Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BÀi đọc thêm ngữ văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.65 KB, 17 trang )

Cha tôi
(Trích Đặng dịch trai ngôn hành lục)
Đặng Huy Trứ
I. Tác giả
Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) hiệu là Tĩnh Trai và Vọng Tân, tự là Hoàng
Trung, ngời làng Thanh Lơng, huyện Hơng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Năm
1843, Đặng Huy Trứ đỗ cử nhân, năm 1848 đỗ Tiến sĩ nhng vì phạm huý ông đã bị
đánh trợt và bị tớc luôn học vị cử nhân. Ông đã dâng nhiều th điều trần với đề xuất
nhiều t tởng tân tiến nhng đáng tiếc là những t tởng của ông không đợc thực hiện.
II. Thể loại
Đặng Dịch Trai ngôn hành lục đợc viết dới hình thức văn tự thuật, một thể tài
của kí.
III. Cách đọc
Đọc chậm, giọng hồi ức, trầm xen đối thoại.
IV. Giá trị nội dung và nghệ thuật
Trong thời kì phong kiến, những ngời theo con đờng học hành cả cuộc đời
phấn đấu cho một mục đích duy nhất: thi đỗ để ra làm quan. Ngời đàn ông say sa
dùi mài kinh sử, hy vọng của cả dòng họ đều dồn vào đó. Một ngời đỗ đạt làm
rạng danh cả dòng tộc. Vì thế, tin có ngời trong gia đình hay họ tộc thi đỗ có thể
coi là tin vui nhất đối với bất kì ai. Thế nhng, thân phụ Đặng Huy Trứ lại khác.
Khi nghe tin con trai đỗ cử nhân, lẽ thờng tình mọi ngời đến chúc mừng còn ông
lại dựa vào cây xoài, nớc mắt ớt áo nh là gặp việc chẳng lành. Ông khóc bởi vì
con đờng khoa cử của con trai ông quá dễ dàng. Và điều đó có thể là tai họa.
Những giọt nớc mắt của ngời cha thể hiện nỗi lo lắng của một ngời từng trải, ngời
vốn đã rất hiểu lẽ đời Con tôi tính tình cha già dặn, cha có đức nghiệp gì... Cổ
nhân đã nói Thiếu niên đăng khoa nhất bất hạnh dã!.
Lần thứ hai, ngời con trai đỗ kì thi Hội, phản ứng của ngời cha vẫn là thêm lo
lắng. Trong nỗi lo ấy tất nhiên vẫn có niềm vui của ngời làm cha. Nhng niềm vui
thì giấu đi còn nỗi lo thì biểu lộ. Ông lo con trai sớm đỗ đạt sẽ sinh kiêu ngạo, cha
trải qua thất bại sẽ coi thờng giá trị của thành công.
1


Tình cảm, tấm lòng và nhân cách của ngời cha đợc thể hiện đầy đủ ở tình
huống thứ ba đợc kể trong đoạn trích bác ngự y Đặng Văn Chức mất... Tôi thì
vừa bị đánh hỏng trong kì thi Đình... Cả nhà lại càng buồn cho tôi. Còn phnả ứng
của ngời cha Đặng Văn Trọng là đau đớn trớc cái chết của ngời anh và coi việc
con trai bị đánh hỏng là không có chuyện gì đáng kể. Khi việc tang ngời anh trai
đã hơi th, ông mới quay sang khuyên nhủ con trai. Đó là những tâm sự giấu kín từ
nơi sâu thẳm tấm lòng ngời cha: Đã vào thi Đình thì không còn đánh trợt nữa, từ
đời Lê đến nay nh thế lâu mà nay con lại bị đánh trợt. Lúc này ông vừa bày tỏ
thái độ của mình. Khi con thành công ông lo lắng, nhng ông bằng lòng. Còn việc
con trai đi thi Đình, bị phạm húy để bị truất tiến sĩ và cách cả bằng cử nhân làm
ông đau lòng. Theo ngời cha, đó là việc không thể chấp nhận đợc. Đó là lời răn
dạy để ngời con nhận ra lỗi lầm của mình. Nhng ngay trong nỗi đau và sự thất
vọng ấy, ngời cha lại chỉ ra đợc con đờng đúng cho con trai. Lời khuyên răn của
ngời cha ở phần cuối đoạn trích là một bài học quý giá không chỉ đối với nhân vật
tôi. Đó là bài học thất bại là mẹ thành công, ngoiừ cha dẫn ra các dẫn chứng cụ
thể để nói lên một triết lí: không nên phạm những sai lầm không đáng có nhng đã
phạm sai lầm thì phải biết sữa chữa và biết đứng lên sau khi ngã là điều đáng quý
nhất.
Đoạn trích đã thể hiện một quan niệm có tính triết lí về việc đỗ trợt trong thi
cử. Thi cử không chỉ vì mục đích đỗ để làm quan. Thi cử còn là một cách để rèn
luyện bản lĩnh, nhân cách cho mỗi ngời.
2. Phơng diện nghệ thuật nổi bật của đoạn trích là lối kể chuyện khách quan,
chân thực và nhiều ẩn ý của tác giả. Với lối kể chuyện tự nhiên, trung thành với sự
thực, hình ảnh ngời cha hiện lên thật đáng kính trọng. Tác giả đã lựa chọn những
câu nói, những chi tiết đặc tả để thể hiện tình cảm và quan điểm nhân sinh của
mình.
Đoạn trích thể hiện một số đặc điểm nghệ thuật của văn xuôi tự sự trung đại,
đó là sự kết hợp giữa chi tiết hiện thực về cuộc đời của nhân vật và những quan
điểm nhân sinh của ngời kể chuyện. Tác phẩm ghi chép những sự kiện, câu
chuyện về ngời Đặng Dịch Trai, qua đó thể hiện quan điểm về học hành, thi cử của

chính ngời kể chuyện.
V. Chủ đề
Qua việc kể lại những kỉ niệm về ngời cha đáng kính, tác giả vừa thể hiện lòn
2
kính trọng nhân cách của ngời cha vừa thể hiện những quan điểm của mình về
cuộc sống. Ba sự kiện trong đoạn trích đều tập trung làm nổi bật quan niệm sống
của tác giả. Đó là không tự phụ, kiêu ngạo, tự thỏa mãn với thành công và biết
đứng lên sau khi ngã.
Khóc Dơng Khuê
Nguyễn Khuyến
I. Tác giả
(Xem bài Nguyễn Khuyến)
II. Thể loại
Bài thơ thuộc thể song thất lục bát. Âm điệu da diết của thể thơ này giúp diễn
tả thành công tâm trạng đau xót, nuối tiếc, buồn thơng của tác giả khi mất bạn.
III. Cách đọc
Đọc bằng giọng tha thiết thể hiện tình cảm của nhà thơ với bạn. Chú ý cách
ngắt nhịp, hiệp vần của thơ song thất lục bát.
IV. Giá trị nội dung và nghệ thuật
1. Nguyễn Khuyến và Dơng Khuê là hai ngời bạn thân khi cùng nhau theo
đuổi nghiệp khoa cử, họ cũng từng tâm đầu ý hợp trong chuyện văn chơng. Những
với hai quan điểm khác nhau. Nguyễn Khuyến sau gần mời năm là quan đã cáo
quan về quê sống cuộc đời thuần chất của một nhà thơ để giữ mình trong sạch trớc
xã hội đang vô cùng lộn xộn. Còn Dơng Khuê thì tiếp tục làm quan nhng vẫn là
một ông quan thanh liêm chính trực. Vì thế, họ không có nhiều thời gian để đàm
đạo. Tuy vậy, họ vẫn là những tri âm tri kỷ.
Bài thơ khóc bạn của nguyễn Khuyến đã thể hiện đợc tình cảm sâu nặng của
hai nhà thơ đồng thời cũng là nơi thể hiện tâm sự về cuộc đời của Nguyễn Khuyến.
Khi khóc bạn, nhà thơ ôn lại kỉ niệm gắn bó giữa hai ngời. Kỉ niệm đợc nhắc lại
bắt đầu từ khi họ gặp nhau và cho đó là duyên trời. Cách diễn đạt này của tác

giả đã khẳng định một lần nữa tình bạn sâu sắc của hai ngời. Họ đã cùng nhau
chia ngọt sẻ bùi, cùng chơi nơi dặm khách, rợu ngon cùng nhấp, cùng bàn
soạn câu văn. Không chỉ có những kỷ niệm ngọt ngào, họ cũng đều cùng là nạn nhân
của thời thế.
3
Lời khóc bạn của ngời già khác với nỗi đau của ngời trẻ tuổi. Đây là nỗi đau
nuốt nớc mắt vào trong. Tình cảm chân thành của một ngời bạn già đã đợc thể
hiện một cách sâu sắc.
Với những từ ngữ mộc mạc, chân chất và thể thơ song thất lục bát, tác giả đã
thể hiện một cách xúc động nỗi đau của nhà thơ trớc sự ra đi của một ngời bạn. Sự
thay đổi nhịp thơ ở đoạn 2 và đoạn 3 đã góp phần thể hiện rõ hơn tâm trạng của
nhân vật trữ tình. ở đoạn 2, âm điệu thơ vui hơn, dồn hơn bởi đó là lúc nhân vật trữ
tình đắm mình trong kỷ niệm, trong những hồi ức đẹp khi họ còn có cả hai ngời.
Còn ở đoạn sau, khi chỉ còn lại một mình, trong nỗi cô đơn không ngời chia sẻ,
ngời ở lại đau đớn và cô độc trong sự nuối tiếc. Sự đối lập ở hai đoạn thơ đã khắc
sâu hơn nỗi đau của ngời mất bạn tri âm.
2. Tình bạn tri âm tri kỉ giữa tác giả và Dơng Khuê cùng những tâm sự về
cuộc đời đợc thể hiện rất tinh tế nhờ nghệ thuật vận dụng triệt để khả năng biểu
cảm các phơng tiện nghệ thuật.
Nỗi đau của ngời già trớc tin ngời bạn tri âm tri kỷ ra đi đột ngột đợc diễn tả
bằng biện pháp nói giảm (thôi đã thôi rồi, biết thôi thôi thế thì thôi mới là, về, mải
lên tiên, chẳng ở); các điển tích điển cố.
Ngôn ngữ nôm và thể thơ song thất lục bát đã diễn tả nỗi đau và tình cảm
chân thành của thi nhân.
Tác giả bố trí xen kẽ rất kheo léo các yếu tố Hán Việt với ngôn ngữ Nôm bình
dân có tác dụng làm nổi bật tính chất vừa thân mật vừa rất chuẩn mực của tình bạn
giữa hai nhà Nho. Các từ Hán Việt, điển tích, điển cố đợc dùng khi nhớ lại kỉ niệm
những ngày chốn quan trờng: đăng khoa, chén quỳnh tơng, đông bích, dơng cửu,
đấu thăng...
Bài thơ có sự xen kẽ giọng điệu tự sự (nhắc lại nhữung kỉ niệm, những buổi

gặp gỡ, những cuộc viếng thăm) và giọng điệu trữ tình (nỗi đau mất bạn, nỗi nhớ
tri âm, cảm giác cô đơn khi mất ngời tri kỉ).
Sử dụng nhiều từ ngữ, cấu trúc có giá trị biểu cảm: thôi đã thôi rồi, ngậm
ngùi, biết bao, biết thôi thôi thế..., làm sao, chợt nghe, bỗng chân tay rụng rời, ai
chẳng biết... và kết cấu lặp từ đảo ngữ trong bài: không mua... không tiền không
mua, đa ai, ai biết mà đa, thơng, lấy nhớ làm thơng... để thể hiện nỗi đau và sự
hẫng hụt khi chứng kiến sự ra đi của một ngời tri kỷ.
4
Giọng điệu trữ tình tha thiết đã diễn tả rất tinh tế và xúc động tình cảm của
nhà thơ đối với bạn đồng thời bộc lộ những tâm sự về thời cuộc vốn vẫn giấu kín
trong lòng thi nhân.
V. Chủ đề
Bài thơ ca ngợi một tình bạn đẹp, góp phần khẳng định giá trị và vai trò quan
trọng của tình cảm giữa con ngời với con ngời trong cuộc sống. Tình bạn giữa
Nguyễn Khuyến và Dơng Khuê, hai nhà Nho có tài và có nhân cách đã để lại cho đời
một biểu tợng cao đẹp về tình bạn. Khóc Dơng Khuê không chỉ thể hiện tấm lòng sâu
sắc và tình cảm tha thiết của một ngời bạn với một ngời bạn, bài thơ cón là một biểu
hiện xúc động cho vẻ đẹp nhân cách của một nhà Nho chân chính.
Vịnh khoa thi hơng
Trần Tế Xơng
I. Tác giả
(Xem bài Thơng vợ)
II. Thể loại
Bài thơ thuộc thể thất ngôn bát cú Đờng luật.
III. Cách đọc
Sáu câu đầu: Đọc chậm, nhấn mạnh về điểm bình thờng và điểm đặc biệt của
kì thi.
Câu 7, 8: Đọc chậm hơn, thể hiện tâm sự đau đớn chua xót của nhà thơ trớc
hiện thực thi cử.
IV. Giá trị nội dung và nghệ thuật

1. Vịnh khoa thi Hơng là một bài thơ trữ tình - trào phúng. Qua việc tái hiện
hình ảnh thảm hại, lố bịch của kì thi năm Đinh Dậu (1897) tại trờng Hà Nam, nhà
thơ bày tỏ sự xót xa, đau đớn của con ngời trớc tình cảnh thảm hại của các nhà
Nho vào thời kì mạt vận của Nho học.
Hai câu thơ đầu có tính chất nh lời giới thiệu khái quát về kì thi. Về thời gian
thì không có gì bất thờng. Nhng hình thức tổ chức đã có sự bất ổn: Trờng Nam thi
lẫn với trờng Hà.
5
Câu thực và câu luận tả cảnh tợng cuộc thi với đủ các thành phần tham gia:
ngời tổ chức (quan trờng), ngời dự thi (sĩ tử), khách dự (quan sứ và mụ đầm).
Khung cảnh trờng thi thật thảm hại, không có cái vẻ trang trọng nghiêm túc vốn có
của một kì thi Hán học. Sĩ tử và quan trờng đều xuất hiện trong hình ảnh vô cùng
nhếch nhác và tội nghiệp. Sự xuất hiện của quan sứ và mụ đầm trong kì thi là nỗi
nhục của nho sĩ nớc Nam. Cái bóng của chế độ thực dân đã bao trùm lên kì thi vốn
đợc tổ chức để tuyển chọn nhân tài giúp nớc. Nhà thơ thật thâm thuý và chua cay
khi tạo nên về đối: quan sứ - mụ đầm, lọng cắm - váy lê. Hình thức nghệ thuật này
hớng đến mục đích châm biếm bọn quan thầy và tay sai.
Câu kết là tâm sự đau xót, chua chát của nhà thơ trớc hiện thực đất nớc. Câu
thơ vừa là lời tự vấn mình, vừa hớng đến những ngời đồng môn. Bài thơ thể hiện
nỗi đau đớn xót xa của nhà thơ trớc vận mệnh dân tộc. Nỗi đau đớn xót xa ấy thể
hiện tác giả là ngời trọng danh dự, danh dự của các trí thức nho học và là ngời có
tấm lòng với dân với nớc.
2. Cách dùng từ thi lẫn, tác giả không dùng thi chung hoặc một cách diễn
đạt khác trang trọng hơn mà dùng từ thi lẫn có dụng ý dự báo tính chất không
nghiêm túc của kì thi.
Dùng cấu trúc đảo trật tự thành phần câu và phép đối ngẫu trong bốn câu 3, 4,
5, 6 . Hai câu thực, tác giả đảo trật tự thành phần phụ chỉ đặc điểm lên trớc. Hai từ
lôi thôi, ậm oẹ đứng đầu câu nhấn mạnh điểm nổi bật nhất của cảnh thi, thật
bi hài. Sĩ tử là nhân vật chính của kì thi. Khi Nho học đang ở thời thịnh vợng, các
sĩ tử khi đi thi thờng có ngời hầu đi theo cho nên họ không phải làm công việc

đeo lọ bên mình nh sĩ tử trong cảnh thi này. Những sĩ tử đến kì thi trông thật
nhếc nhách và tội nghiệp. Còn quan trờng, những ngời có trách nhiệm tổ chức
và trông coi kì thi thì cũng thảm hại không kém. Lôi thôi đối với ậm oẹ thật là
cân xứng. Tú Xơng đã chọn từ ngữ rất đắt. Không cần nhiều chỉ hai từ đó thôi đã
đủ tái hiện bộ mặt nhếch nhác đến thảm hại của kì thi Hán học cuối cùng này.
Đối trong cặp câu thực: hình ảnh sĩ tử >< hình ảnh quan trờng; đối trong cặp
câu luận: lọng - quan sứ >< váy - mụ đầm là sự đối ngẫu trong mối quan hệ tơng
đồng. Đối giữa hai câu thực và hai câu luận: sĩ tử, quan trờng (nhân vật chính của
ki thi) >< quan sứ, mụ đầm (khách mời) là sự đối ngẫu trong quan hệ tơng phản.
Bên nhân vật chính thảm hại, nhếch nhác bao nhiêu thì bên nhân vật phụ, bọn
quan thầy xâm lợc lại long trọng, kể cả bấy nhiêu. Sự đối lập hai này làm nổi bật
6

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×