Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số vấn đề về vai trò, mục đích, ý nghĩa của thuế môi trường và bình luận về dự thảo luật thuế môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.11 KB, 16 trang )

Lời mở đầu:
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người,
ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không
khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người. Môi trường có vai trò quan trọng đối với
sự sống của con người. Ô nhiễm môi trường tác động xấu đến đời sống vật chất tinh
thần của con người và cản trở sự phát triển kinh tế. Trong những năm vừa qua, cùng
với sự phát triển kinh tế và đô thị hoá, mức độ ô nhiễm môi trường tại Việt Nam ngày
càng tăng. Và việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở thành vấn đề
cấp thiết không chỉ đối với nước ta mà đã trở thành vấn đề toàn cầu.
Do xuất phát điểm từ nền kinh tế thấp chúng ta đã chú trọng nhiều hơn đến tăng
trưởng kinh tế, chưa có điều kiện để đầu tư cải tạo môi trường. Vì vậy, ô nhiễm môi
trường ở nhiều vùng đã đến mức báo động. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để
bảo vệ môi trường như: Miễn giảm thuế đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh thân
thiện với môi trường; tuyên truyền, giáo dục nhân dân tham gia bảo vệ môi trường;
thực hiện các Chương trình quốc gia và quốc tế về bảo vệ môi trường, bố trí nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách thoả đáng để xử lý vấn đề môi trường. Bên cạnh đó Nhà nước cũng
có các chính sách để hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm môi trường như: Xử phạt các
vi phạm về ô nhiễm môi trường; thu phí bảo vệ môi trường (phí xăng dầu, phí vệ sinh,
phí phí bảo vệ môi trường đối với nước thả...). Tuy đã có nhiều chính sách nhằm bảo vệ
môi trường nhưng vẫn chưa làm giảm đáng kể mức độ ô nhiễm môi trường. Do đó, Nhà
nước cần có thêm những công cụ hữu hiệu hơn, trong đó, có thuế môi trường.
Theo Nghị quyết số 31/2009/NQ-QH12 ngày 17/6/2009 của Quốc hội về Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 thì dự án Luật thuế môi trường sẽ được Quốc
hội cho ý kiến vào kỳ họp tháng 5/2010 và thông qua vào kỳ họp tháng 10/2010. Khi
được Quốc hội thông qua, dự kiến Luật thuế môi trường có hiệu lực từ ngày
01/01/2010.
Từ thực tế trên, trong bài tập này em chọn đề tài “Một số vấn đề về vai trò, mục
đích, ý nghĩa của thuế môi trường và bình luận về dự thảo luật thuế môi trường”. Bài
tập của em còn nhiều thiết sót, em rất mong được sự đóng góp của thầy cô để bài tập
của em được hoàn thiện hơn.



Bài làm
I.
1.

Vai trò, mục đích, ý nghĩa của thuế môi trường:
Vai trò của thuế môi trường:

Ta thấy trong thời gian qua, tăng trưởng kinh tế, quá trình công nghiệp hoá và phát triển
đô thị tăng nhanh đã tác động xấu đến môi trường sinh thái. Trong khi đó nước ta vẫn
chưa có Luật thuế môi trường còn các biện pháp tài chính nhằm bảo vệ môi trường
được lồng ghép trong các Luật thuế (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế
TNDN) và trực tiếp điều chỉnh bằng các quy định về thu phí. Nên việc ban hành thuế
môi trường là hết sức cần thiết và có một vai trò quan trọng. Cụ thể, vai trò của thuế
môi trường cụ thể như:
- Thuế môi trường góp phần tăng cường trách nhiệm và nâng cao nhận thức của
tổ chức, cá nhân đối với môi trường. Thuế môi trường là loại thuế thực hiện theo
nguyên tắc “người gây ô nhiễm trả” nên nó buộc các chủ thể gây ô nhiễm và các liên
đới phải chịu trách nhiệm về chi phí do hoạt động gây ô nhiễm của họ bằng cách đưa
chi phí ngoại ứng vào giá. Với việc sẽ đưa chi phí ngoại ứng vào giá “nội hoá các chi
phí ngoại ứng” nhờ đó chi phí xã hội và chi phí cá nhân của các nhà sản xuất tiến gần
nhau hơn. Các mức giá trở nên chính xác hơn, do đã bao gồm đầy đủ các yếu tố cần
thiết. Từ đó, tạo cơ hội thúc đẩy các hoạt động có hiệu quả hơn đối với các khu vực thị
trường, giao thông hoặc năng lượng. Nội hoá các chi phí ngoại ứng cũng sẽ dẫn đến
phân bổ lại nguồn lực của nền kinh tế theo hướng tạo ra các “mức giá công bằng và
hiệu quả hơn” do phân phối lại chi phí.
- Thuế môi trường khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hoá thân thiện với môi
trường hơn. Có thể sử dụng thuế để kích thích và điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng theo
hướng bảo vệ môi trường. Đối với cả người tiêu dùng (muốn mua với giá thấp hơn) và
nhà sản xuất (bán được nhiều sản phẩm hơn, lợi nhuận cao hơn) thì thuế môi trường sẽ

có nhiều tác dụng khuyến khích, điều chỉnh định hướng sản xuất và tiêu dùng theo
hướng thân thiện với môi trường hơn.
- Thuế môi trường thúc đẩy cải cách đổi mới công nghệ. Bởi nếu đánh thuế môi
trường mà giá nhiên liệu tăng thì điều này sẽ thúc đẩy việc nghiên cứu tìm ra các nguồn
năng lượng mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người. Điều đó có thể
dẫn tới việc ra đời của các công nghệ, chu trình và sản phẩm mới. Rõ ràng thuế môi
trường có thể giúp chuyển dịch nền kinh tế theo hướng sử dụng có hiệu quả đối với các


loại năng lượng và nguồn lực bằng việc tăng giá sản phẩm tự nhiên. Thuế môi trường
có tác động làm thay đổi cả quy mô và cơ cấu của sản xuất và tiêu dùng. Đặc biệt, khi
các dấu hiệu về giá được dự báo dần dần vượt qua mức giá dự kiến trong kế hoạch dài
hạn của nền công nghiệp.
- Thuế môi trường góp phần bổ sung nguồn vốn để đầu tư cải tạo môi trường.
Với khung thuế suất được quy định tại dự án Luật, nếu lấy mức thuế tối thiểu của
khung thì số thu mỗi năm khoảng 14.300 tỷ đồng nếu lấy mức thuế suất tối đa của
khung thì số thu mỗi năm khoảng 57.000 tỷ đồng. Cụ thể, mặt hàng xăng sẽ chịu mức
thuế từ 1.000 - 4.000 đồng/lít, nhiên liệu bay 1.000 - 3.000 đồng/lít, dầu diesel, dầu hỏa
từ 300 - 2.000 đồng/lít; dầu mazut từ 300 - 2.000 đồng/lít; than từ 6.000 - 30.000
đồng/tấn; dung dịch HCFC 1.000 - 5.000 đồng/kg; túi nhựa xốp 20.000 – 30.000
đồng/kg, thuốc bảo vệ thực vật hạn chế sử dụng từ 500 - 5.000 đồng/kg. Như vậy, thuế
mang lại nguồn thu nhất định cho ngân sách để đầu tư cải tạo môi trường.
- Thuế môi trường góp phần nâng cao nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với
môi trường. Thuế môi trường góp phần hạn chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây
ô nhiễm; khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thay thế hoặc hạn chế tiêu
dùng sản phẩm (xăng, dầu, than,..). Từ đó, tiết kiệm cá nhân, tiết kiệm xã hội, giảm ô
nhiêm môi trường, giảm chi phí xử lý ô nhiễm. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường
trong đầu tư, sản xuất và tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân; khuyến khích sử dụng
năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực của sản xuất, tiêu dùng
đến môi trường, giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái về môi trường. Thay đổi nhận thức

của người dân về về vai trò của môi trường là mục tiêu lớn nhất mà các chính sách
hướng tới.
- Thuế môi trường góp phần bảo vệ môi trường. Thuế môi trường góp phần hạn
chế sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm của các tổ chức, cá nhân; khuyến
khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực đến môi
trường (khí Carbon, lưu huỳnh thải ra khi sử dụng xăng, dầu, than, HCFC ảnh hưởng
tới môi trường không khí và tầng ôzôn, tăng hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu, gây
hậu quả nghiêm trọng đối với con người và thiên nhiên cũng như tổn thất về kinh tế).
Từ đó, hướng tới nền kinh tế phát triển bền vững, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi
trường.
2.

Mục đích, ý nghĩa của thuế môi trường:

Từ vai trò quan trọng của thuế môi trường, ta thấy việc ban hành thuê môi trường có


những mục đích, ý nghĩa to lớn trong công cuộc bảo vệ môi trường:
- Thuế môi trường tạo một hành lang pháp lý đồng bộ, ổn định, điều chỉnh toàn
diện các hành vi tác động tiêu cực đến môi trường, để điều chỉnh trực tiếp hành vi của
các chủ thể có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp gây ô nhiễm môi trường và nhằm bảo vệ
môi trường sinh thái, chống chuyển dịch công nghệ bẩn vào Việt Nam, đồng thời tạo lập
và sử dụng nguồn kinh phí trực tiếp đó để đầu tư xây dựng các biện pháp cải thiện môi
trường, chi phí cho việc bảo vệ môi trường, tuyên truyền tác động đến ý thức cộng đồng
trong việc bảo vệ môi trường.
- Thuế môi trường với mục đích chính là khuyến khích phát triển kinh tế đi liền
với giảm ô nhiễm môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, nâng cao
chất lượng cuộc sống, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của xã hội, từ đó thay đổi
nhận thức và hành vi của người dân và doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu dùng nhằm
giảm phát thải. Nâng cao nhận thức của các tầng lớp trong xã hội về ý thức bảo vệ môi

trường, từ đó góp phần thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gây ô nhiễm
môi trường khi sử dụng phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay và những năm tới.
- Nhằm góp phần thay đổi công nghệ sản xuất, khuyến khích những nơi sản xuất
theo công nghệ tốt hơn, tạo ra sản phẩm tốt hơn cho môi trường. Việc đánh thuế môi
trường góp phần kích thích chủ thể sản xuất lựa chọn công nghệ sản xuất ít gây ô nhiễm
để giảm thuế môi trường và tăng sức cạnh tranh hàng hoá trên thị trường.
- Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội, từ đó góp phần thay đổi
nhận thức, hành vi của tổ chức, cá nhân trong sản xuất và tiêu dùng nhằm giảm phát
thải ô nhiễm tại nguồn. Việc ban hành thuế môi trường là công cụ thây đổi thói quen
tiêu dùng “xa xỉ” của người dân, giúp người dân ý thức hơn trong việc lựa chọn sản
phẩm tiêu dùng.
- Tăng cường quản lý nhà nước, thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về tiếp tục cải cách, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp với các qui
định của Hiến pháp, tính thống nhất và đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan
khác; thực hiện cam kết của Chính phủ với cộng đồng quốc tế trong việc góp sức giải
quyết vấn đề môi trường toàn cầu. Luật thuế môi trường là một trong những sắc thuế
cần được xây dựng để hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta đến năm 2010
với mục tiêu đánh thuế vào các đối tượng gây ô nhiễm môi trường nhằm bảo vệ môi
trường sinh thái, nhằm góp phần thay đổi nhận thức của con người đối với môi trường,
tạo thêm nguồn lực để khôi phục môi trường sinh thái.


- Nhằm động viên hợp lý đóng góp của xã hội, tạo thêm nguồn thu để giải quyết
vấn đề môi trường, đồng thời phải đảm bảo tính cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản
phẩm chủ yếu của Việt Nam.
II. Bình luận về dự thảo thuế môi trường:
1. Thực trạng pháp luật liên quan đến quản lý và bảo vệ môi trường ở Việt
Nam:
Từ hội nghị quốc tế về “Môi trường con người” đầu tiên của Liên hợp quốc được
tổ chức năm 1972 tại Thuỵ Điển đã thông qua bản kế hoạch hành động về môi trường

và khuyến nghị thành lập chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) và sau
Hội nghị thượng đỉnh Rio 92 (Braxin) đặt vấn đề môi trường trong mối liên kết với các
hoạt động của con nguời theo quan điểm Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững thì
có rất nhiều văn bản về luật quốc tế được soạn thảo và ký kết, trong đó nhiều văn bản
đã được Chính phủ Việt Nam tham gia ký kết như Công ước Chicago về hàng không
dân dụng quốc tế, 1944; Hiệp ước về Khoảng không ngoài vũ trụ, 1967; Công ước liên
quan đến Bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên (19/10/1982); Công ước về cấm phát
triển, sản xuất và tàng trữ vũ khí hoá học, vi trùng và công việc tiêu huỷ chúng; Công
ước về buôn bán quốc tế về các giống loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa, 1973
(20/1/1994); Công ước của Liên hợp quốc về sự biến đổi môi trường (26/8/1980); Công
ước Viên về bảo vệ tầng ô-zôn, 1985 (26/4/1994); Công ước về thông báo sớm sự cố
hạt nhân, IAEA, 1985 (29/9/1987); Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm
tầng ô-zôn, 1987 (26/1/1984); Thoả thuận về mạng lưới các trung tâm thuỷ sản ở Châu
Á – Thái Bình Dương, 1988 (2/2/1989); Công ước Basel về kiểm soát việc vận chuyển
qua biên giới chất thải độc hại và việc loại bỏ chúng (13/5/1995); Công ước khung của
Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, 1992 (16/11/1994); Công ước về Đa dạng sinh học,
1992 (16/11/1994)…
Trong hệ thống pháp luật trong nước, vấn đề môi trường được đề cập trong nhiều
bộ luật, luật, trong đó Luật Bảo vệ môi trường ngày 29 tháng 11 năm 2005 là văn bản
quan trọng nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ
sung năm 2009… Đồng thời, hàng loạt thông tư, quyết định của các ngành chức năng
về thực hiện Luật Bảo vệ môi trường đã được ban hành. Một số tiêu chuẩn môi trường
chủ yếu được soạn thảo và thông qua. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường được đề cập
trong các văn bản khác như Luật Khoáng sản, Luật Dầu khí, Luật Hàng hải, Luật Lao


động, Luật Đất đai, Luật Phát triển và bảo vệ rừng, Luật Bảo vệ sức khoẻ của nhân dân,
Pháp lệnh về đê điều, Pháp lệnh về việc bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản... Tuy nhiên, những
văn bản pháp luật trên chỉ dừng lại ở góc độ chung là bảo vệ nguồn tài nguyên thiên

nhiên. Riêng đối với các quy định liên quan đến trách nhiệm tài chính của các chủ thể
đối với môi trường thì lại được đề cập rải rác trong nhiều văn bản như Luật Thuế tiêu
thụ đặc biệt (1998, 2005), Pháp lệnh Thuế tài nguyên (1990), Luật Thuế sử dụng đất
nông nghiệp (1993), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (2005, 2008)...
Như vậy, thực tế cho thấy, thuế môi trường đang được đề cập ở quá nhiều văn bản
nhưng không mang tính hệ thống và không thể hiện được vai trò tích cực của chính
sách thuế trong vấn đề bảo vệ môi trường cũng như tác động đến trách nhiệm của từng
cá nhân, cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Trong Luật Bảo vệ môi trường năm
2005, tại Điều 112 có quy định về nộp thuế môi trường nhưng trên thực tế chưa có cơ
sở nào để thực hiện.
Điều đó đòi hỏi sự cấp thiết phải xây dựng một chính sách pháp luật về thuế môi
trường trong giai đoạn hiện nay.
2.

Sự cần thiết ban hành luật thuế môi trường:

Bảo vệ môi trường luôn được xác định là một chủ trương, chính sách lớn, nhiệm
vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH đất nước. Điều 29
Hiến pháp năm 1992 qui định “các cơ quan Nhà nước, các đơn vị thuộc lực lượng vũ
trang, các đoàn thể xã hội và tất cả các cá nhân phải tuân thủ các quy định của Nhà
nước về việc sử dụng hợp lý các tài sản thiên nhiên, và bảo vệ môi trường.”; Điều 4
Luật Bảo vệ môi trường qui định “ Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát
triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước…”; Điều 112
Luật Bảo vệ môi trường qui định “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất, kinh doanh
một số sản phẩm gây tác động xấu lâu dài đến môi trường và sức khỏe con người thì
phải nộp Thuế môi trường”; Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 được Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng thông qua đã khẳng định quan điểm phát triển đất
nước là “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Báo cáo chính trị tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X "Ngăn chặn hành vi huỷ hoại và gây ô nhiễm môi trường,

khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường....Hoàn chỉnh pháp luật, tăng cường quản
lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên”. Mục tiêu chiến lược của chính
sách về môi trường trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định


hướng đến năm 2020, cũng được xác định rõ “Tiếp tục phòng ngừa ô nhiễm, tăng
cường bảo tồn đa dạng sinh học, chú trọng sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên
và cải thiện môi trường”. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị
cũng nêu rõ quan điểm về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiêp hoá,
hiện đại hoá đất nước “Bảo vệ môi trường là một trong những vẫn đề sống còn của
nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lượng cuộc sống của nhân dân; góp
phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế- xã hội, ổn định chính trị, an ninh quốc gia
và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế...”
Từ những quan điểm, chủ trương, chính sách trên nên mặc dù việc ban hành thuế
môi trường vẫn còn nhiều ý kiến đóng góp song hầu hết các ý kiến đều cho rằng việc
ban hành việc ban hành thuế môi trường là hết sức cần thiết.
Ở nước ta trong những năm gần đây, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hóa và phát triển đô thị đã làm gia tăng phát thải nước thải công nghiệp, nước thải
sinh hoạt, số lượng chất thải rắn trong sinh hoạt và trong công nghiệp, phát thải các
chất gây ô nhiễm không khí từ cả quá trình sản xuất công nghiệp và sử dụng các sản
phẩm gây ô nhiễm. Hiện trạng môi trường xuống cấp là thách thức nghiêm trọng đối
với phát triển bền vững của nước ta trong thời gian tới, nếu như không kịp thời có các
giải pháp giảm dần lượng phát thải chất độc hại. Trong khi đó, cho đến nay nước ta vẫn
chưa có một sắc thuế riêng về môi trường để thu vào sản phẩm khi sử dụng gây ô
nhiễm môi trường nhằm hạn chế sản xuất và tiêu dùng hàng hóa loại này. Thời gian qua
Chính phủ đã ban hành và thực thi nhiều biện pháp tài chính nhằm khuyến khích nhà
đầu tư tham gia trực tiếp các hoạt động xử lý ô nhiễm môi trường, sử dụng tiết kiệm và
có hiệu quả các nguồn tài nguyên và huy động một phần đóng góp của đối tượng xả
thải vào việc khôi phục môi trường. Các biện pháp này được thực hiện trong các chính
sách thuế như thuế sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập

doanh nghiệp và thông qua thu các khoản phí, lệ phí thu đối với các hoạt động liên
quan tới môi trường như xả nước thải, khai thác khoáng sản, khí thiên nhiên và dầu
khí…
Các biện pháp trên đã đem lại những kết quả như: Các khoản thu phí bảo vệ môi
trường đã tạo thêm nguồn thu, góp một phần chi đầu tư giải quyết các vấn đề về môi
trường, đồng thời góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của tổ chức, cá nhân trong
việc giữ gìn môi trường, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường trong cộng đồng.
Đồng thời, việc quy định ưu đãi thuế đối với lĩnh vực môi trường đã làm cho các doanh


nghiệp có ý thức hơn trong việc tìm các biện pháp nhằm hạn chế tác động bất lợi do
hoạt động sản xuất của mình gây ra cho môi trường; quan tâm áp dụng các công nghệ
sản xuất tiên tiến để giảm bớt xả thải chất độc hại ra môi trường. Thúc đẩy doanh
nghiệp nghiên cứu ứng dụng công nghệ sạch để sản xuất sản phẩm, nghiên cứu sử dụng
nguyên liệu thay thế nguyên liệu hoá thạch để sản xuất các sản phẩm thân thiện môi
trường thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường
Bên cạnh kết quả đạt được như nêu trên các chính sách thuế, phí hiện hành cũng
có một số hạn chế như sau:
- Về chính sách phí: Các loại phí bảo vệ môi trường hiện hành mới dừng lại ở mục
tiêu huy động đóng góp một phần của những đối tượng xả thải mà không tự mình xử lý
chất thải; hỗ trợ thêm chi phí làm sạch môi trường. Nguồn thu từ phí còn rất hạn chế.
Tổng thu các khoản phí bảo vệ môi trường năm 2008 là 1.224 tỷ đồng. Nếu tính cả số
thu từ phí xăng dầu 9000 tỷ /năm thì tổng số thu là 10.224 tỷ đồng/năm. Nhà nước hàng
năm dành 1% tổng chi ngân sách nhà nước (tương đương 4.000 tỷ đồng) để chi sự
nghiệp bảo vệ môi trường. Trong khi nhu cầu tài chính cho bảo vệ môi trường rất lớn.
Tính riêng nhu cầu cho các đề án tổng thể cải tạo môi trường và chương trình xử lý ô
nhiễm ở các làng nghề, khu công nghiệp vào khoảng 17.678 tỷ đồng/năm. Nếu tính cả
nhu cầu đầu tư xử lý chất thải sinh hoạt tại các khu vực dân cư tập trung, đầu tư phục
hồi môi trường trong khai thác khoáng sản, trồng rừng và tái trồng rừng, bảo tồn thiên
nhiên và đa dạng sinh học thì nhu cầu tài chính cho bảo vệ môi trường của Việt Nam

hiện nay là rất lớn.
- Về chính sách thuế: Trong chính sách thuế hiện hành, mục tiêu bảo vệ môi
trường chỉ là những mục tiêu lồng ghép, không phải là mục tiêu chính. Vì vậy việc
khuyến khích đầu tư sản xuất sản phẩm thân thiện môi trường, khuyến khích đầu tư vào
các dự án làm sạch môi trường, không thu thuế nhập khẩu hoặc thu mức thuế suất thấp
khi mua các sản phẩm, thiết bị môi trường liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường
góp một phần vào mục tiêu bảo vệ môi trường nhưng chưa tác động trực tiếp đến hành
vi tiêu dùng và hoạt động sản xuất các sản phẩm gây tác động xấu đến môi trường.
Ngoài ra ta thấy, các khoản phí bảo vệ môi trường hiện hành là một công cụ kinh
tế tác động trực tiếp đến đối tượng gây ô nhiễm (phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm)
nhưng vì các loại phí có tính pháp lý thấp, mức thu thấp nên tác dụng còn chưa mạnh
và mục tiêu bảo vệ môi trường không phải là mục tiêu chính, vì vậy chưa tác động trực


tiếp đến hành vi tiêu dùng và hoạt động sản xuất các sản phẩm gây tác động xấu đến
môi trường.
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu và ban hành Luật thuế môi trường với
mục tiêu nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của toàn xã hội từ đó góp phần làm
thay đổi hành vi của tổ chức, cá nhân, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong đầu tư,
sản xuất và tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân; khuyến khích sử dụng năng lượng tiết
kiệm, hiệu quả, giảm bớt các tác động tiêu cực của sản xuất, tiêu dùng đến môi trường,
giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái về môi trường và tạo thêm nguồn thu cho hoạt động
khôi phục môi trường là rất cần thiết và phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội hiện tại của
Việt Nam và xu hướng phát triển kinh tế của thế giới. Qua những phân tích trên ta thấy
việc ban hành thuế môi trường là hết sức cần thiết với những tác động hết sức to lớn
cho công cuộc bảo vệ môi trrường hiện nay.
3.

Những hạn chế và hoàn thiện dự thảo luật thuế môi trường:


Thứ nhất, về việc xác định mức thuế là tuyệt đối hay tương đối là hợp lý? Có ý
kiến cho rằng Việc tính thuế dựa trên mức thuế tuyệt đối như trong dự thảo Luật dù có
ưu điểm là đơn giản nhưng lại hạn chế ở nhiều điểm như phải đặt khoảng dao động
mức thuế khá rộng (như than từ 6000 đến 30.000 đ), sẽ nảy sinh bất hợp lý khi giá đơn
vị hàng hóa tăng hay giảm mạnh và phải sửa đổi bổ sung (ví dụ, hiện thuế với túi nhựa
bằng 100-150% giá bán, nhưng khi giá sản xuất túi nhựa giảm 1/2, mức thuế sẽ trở nên
quá cao)…. Từ đó, thời gian sống của Luật sẽ ngắn đi, tính ổn định không cao. Do đó,
chuyển sang quy định căn cứ tính thuế dựa trên mức thuế tương đối (% giá trị hàng
hóa). Thuế suất sẽ khác nhau với từng nhóm hàng hóa tùy theo phương thức tác động
môi trường. Nhưng có ý kiến lại cho rằng việc xác định mức thuế tuyệt đối là hợp lý bởi
tạo sự đơn giản trong tổ chức thực hiện và mục tiêu chủ yếu của thuế bảo vệ môi
trường là điều chỉnh hành vi gây ô nhiễm môi trường nên chưa điều chỉnh mức thuế
trong trường hợp lạm phát, trượt giá. Cũng có ý kiến cho rằng khung thuế suất phải
được tính trên cơ sở mức độ ảnh hưởng tới môi trường của hàng hóa, chứ không phải
trên mức giá bán.
Thứ hai, có sự chồng chéo giữa thuế và phí? về vấn đề này có ý kiến cho rằng
khi ban hành luật thuế môi trường thì phải sửa đổi các quy định về phí môi trường vì
những mặt hàng dự kiến phải chịu thuế môi trường cũng đang phải chịu phí môi
trường. Nên cần phân định rõ sự khác nhau về bản chất giữa hai loại thuế và phí kể
trên. Cũng có ý kiến cho rằng mục tiêu thu tiền cho ngân sách của thuế môi trường chỉ


là số hai còn chủ yếu thuế này là sử dụng công cụ kinh tế để hạn chế người tiêu dùng sử
dụng quá mức những loại hàng hóa gây ô nhiễm môi trường. Ở đây không có việc thuế
chồng lên phí. Thuế được đánh vào sản phẩm gây tác động xấu đến môi trường khi sử
dụng còn phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm (thu vào các chất thải ra trong quá trình sản
xuất như phí nước thải, phí chất thải rắn...). Vì vậy, vẫn phải áp dụng cả phí môi trường
và thuế bảo vệ môi trường ở những công đoạn khác nhau.
Thứ ba, luật thuế môi trường có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh
và người tiêu dùng?

- Với hoạt động sản xuất kinh doanh: Luật Thuế môi trường nếu được ban hành
khó tránh khỏi những tác động nhất định đến sản xuất, kinh doanh nên cần phải tính
toán đến thực tế giá cả hiện nay để xác định mức thu bao nhiêu là hợp lý. Cần phải làm
thế nào để không ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của DN là điều phải quan tâm.
- Với người tiêu dùng: Nhiều ý kiến cho rằng theo quy định của dự thảo Luật thì
thuế môi trường chủ yếu đánh vào người tiêu dùng nên cần cân nhắc vấn đề này vì đánh
thuế vào người tiêu dùng cũng có nghĩa là đánh thuế vào nền kinh tế. Ví dụ, nếu Luật
Thuế môi trường được thông qua như đề xuất của cơ quan soạn thảo thì từ ngày
1.1.2012, cứ mỗi lít xăng sẽ phải cộng thêm từ 1.000 - 4.000 đồng tiền thuế môi trường.
Trong khi đó, xăng dầu là nhiên liệu đầu vào của sản xuất. Cả nền kinh tế phải sử dụng
xăng dầu. Trong khi Nhà nước đã giao cho các công ty nhập khẩu xăng dầu được tự
quyết định giá bán xăng dầu, nếu Nhà nước đánh thuế bao nhiêu, các doanh nghiệp lại
nâng giá lên bấy nhiêu. Cuối cùng thì nền kinh tế vẫn phải gánh chịu, người tiêu dùng
vẫn phải gánh chịu. Cho nên biểu thuế càng cao thì người tiêu dùng càng nặng gánh.
Hay ví dụ Theo cách tính thuế, phí bảo vệ môi trường thì một sản phẩm phải chịu khá
nhiều nấc thuế, phí. Ví dụ để khai thác được một tấn than thì người khai thác phải chịu
hai thuế, gồm thuế khai thác tài nguyên không tái tạo và thuế gây ô nhiễm môi trường.
Người sử dụng một tấn than này cũng phải chịu thuế ô nhiễm môi trường. Vấn đề là,
cuối cùng thì người sử dụng lại là người phải gánh chịu hết cả 3 loại thuế này. Mặt
khác, than, xăng dầu là nhiên liệu đầu vào của nhiều ngành sản xuất khác nên giá than,
xăng dầu tăng thì chắc chắn giá các sản phẩm khác cũng sẽ bị đội lên. Như vậy, gánh
nặng tài chính sẽ lại dồn lên vai người tiêu dùng.
Thứ tư, Quy định về số nhóm hàng chịu thuế đã đủ? Chính phủ dự kiến đưa 5
nhóm hàng hoá vào diện chịu thuế môi trường gồm: Xăng dầu (xăng các loại, nhiêu
liệu bay, dầu diesel, dầu hoả, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn); than; môi chất làm lạnh


chứa hydro-clo-flo-carbon (dung dịch HCFC); túi nhựa xốp (túi ni lông); thuốc bảo vệ
thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng. Đây là các nhóm hàng hoá được xác định khi sử
dụng gây ô nhiễm trên diện rộng. Song, nhiều ý kiến không tán thành việc xác định 5

nhóm hàng hoá áp thuế như trên vì “vô tình” loại bỏ nhiều mặt hàng gây ô nhiễm khác
(đặc biệt các loại hoá chất như chất tẩy rửa, hạt níc…), không đảm bảo tính khái quát,
công bằng của luật. Thực tế còn rất nhiều sản phẩm khác khi sử dụng gây ô nhiễm mà
không đưa vào diện chịu thuế. Ví dụ từ thực trạng môi trường ở khu vực Nhà máy Giấy
Bãi Bằng. Mỗi tuần Nhà máy này chỉ thải khí (do sử dụng các chất tẩy bột giấy) ra môi
trường 2 lần cũng đã khiến không khí ô nhiễm. Nên cần phải liệt kê, rà soát các mặt
hàng để đưa vào danh mục hàng chịu thuế nhằm đảm bảo tính khả thi và sức sống của
thuế môi trường.
Thứ năm, Cân nhắc "liều lượng" khi thu thuế: Việc sử dụng công cụ thuế như
một giải pháp tài chính điều chỉnh sản xuất và tiêu dùng theo hướng bảo vệ môi trường
nếu "liều" và "lượng" không hợp lý sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh, khó
kích thích hoạt động của doanh nghiệp và khó đạt được mục tiêu thay đổi nhận thức,
thói quen của người tiêu dùng. Chẳng hạn, có nhiều ý kiến cho rằng mức thuế tối đa
đối với mặt hàng xăng 4.000 đồng/lít là cao, bởi hiện xăng đã gánh rất nhiều thuế, phí
(chiếm tới 40% giá xăng), ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong
khi đó, một số mặt hàng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng lại có mức thuế không
lớn. Ngoài ra, Đại diện Tập đoàn Công nghiệp Than và khoáng sản cho biết, khung
thuế từ 6 đến 30 đồng/kg cho các sản phẩm của ngành là khá cao và chưa sát với thực
tế. Quặng cũng nên được xếp vào danh sách đối tượng chịu thuế nhằm mục tiêu khuyến
khích sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm sự phụ thuộc vào năng lượng có
nguồn gốc hóa thạch...Vì thế, việc thu thuế phải tính đến sự hài hòa với phát triển kinh
tế, bảo đảm năng lực cạnh tranh và xuất khẩu của hàng hóa.
Thứ sáu, Nên có lộ trình thu thuế đã hợp lý? Ta thấy, Mục tiêu xây dựng Luật
Thuế môi trường còn chung chung. Cần phải cụ thể hơn, xây dựng Luật này là để tác
động đến ai, điều chỉnh hay thay đổi vấn đề gì. Nếu chỉ nói chung là để góp phần phát
triển bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền với bảo vệ môi trường thì Luật
Bảo vệ môi trường cũng có mục tiêu như thế. Điều 112 dự thảo Luật Thuế môi trường
quy định về sản xuất kinh doanh một số sản phẩm gây tác động xấu lâu dài đến môi
trường và sức khỏe con người thì phải nộp thuế. Vậy những sản phẩm trực tiếp gây tác
động xấu nhưng không lâu dài thì có phải nộp thuế môi trường hay không? Luật Thuế



môi trường là đạo luật quan trọng nên cần phải nghiên cứu những chính sách lâu dài và
có thể phải xây dựng cả lộ trình thu thuế. Xác định rõ lộ trình như thế cũng có tác dụng
chuẩn bị tâm lý cho người dân trong việc thu thuế các sản phẩm mà trong quá trình sử
dụng gây ô nhiễm môi trường.
Thứ bảy, Về hoàn thuế. Khoản 3 Điều 11 của dự thảo Luật quy định áp dụng
hoàn thuế môi trường khi “Có quyết định hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật ”. Một số ý kiến cho rằng, hoàn thuế là khâu phức tạp, dễ sơ hở
làm phát sinh nhiều tiêu cực, gây thất thoát cho Ngân sách Nhà nước. Trong khi đó,
quy định trên lại chưa chặt chẽ, có thể dẫn đến những sai phạm trong việc hoàn thuế.
III. Một số ý kiến hoàn thiện về dự thảo thuế môi trường:
Việc ban hành thuế môi trường là một vấn đề cần thiết và cấp thiết song như thế
không có nghĩa là việc ban hành có thể diễn ra tuỳ ý và không có sự suy xét chi tiết
cũng như những chỉnh sửa để dự thảo luật thuế này hoàn thiện hơn. Trước thực tế còn
nhiều bất cập trên của dự thảo, thì dự thảo cần có những chỉnh sửa cho phù hợp hơn
không chỉ về nội dung mà cả về hình thức, ngô ngữ. Cụ thể:
Về mặt ngôn ngữ:
- Điều 2 dùng khái niệm “Túi nhựa xốp” là không phù hợp cả về nghĩa (ở từ
“xốp”) và tính phổ biến (trên thực tế “túi ni-lông” hay “túi nhựa PE” dùng phổ biển
hơn). Đề nghị sử dụng thuật ngữ đơn giản là “túi nhựa PE”, phản ánh đúng bản chất vật
liệu làm túi như nội dung giải thích.
- Điều 3, khái niệm “nhiên liệu bay” chưa chuẩn về tiếng Việt, nên là “nhiên liệu
cho máy bay” hay “nhiên liệu cho các phương tiện bay”. Khái niệm “thuốc bảo vệ thực
vật” bao gồm cả thuốc diệt mối, khử trùng kho…là không chính xác; nên dùng “Các
hóa chất diệt côn trùng và phòng trừ dịch bệnh thuộc loại hạn chế sử dụng”.
Về nội dung:
- Về việc phân định giữa thuế và phí: Bên cạnh việc thu thuế bảo vệ môi trường
vẫn nên duy trì hệ thống quy định về phí môi trường như hiện hành. Nhưng cần phải
làm rõ nội hàm của phí môi trường và thuế môi trường để xác định đúng đối tượng nào

thì thu phí, đối tượng nào thì thu thuế, cách tính và mức độ thu thuế, thu phí như thế
nào. Phí bảo vệ môi trường là đánh vào quá trình sản xuất ra sản phẩm chứ không phải
đánh trực tiếp vào sản phẩm. Ví dụ, cùng một sản phẩm nhưng có hai quy trình sản
xuất khác nhau. Một quy trình sản xuất bảo đảm các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.
Một quy trình khác lại gây ô nhiễm môi trường thì đương nhiên chính sách của Nhà


nước là phải ưu tiên quy trình sản xuất không gây ô nhiễm môi trường thì mới khuyến
khích doanh nghiệp đầu tư sử dụng các công nghệ hiện đại để bảo vệ môi trường. Phí
môi trường là đánh vào quy trình sản xuất, quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Còn thuế
môi trường thì chỉ đánh vào sản phẩm mà khi sử dụng thì gây ô nhiễm môi trường. Ví
dụ, đối với than thì phải thu phí bảo vệ môi trường vì quá trình sản xuất ra than gây ô
nhiễm môi trường tại khu vực mỏ than đó, nếu mỏ than càng thô sơ, công nghệ càng
kém thì phí bảo vệ môi trường phải càng nặng. Khi than đã trở thành sản phẩm được
đem ra sử dụng, ảnh hưởng đến môi trường thì lại phải thu thuế bảo vệ môi trường.
Nhưng nếu than sản xuất ra mà chưa được sử dụng, chưa gây ô nhiễm môi trường thì
chưa thể đánh thuế được.
- Về nội dung của dự thảo: Điều 7, khoản 2 chỉ quy định 2 nguyên tắc để chọn
biểu khung thuế cụ thể gồm phù hợp sự phát triển KT-XH và mức độ gây tác động xấu
của hàng hóa, tức mới đánh vào tiềm năng gây tác động môi trường. Tuy nhiên, trên
thực tế, tiềm năng tác động xấu sẽ chuyển thành tác động xấu như thế nào còn tùy
thuộc vào quá trình sử dụng hàng hóa. Ví dụ, cùng một lượng xăng, dùng động cơ ô tô
mới có hiệu suất đốt cháy cao hơn và bộ xử lý khí thải tốt hơn, sẽ phát thải ô nhiễm
không khí ít hơn động cơ cũ. Ở quy mô nhỏ thì sự khác biệt không đáng kể, tuy nhiên
ở quy mô lớn sẽ là quan trọng. Khi mức thuế có tính đến yếu tố quá trình sử dụng hàng
hóa, sẽ có thể khuyến khích áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn (thay đổi công
nghệ, sử dụng thiết bị hiệu năng cao,…). Ngoài ra, trong Dự thảo chưa đề cập đến
nguyên tắc giảm thuế liên quan đến hàng hóa sản xuất từ nguyên liệu tái chế hay có
phần tỷ lệ nguyên liệu thân thiện môi trường. Ví dụ, với túi nhựa, không thể đánh đồng
mức thuế giữa túi sản xuất từ 100% nguyên liệu PE mới với túi sản xuất từ 50% PE

mới và 50% PE tái chế; hay túi có sử dụng 10% tinh bột thay thế. Bổ sung quy định này
sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy hoạt động tái chế, tái sử dụng.
Một số điểm góp ý khác
-Tiêu đề chương II (Căn cứ tính thuế) chưa bao quát hết nội dung và trùng với tên
của điều 6 thuộc chương này. Nên đặt tên Chương 3 là “Tính thuế” hay “Cách tính
thuế’.
- Trong luật nên có những quy định về việc quản lý cũng như sử dụng thuế để
người dân biết thuế môi trường dùng vào mục đích gì? Cũng như có thể góp phần vào
việc giám sát, quản lý việc sử dụng thuế có hiệu quả.


Tóm lại, việc ban hành Luật thuế môi trường là cần thiết. Tuy nhiên, vì là một
văn bản Luật với kỳ vọng đem lại tác động tích cực cho công tác bảo vệ môi trường,
nên Dự thảo cần phải được viết lại trên cơ sở bảo đảm tính chuẩn xác cao về ngôn ngữ,
thuật ngữ và tính ổn định tương đối lâu dài của Luật./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Giáo trình luật môi trường - trường Đại học luật Hà Nội- NXB Công

an nhân dân, Hà Nội, 2006, 2008.
2.

Giáo trình luật môi trường - trường Đại học Huế- NXB Công an

nhân dân, Hà Nội, 2007.
3.


Dự thảo thuế môi trường.

4.

Thuyết minh chi tiết về dự án luật thuế môi trường.

5.

Tờ trình chính phủ về dự án luật thuế môi trường - Bộ tài chính.

6.

Tạp chí ngiên cứu lập pháp 8/2008 - Nguyễn Quang Tuấn, Lê Thị

Thảo.
7.

Luật bảo vệ môi trường, 2005.

8.

Http:// www. iaoduc.edu.vn.

9.

Http://www.hanoimoi.com.vn

10.

Http:// www.nguoidaibieu.com.vn



MỤC LỤC


Lời mở đầu:
Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người,
ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không
khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người. Môi trường có vai trò quan trọng đối với
sự sống của con người. Ô nhiễm môi trường tác động xấu đến đời sống vật chất tinh
thần của con người và cản trở sự phát triển kinh tế. Trong những năm vừa qua, cùng
với sự phát triển kinh tế và đô thị hoá, mức độ ô nhiễm môi trường tại Việt Nam ngày
càng tăng. Và việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở thành vấn đề
cấp thiết không chỉ đối với nước ta mà đã trở thành vấn đề toàn cầu.
Do xuất phát điểm từ nền kinh tế thấp chúng ta đã chú trọng nhiều hơn đến tăng
trưởng kinh tế, chưa có điều kiện để đầu tư cải tạo môi trường. Vì vậy, ô nhiễm môi
trường ở nhiều vùng đã đến mức báo động. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để
bảo vệ môi trường như: Miễn giảm thuế đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh thân
thiện với môi trường; tuyên truyền, giáo dục nhân dân tham gia bảo vệ môi trường;
thực hiện các Chương trình quốc gia và quốc tế về bảo vệ môi trường, bố trí nguồn vốn
đầu tư từ ngân sách thoả đáng để xử lý vấn đề môi trường. Bên cạnh đó Nhà nước cũng
có các chính sách để hạn chế các hoạt động gây ô nhiễm môi trường như: Xử phạt các
vi phạm về ô nhiễm môi trường; thu phí bảo vệ môi trường (phí xăng dầu, phí vệ sinh,
phí phí bảo vệ môi trường đối với nước thả...). Tuy đã có nhiều chính sách nhằm bảo vệ
môi trường nhưng vẫn chưa làm giảm đáng kể mức độ ô nhiễm môi trường. Do đó, Nhà
nước cần có thêm những công cụ hữu hiệu hơn, trong đó, có thuế môi trường.
Theo Nghị quyết số 31/2009/NQ-QH12 ngày 17/6/2009 của Quốc hội về Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 thì dự án Luật thuế môi trường sẽ được Quốc
hội cho ý kiến vào kỳ họp tháng 5/2010 và thông qua vào kỳ họp tháng 10/2010. Khi
được Quốc hội thông qua, dự kiến Luật thuế môi trường có hiệu lực từ ngày

01/01/2010.
Từ thực tế trên, trong bài tập này em chọn đề tài “Một số vấn đề về vai trò, mục
đích, ý nghĩa của thuế môi trường và bình luận về dự thảo luật thuế môi trường”. Bài
tập của em còn nhiều thiết sót, em rất mong được sự đóng góp của thầy cô để bài tập
của em được hoàn thiện hơn.



×