiệp có hiệu quả hoặc từ khả năng xuất khẩu
sản phẩm công nghiệp để nhập khẩu nông phẩm. Nhưng tác giả coi đây là mô hình
dài hạn, bởi vì các nước đang phát triển đang bị ràng buộc bởi mặt bằng xuất phát
thấp, mất cân đối nhiều mặt, đặc biệt là về phương diện vốn, nhân lực trình độ cao,
kỹ năng quản lý, khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
-Từ những vấn đề trên, tác giả đã phân tích mối quan hệ hai khu vực trong sự
quá độ từ một nền kinh tế nông nghiệp chiếm ưu thế sang nền kinh tế công nghiệp.
2. Nội dung mô hình

Với mục tiêu, giảm dần và xóa bỏ tính nhị nguyên, hướng tới một nền kinh tế
phát triển, Oshima đưa ra hướng quan tâm đầu tư (đầu tư theo nghĩa rộng) theo các
giai đoạn với những mục tiêu (và nội dung ) xác định cho từng giai đoạn nằm tạo ra
những điều kiện có tính chất là lực nội sinh để chuyển dịch nhanh cơ cấu theo hướng
tiến bộ.
a-Giai đoạn bắt đầu quá trình tăng trưởng:Tạo việc làm (và thu nhập) thời kỳ
nhàn rỗi, theo hướng tăng đầu tư phát triển nông nghiệp.
Ở khu vực châu Á gió mùa, nông nghiệp có tính thời vụ cao, thất nghiệp mang
tính thời vụ lại càng trầm trọng khi sản xuất mang tính độc canh, quy mô nông trại
nhỏ, phân tán, tư liệu sản xuất hiện có non yếu. Do vậy mục tiêu của giai đoạn đầu
trong quá trình tăng trưởng là gia tăng việc làm và thu nhập của khu vực nông
nghiệp, đặc biệt là thời kỳ nhàn rỗi.
Giải pháp hợp lý để thực hiện mục tiêu này là:
- Chấp nhận tình trạng dư thừa nhân lực để đáp ứng cầu nhân lực lúc thời vụ
đỉnh cao, đa dạng hóa sản xuất để khai thác lợi thế tự nhiên, gia tăng việc làm, ổn
định và tăng thu nhập.
-Tăng đầu tư hỗ trợ của Chính phủ vào cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và các cơ
sở phục vụ sản xuất nông nghiệp, để dẫn dắt lôi kéo đầu tư vào nông nghiệp và nông
thôn.
-Xây dựng và cải tiến các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ ở nông thôn.
Việc phối hợp các biện pháp trên đây với hình thức, liều lượng và thời gian
thích hợp sẽ tạo ra đáng kể “lực nội sinh” làm cho nông nghiệp tăng trưởng và đi vào
ổn định mà không cần nhiều vốn và các yếu tố khác so với đầu tư ngay từ đầu vào
công nghiệp.
Ở giai đoạn này, việc tập trung đầu tư có hiệu quả vào sản xuất lương thực có
ý nghĩa quan trọng, nhằm khởi đầu cho tăng trưởng. Vì nó đáp ứng cầu hàng hóa
21


thiết yếu, giảm nhập khẩu lương thực (để tăng nhập hàng đầu tư), tạo điều kiện gây

sức ép đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp.
Dấu hiệu phản ánh sự kết thúc giai đoạn này là chủng loại và sản lượng nông phẩm
ngày càng nhiều trong khi chỉ số giá cả lại ổn định; cầu các yếu tố đầu vào của nông
nghiệp tăng với quy mô và tốc độ cao; nhu cầu thực sự về chế biến nông phẩm trên
quy mô lớn với kỹ thuật hiện đại đã xuất hiện. Điều này cũng có nghĩa là nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô lớn đã xuất hiện, nhu cầu phát triển công nghiệp,
dịch vụ, thương mại với quy mô, hình thức thích ứng đã ra đời.
b-Giai đoạn hai: Hướng tới toàn dụng nhân lực thông qua đầu tư phát triển đồng
thời nông nghiệp và công nghiệp
Xuất phát từ mục tiêu trên, theo tác giả tiêu điểm của giai đoạn này là tập trung
đầu tư phát triển nông nghiệp, công nghiệp và cả dịch vụ theo chiều rộng với giải
pháp cụ thể là:
-Tiếp tục đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, gắn với quy mô lớn.
-Phát triển các ngành công nghiệp,tiểu thủ công nghiệp chế biến nông phẩm,
hàng tiêu dùng và các sản phẩm công nghiệp là đầu vào cho nông nghiệp( phân bón,
thưốc trừ sâu,…) với loại hình và cấp độ kỹ thuật thích ứng với sức cầu.
-Thiết lập mối liên hệ giữa sản xuất, chế biến, tiêu thụ, cùng các loại hình dịch
vụ tài chính, ngân hàng.
- Xây dựng các hình thức nông trại, hợp tác xã sản xuất, kinh doanh tổng hợp.
Kết quả là sự phát triển nông nghiệp đã tạo thị trường cho công nghiệp, dịch vụ
và thúc đẩy sự ra đời và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất và liên kết kinh tế
tiến bộ.Gắn liền với quá trình trên là sự di dân từ nông thôn vào thành thị, hình thành
các loại đô thị, tạo quy mô tới hạn về các mặt để phát triển các dịch vụ kinh tế, văn
hóa, xã hội.

22


Quá trình này diễn ra liên tục trong nhiều năm. Dấu hiệu cơ bản cho thấy sự
kết thúc giai đoạn này là :hình thành nhiều ngành công nghiệp dịch vụ, tỉ trọng sản

lượng, nhân lực và dân cư nông nghiệp giảm xuống, tương ứng là sự tăng lên của tỷ
trọng sản lượng công nghiệp, dịch vụ, nhân lực và dân cư thành thị; tốc độ tăng việc
làm lớn hơn tốc độ tăng nhân lực, dung lượng thị trường nhân lực bị thu hẹp, tiền
lương thực tế tăng lên.
c- Giai đoạn ba: Sau khi có việc làm đầy đủ - phát triển kinh tế theo chiều sâu
nhằm giảm cầu về nhân lực.
Quá trình công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển diễn ra qua nhiều bước
với nội dung thích hợp ở mỗi bước. Kết quả giai đoạn 2 trong mô hình Oshima như
đã nói ở trên cho thấy nền kinh tế đã thiết lập được các quan hệ cân đối căn bản, đi
vào tăng trưởng ổn định, thị trường đã bắt đầu vận hành có hiệu quả. Với mục tiêu
đặt ra, nền kinh tế sẽ vận hành theo các phương hướng:
-Chuyển hướng mục tiêu phát triển các ngành từ hướng nội là chính sang
hướng nội có hiệu quả hơn và hướng ngoại.
- Đa dạng hóa sản phẩm và thị trường.
- Mở rộng quy mô và loại hình dịch vụ, coi trọng dịch vụ cao cấp, dịch vụ
hướng vào nông nghiệp, nông thôn.
Những thay đổi trên đây làm cho cơ cấu kinh tế chuyển nhanh sang sử dụng các lợi
thế, phát triển linh hoạt, tình trạng thiếu nhân lực đã trở nên phổ biến. Để tiếp tục
phát triển, giảm cầu về nhân lực, cùng với các giải pháp trên, phải chuyển hướng
phương thức phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu trên toàn bộ nền kinh tế với nội
dung cụ thể là:
-Tăng trang bị kỹ thuật và áp dụng các phương pháp canh tác tiến bộ để tăng
sản lượng, giảm tương đối và tuyệt đối cầu về nhân lực trong nông nghiệp để bổ
sung nhân lực cho công nghiệp, dịch vụ.
-Chuyển công nghiệp hướng nhanh sang xuất khẩu, đầu tư phát triển các
ngành có dung lượng vốn cao.
Tác giả cũng nhấn mạnh rằng, quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế phải
dựa trên động lực tích lũy và đầu tư đồng thời ở hai khu vưc, trong đó lấy nông
nghiệp làm điểm xuất phát. Và như vậy, việc tăng trưởngkinh tế không dẫn đến phân
hóa nhanh về xã hội và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.

So sánh hai lý thuyết về hai khu vực
Các mặt so sánh
1- Mục tiêu của lý thuyết

Lý thuyết của Oshima
-Thúc đẩy tăng trưởng,
tăng việc làm, giảm dần và
xóa bỏ tính nhị nguyên
- Đạt cơ cấu kinh tế tiến bộ

Lý thuyết của A. Lewis
-Thúc đẩy tăng trưởng,
tăng việc làm, giảm dần và
xóa bỏ tính nhị nguyên
-Đạt cơ cấu kinh tế tiến bộ

2-Điểm xuất phát và điều - Bắt đầu từ nông nghiệp
kiện
- Phải hỗ trợ từ chính phủ
trong đầu tư cơ sở hạ tầng
3-Mối quan hệ giữa tăng
- Phải ổn định sản xuất

- Bắt đầu từ công nghiệp
- Chính phủ ủng hộ chế độ
tiền lương tăng chậm trong
công nghiệp.

23



trưởng và công bằng xã lương thực
hội.
- Coi trọng công tạo
việc làm ngay trong
nghiệp
-Vừa khuyến khích
3- Nguồn vốn đầu tư
trưởng vừa coi trọng
bằng. Coi trọng
trưởng bắt đầu từ
nghiệp.

4- Về liệu pháp

- Tạo những điều kiện để
công di chuyển nhân lực thuận
nông lợi từ nông thôn vào thành
thị
tăng
công
-Coi trọng tăng trưởng
tăng trước. Bắt đầu từ công
nông nghiệp

- Coi trọng khơi nguồn từ
nông nghiệp và các nguồn
khác.
- Chính phủ phải hỗ trợ
đầu tư cho cơ sở hạ tầng

để lôi kéo dẫn dắt đầu tư
toàn xã hội
-Coi trọng liệu pháp tuần
tự, tạo ra các điều kiện có
tính nối kết,tạo ra lực nội
sinh

-Coi trọng tích lũy và tích
lũy phụ thêm do chế độ
tiền lương tăng chậm.
-Khuyến khích đầu tư và
tái đầu tư.
-Coi trọng liệu pháp tăng
tốc trong công nghiệp

V.Lý thuyết phát triển cân đối và không cân đối
A. Lý thuyết phát triển cân đối
1.Cách đặt vấn đề
Các nhà kinh tế thuộc trường phái hiện đại cho rằng, trong nền kịnh tế thị
trường hiện đại xuất hiện những vấn đề mới, tác động mạnh đến việc hình thành và
vận động các cân đối lớn ở tầm vĩ mô:
-Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và khả năng nhận diện sự vận động
của nền kinh tế thông qua các “tín hiệu thị trường” để ra các quyết định của các tác
nhân ngày càng cao. Họ có những lựa chọn và hành động để đạt tới “sự mong đợi
hợp lý”.Trong điều kiện đó, những mục tiêu của chính sách nhằm vào ngắn hạn nhiều
khi rất khó đạt được .
-Việc hình thành quy mô và tốc độ của một ngành và giữa các ngành phụ thuộc
vào các mối liên hệ về phía trước và phía sau, đồng thời đòi hỏi phải có thời gian
nhất định. Do vậy, các tín hiệu thị trường là một trong những căn cứ quan trọng để
Chính phủ điều chỉnh các quan hệ đó theo mục tiêu của chiến lược phát triển.

-Quy mô, loại hình cầu về mỗi loại hàng hóa dịch vụ đòi hỏi phải thích ứng với
thu nhập, tập quán tiêu dùng, thị hiếu của các tác nhân.Trong điều kiện sự phân hóa
thu nhập giữa các ngành, các nhóm dân cư còn lớn thì thị trường phải là lực chính
quy định cầu về các giỏ hàng hóa cụ thể. - Nguồn tài nguyên rất đa dạng, mỗi
24


loạitài nguyên thường đáp ứng cầu với một cấp độ nhất định. Nếu kế hoạch và các
chính sách phát triển các hàng hóa dịch vụ theo hướng cô đặc vào một số nhóm nhất
định, theo đó sẽ có một số tài nguyên hoặc một bộ phận của nguồn tài nguyên nào
đó sẽ thiếu hoặc không có điều kiện kết chuyển có hiệu quả vào các hàng hóa dịch
vụ.
- Quốc tế hóa và toàn cầu hóa làm cho dung lượng thị trường được mở rộng,
cơ cấu cung cầu thay đổi linh hoạt, chu kỳ vận động của các lợi thế và bất lợi thế có
xu hướng rút ngắn lại, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng hình thành và vận động trên cơ
sở cân bằng theo lợi thế.
-Chức năng xử lý các vấn đề có tính chất hệ thống về kinh tế, xã hội trở thành
chức năng chủ yếu, có tính chất trung tâm trong các chức năng quản lý của Chính
phủ.
2.Nội dung lý thuyết
Do những nội dung mới trên đây, việc hình thành và vận động của cơ cấu
ngành phải theo phương thức cân đối với nội dung:
-Cần phải coi các lực thị trường là lực chính để điều tiết cơ cấu ngành .
-Khuyến khích phát triển đa dạng (về sản phẩm và cấp độ kỹ thuật, chất lượng,
…)
-Không tạo nên sự cách biệt quá lớn (thông qua chính sách) về lợi thế tương
quan giữa các ngành mà nên tạo bình đẳng về cơ hội để lành mạnh hóa môi trường
cạnh tranh.
-Khi điều chỉnh tốc độ của một ngành cần tính đến các liên hệ về phía trước,
phía sau về số lượng và cả thời gian để thị trường tạo lập các cân bằng mới(nhằm

tránh “cái chết bất ngờ” cho các tác nhân kinh tế).
B Lý thuyết phát triển Không cân đối
1. Cách đặt vấn đề
Trong số các nhà kinh tế thuộc trường phái hiện đại mà người đại diện là A.
Hirchman có cách nhìn nhận khác hơn trường phái trên về những nội dung và
phương thức định hình và chuyển dịch cơ cấu ngành.
Các tác giả của trường phái này, trong khi thừa nhận các đặt vấn đề của
trường phái “phát triển cân đối”,đã bổ sung thêm một số nội dung mới như:
-Yêu cầu tăng trường ngày càng cao, trong khi đó tính khan hiếm tài nguyên
cũng tăng lên, thậm chí có những nguồn cạn kiệt nhanh theo thời gian. Nếu phát triển
cân đối sẽ phân tán tài nguyên, đặc biệt là vốn đầu tư, tạo nên tăng trưởng nóng, kéo
dài thời gian đạt quy mô tối ưu của các ngành.
-Vị trí, thứ bậc của mỗi ngành (mỗi hàng hóa dịch vụ) là khác nhau trong việc
đáp ứng các mục tiêu của từng thời kỳ và giai đoạn kinh tế. Vì vậy cần phải đầu tư có
tính tập trung để tạo ra các điều kiện có tính tới hạn, để đáp ứng cầu có tính điều
kiện, có tính gây sức ép phát triển, có tính kéo theo và liên kết giữa các ngành, vùng
và thời kỳ kinh tế.
-Hợp tác quốc tế trở thành nhân tố tăng trưởng và phát triển có tính bắt buộc,
có tính sống còn, đòi hỏi có những điều kiện chung và phải tôn trọng “luật chơi
chung”.Trong khi đó điểm xuất phát và hoàn cảnh kinh tế xã hội từng quốc gia lại
khác nhau, cần phải đầu tư tập trung để tạo ra và hoàn thiện nhanh những điều kiện
trên, làm cho đất nước đi ra nhanh với thế giới. -Xã hội hiện đại đặt ra những
25


×