Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Thực tiễn áp dụng phương thức chiếm hữu thực sự để giải quyết các tranh chấp biên giới lãnh thổ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.7 KB, 9 trang )

I. LỜI MỞ ĐẦU
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi đân tộc.
Trong đó lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với nhau như hình với
bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa nhận tính bất khả
xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia. Cho đến đầu thế kỷ 20, pháp
luật quốc tế vẫn còn thừa nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một bộ phận hay toàn
bộ lãnh thổ của một nước là hợp pháp. Sau khi hai trận Thế chiến kết thúc, Liên hợp
quốc được thành lập. Hiến chương Liên Hợp tại khoản 4, Điều 2 đã khẳng định
nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nghị quyết 26/25 năm
1970 của Liên Hợp Quốc cũng ghi nhận: “Các quốc gia có nghĩa vụ không được dùng
đe dọa hoặc dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên giới quốc tế hiện có của một
quốc gia khác hoặc như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế kể cả các tranh
chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các quốc gia”.“Mọi
hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe dọa hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa
nhận là hợp pháp”.

II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Xác lập chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ là nhằm xác định danh nghĩa
của quốc gia đối với lãnh thổ nói chung và các vùng lãnh thổ nói riêng. Lãnh thổ quốc
gia là toàn vẹn và bất khả xâm phạm, vì vậy việc xác lập chủ quyền quốc gia đối với
lãnh thổ phải dựa trên những cơ sở và phương thức do Luật Quốc tế qui định.
Khoa h c pháp lý qu c t ã t ng ghi nh n 4 ph n g th c th c lãnh th : th
c lãnh th do tác n g t nhiên (Acretion); Th c lãnh th do chuy n nh n g
(Cession); Th c lãnh th theo th i hi u (Acquisitiv Presciption); Th c lãnh th
do chi m c (Occupation). ây nhóm ch xin t p trung phân tích nguyên t c th c
lãnh th do chi m h u.
Th c lãnh th do chi m h u: Là hành n g c a m t qu c gia thi t l p và th c
hi n quy n l c c a mình trên m t lãnh th v n ch a thu c ch quy n c a b t k m t
qu c gia nào khác ho c m t vùng lãnh th v n ã có ch sau ó b b r i và tr l i
tr ng thái vô ch ban u . Nguyên t c th c lãnh th b ng chi m h u c chia


thành hai d ng là nguyên t c chi m h u t n g tr ng và nguyên t c chi m h u th c s .
1.1 Nguyên t c chi m h u t n g tr ng
i v i nguyên t c này , òi h i ph i có hai i u ki n:
M t là, i u ki n v t ch t (corpus) ngh a là ph i có s ti p xúc v t ch t gi a
ng i chi m h u và i t n g b chi m h u.
Hai là, i u ki n tinh th n (animus remsibihabendi) ngh a là ng i chi m h u
ph i bi u th b ng hành n g ý chí c a mình mu n chi m h u lãnh th y.
Hai i u ki n ó là
m t vùng t vô ch
c coi là thu c ch quy n lãnh
th c a qu c gia ã phát hi n ra nó mà không c n thi t l p s ki m soát trên th c t .
Song cùng v i s phát tri n c a l ch s , thuy t chi m h u t n g tr ng ngày càng
b c l nh ng thi u sót và không còn c ch p nh n là c s y
th c ch
quy n lãnh th . Tr c h t, m t b ng ch ng c l u l i trên m t vùng t m i có th
ch ng minh quy n khám phá tr c tiên và ý chí thi t l p ch quy n c a m t qu c gia
i v i vùng t ó, nh ng không th xác n h
c ph m vi không gian c a ch
quy n t i âu. Còn nh ng b ng ch ng l u l i nh c , cây th p t , c t g v.v.. thì
không ph i bao gi c ng gi
c nguyên v n trên nh ng vùng t m i phát hi n. Do
ó ã x y ra vi c tái phát hi n và sáp nh p i sáp nh p l i nhi u l n các vùng t m i.


1.2. Nguyên t c chi m h u th c s trong lu t pháp và t p quán qu c t
c kh i x n g và hình thành t n m 1884, v i s ki n H i ngh Berlin c a
m i ba qu c gia châu Âu và Hoa Kì và khóa h p c a Vi n Lu t Lausanne, Th y S
n m 1888, nguyên t c chi m h u th c s ã tr thành nguyên t c c bi t quan trong
vi c gi i quy t các tranh ch p v lãnh th gi a các qu c gia. Nguyên t c là c s lí
lu n

qu c gia ch ng minh m t vùng lãnh th là tranh ch p thu c ch quy n c a
mình n u áp ng c các i u ki n sau:
1- Nh ng vùng t , o
c qu c gia chi m h u ph i là lãnh th vô ch , không
n m trong ho c không còn n m trong h th ng a lí hành chính c a qu c gia nào.
ây “vô ch ” c ng có ngh a là vùng lãnh th này ã t ng thu c m t qu c gia nh ng
qu c gia này ã t b và không có ý n h ti p t c th c hi n ch quy n t i ó. Có thể
hiểu lãnh thổ vô chủ (terra nullius) là lãnh thổ chưa từng đặt dưới sự quản trị của quốc
gia nhất định nào. Nói một cách khác, lãnh thổ đó chưa có một tổ chức quốc gia, có
thể có cư dân sống trong vùng lãnh thổ đó nhưng chưa có một tổ chức nhà nước nào
trên đó.
2- Vi c chi m h u ph i là hành n g c a Nhà n c . i v i i u ki n th nh t
,tr c h t, hành n g
c coi là chi m h u th c s ph i do Nhà n c th c hi n,
thông qua ng i ho c t ch c có kh n ng i di n cho Nhà n c . Vi c m t ho c
nhi u cá nhân là công dân c a m t n c th c hi n hành vi chi m h u v i t cách cá
nhân s không t o ra m t danh ngh a ch quy n cho nhà n c ó. Ngay c trong
tr n g h p có nhi u ng i dân c a m t n c n c trú, sinh s ng, làm n, khai thác,
trao i buôn bán… trên m t vùng t , i u ó c ng không th hi n ch quy n c a
nhà n c .
3- Vi c chi m h u ph i th c s , rõ ràng. C s c a vi c chi m h u th c s ph i
có s hi n di n c a chính quy n nhà n c trong vi c thi t l p, ki m soát, qu n lí, b o
v và th c hi n ch quy n qu c gia trên vùng lãnh th mà qu c gia ã chi m h u và
th c s xác l p ch quy n. Tuy nhiên có thể có những trường hợp không nhất thiết
phải sử dụng phương tiện này. Đó chính là trường hợp một vùng đất, đảo hoàn toàn
không có người cư trú.
4 - Vi c chi m h u ph i hòa bình c d lu n n g th i ch p nh n . Yêu c u
c a i u ki n này là vi c chi m h u và xác l p ch quy n qu c gia i v i vùng lãnh
th không ph i là k t qu c a hành vi t c o t ch quy n c a m t qu c gia khác
b ng vi c s d ng ho c e d a s d ng v l c. n g th i vi c chi m h u và xác l p

ch quy n i v i vùng lãnh th m i ph i c th c hi n công khai và c d lu n
u n g th i ch p nh n.
2. Thực tiễn áp dụng phương thức chiếm hữu thực sự để giải quyết các tranh chấp
biên giới lãnh thổ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế:
Tính chất đặc biệt quan trọng của lãnh thổ quốc gia đã làm cho vấn đề này trở
thành đối tượng trung tâm của hầu hết các tranh chấp quốc tế trong lịch sử. Những
tranh chấp quốc tế về lãnh thổ đã châm ngòi cho những cuộc chiến tranh dai dẳng,
đẫm máu: từ những cuộc chiến từ thời cổ xưa giữa các đế quốc La Mã, Ai Cập, ... tới
vụ thôn tính lãnh thổ vùng Sudentenland (Tiệp Khắc) của Đức quốc xã vốn được coi
là dấu hiệu đầu tiên của Thế chiến II, và cho đến ngày nay, những cuộc chiến tranh
với nguyên nhân là tranh chấp lãnh thổ biên giới vẫn không ngừng đe dọa hòa bình
thế giới: Tranh chấp lãnh thổ bang Samu – Kashmir giữa Ấn Độ và Pakistan, tranh
chấp cao nguyên Goland giữa Israel và Syria, cuộc chiến tranh không quân – hải quân
hiện đại lớn nhất giữa Anh và Agrentina cũng bắt nguồn từ tranh chấp chủ quyền đối


với quần đảo Falkland. Gần đây, việc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trỗi dậy thành
một thế lực hùng mạnh cũng được đánh dấu bằng sự phát sinh và trầm trọng hóa một
loạt tranh chấp chủ quyền đối với các đảo, quần đảo ở Hoàng Hải và đặc biệt là ở biển
Đông, nơi những yêu sách ngang ngược về lãnh thổ của Trung Quốc đang thách thức
công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta.
Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức chiếm cứ hữu hiệu đã trở thành nguyên tắc
đặc biệt quan trọng để giải quyết các tranh chấp về biên giới giữa các quốc gia. Đánh
giá tầm quan trọng của sự chiếm hữu thực sự so với các phương thức chiếm hữu khác,
như chiếm hữu tượng trưng, luật gia Charles Rousseu viết: “Trong mọi trường hợp
hiệu lực của quyền phát hiện chỉ là cung cấp sự khởi đầu của một danh nghĩa hoặc
theo cách diễn đạt của người Anh, tạo nên một danh nghĩa ban đầu (inchoate title), có
nghĩa là một danh nghĩa phôi thai và chỉ có giá trị tạm thời để gạt bỏ ngay lập tức,
nhưng không phải là mãi mãi các tham vọng tranh đua của một nước thứ ba trên cùng
một lãnh thổ… Vì luật pháp quốc tế không ấn định rõ khoảng thời gian trong đó

quyền ưu tiên này có thể được viện dẫn, do đó chính quyền phát hiện này bản thân nó
tác động chống đối các quốc gia thứ ba. Đó chỉ có thể là những hành vi tượng trưng
mà các quốc gia thứ ba từ chối không công nhận hiệu lực pháp lý trừ phi chúng được
củng cố tiếp theo bởi một sự chiếm cứ lâu dài”. Áp dụng nguyên tắc chiếm hữu thực
sự, nhiều vụ tranh chấp đã được giải quyết, có thể kể tới:
Tranh chấp đảo Palmas giữa Tây Bân Nha và Hà Lan. Năm 1606, Tây Ban Nha
đã chiếm hữu hòn đảo Palmas ở đông nam Philippineses cùng với các đảo khác trong
quần đảo Philippines. Nhưng họ mới chỉ tuyên bố quyền chiếm hữu tượng trưng, chưa
có tổ chức hành chính và biện pháp cai trị gì và đến cuối thế kỷ 17 thì rút bỏ hoàn
toàn. Sau đó Hà Lan đã chiếm hữu đảo này và ký một loạt hiệp nghị và văn kiện với
các tù trưởng địa phương. Sau khi cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha kết thúc, theo
Hòa ước Paris ký năm 1898, Tây Ban Nha nhường cho Mỹ quần đảo Philippines,
trong đó gồm cả đảo Palmas. Đầu năm 1906, khi Mỹ đã tiếp quản thì thấy đảo đang
do chính quyền Hà Lan quản lý. Sự việc được đưa ra Tòa án quốc tế La Haye và Hà
Lan đã thắng, vì sau khi Tây Ban Nha chấm dứt chủ quyền đối với đảo này, nó đã trở
thành vô chủ. Hà Lan đã chiếm hữu đảo và tổ chức quản lý kiểm soát thực sự, công
khai, liên tục.
Một vụ án tiêu biểu trong việc áp dụng phương thức chiếm cứ hữu hiệu của cơ
quan tài phán quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp về lãnh thổ, đó là tranh chấp
giữa Anh và Pháp về chủ quyền trên các đảo nhỏ và đá thuộc nhóm đảo Minquier và
Ecréhous.
Vì hai bên không yêu cầu xem xét việc áp dụng quy chế lãnh thổ vô chủ terra
nullius cho các đảo Minquiers và Ecréhous, do đó Tòa cũng loại bỏ khả năng các
nhóm đảo này là đất vô chủ hay được đặt dưới chế độ đồng quản lý condominium. Vì
vậy, Tòa xem xét và so sánh danh nghĩa hai bên viện dẫn.
Bỏ qua những suy diễn từ thời phong kiến, với những cuộc chiến tranh liên miên
và những mối quan hệ chư hầu, liên minh đan xen chằng chịt của các vua chúa hai
quốc gia vốn có nhiều “xích mích” từ thời trung cổ này, xem xét thời điểm hiện tại lúc
phát sinh tranh chấp và yêu cầu tòa giải quyết thì tòa cho rằng vào giai đoạn hiện tại



chủ quyền trên các đảo này hoàn toàn thuộc về Anh. Các bản án hình sự, việc thu thuế
bất động sản của chính quyền đảo jersey, các trạm hải quan hoạt đồng trên các đảo,
việc thống kê dân số,… là các bằng chứng cho thấy ý chí thực thi chủ quyền của phía
Anh. Trong khi đó thực tiễn quản lý các đảo này của phía Pháp là không đủ thuyết
phục. Chỉ đến năm 1866 nước Pháp mới yêu sách chủ quyền trên các đảo này, mà
trước đó họ coi hoặc như là đất vô chủ, terra nullius, hoặc thuộc Anh. Pháp chỉ tiến
hành việc đặt phao phía ngoài các bãi đã ngầm nhằm mục đích đảm bảo an toàn hàng
hải hơn là thực thi chủ quyền.
Để giải quyết các vụ tranh chấp trên Tòa đã áp dụng các điều kiện của phương
thức chiếm cứ hữu hiệu để chứng minh các đảo Minquier và Ecréhous là lãnh thổ của
Vương quốc Anh:
Thứ nhất, việc chiếm hữu quần đảo trên là hành động mang tính chất nhà nước
và có ý nghĩa pháp lý – của Vương quốc Anh , được thực hiện bởi viên chức đại diện
cho nhà nước – vua Anh.
Thứ hai, hành vi chiếm cứ của Anh là thực sự, được thực hiện bằng các biện
pháp hòa bình, một cách liên tục và trong một thời gian dài và không có tranh chấp.
Anh đã thiết lập một cơ chế nhà nước cần thiết nhằm mục đích quản lý, bảo vệ vùng
lãnh thổ đã chiếm hữu và thực hiện quyền tài phán ở đó. Qua một loạt bằng chứng:
những biện pháp pháp lý đối với những vụ phạm pháp hình sự trên quần đảo trong các
năm 1881, 1883, 1891, 1913 và 1921; việc đặt quần đảo này thành một hải cảng ở
biển Manche; việc thu thuế bất động sản của chính quyền đảo Jersey, các trạm hải
quan hoạt động trên các đảo, việc thống kê dân số... Trong khi nước Pháp, đến năm
1866 mới tiến hành việc đặt phao phía ngoài các bãi đá ngầm nhằm mục đích bảo đảm
an toàn hàng hải, không có ý nghĩa là thực thi chủ quyền. Hơn nữa, hành động của
Anh hoàn toàn công khai và không hề sử dụng vũ lực.
3. Thực tiễn áp dụng phương thức chiếm hữu thực sự để giải quyết các tranh chấp
biên giới lãnh thổ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế:
Việt Nam nằm trên bờ Biển Đông, có bờ biển dài hơn 3260km với hàng ngàn
hòn đảo và quần đảo gần bờ, xa bờ, trong đó có những quần đảo như quần đảo Hoàng

Sa cách bờ biển tới trên 150 hải lý, quần đảo Trường Sa cách bơ khoảng 250 hải lý.
Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về lãnh thổ Việt Nam từ lâu đời. Tuy
nhiên, vấn đề tranh chấp chủ yếu về biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và các quốc gia
láng giềng đang được dư luận trong nước và quốc tế hết sức quan tâm chính là việc
xác lập chủ quyền của quốc gia trên biển Đông. Việt Nam và các quốc gia láng giềng
bao gồm Trung Quốc, Philippin, Malaysia, Brunei đều tuyên bố chủ quyền của mình
đối với biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vấn đề này đã làm phức
tạp hóa trong quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia có liên quan, gây ảnh hưởng đến
an ninh khu vực và trên thế giới. Trong luật quốc tế có phương thức xác lập chủ
quyền bằng phương thức chiếm cứ hữu hiệu, vậy thực tiễn áp dụng phương thức này
trong giải quyết các bất đồng trên biển Đông và hai quần đảo giữa Việt Nam và các
quốc gia láng giềng có đạt được hiệu quả không?


Các quốc gia liên quan đều mong muốn xác lập chủ quyền của mình đối với vùng
biển này nhưng quốc gia nào mới thật sự là chiếm hữu thực sự, xác lập chủ quyền đầu
tiên? Về phía Việt Nam:
Việt Nam có đưa ra nhiều tài liệu chứng minh sự chiếm hữu thật sự và đầu tiên
của mình đối với hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa, các tài liệu sử sách có ghi lại
việc các chính quyền phong kiến Việt Nam đã dựng bia chủ quyền, sáp nhập hai quần
đảo Hoàng sa và Trường sa (khi đó được gọi bằng nhiều tên như Bãi Cát Vàng, Vạn
lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa…) vào lãnh thổ của mình, thiết lập bộ máy quản lý và
khai thác (đó là các đội Hoàng Sa, Bắc Hải). Mặt khác tiến hành nhiều cuộc đo đạc,
lập hải trình, cắm mốc, đánh dấu, lập bia, xây miếu, trồng cây cối trên hai quần đảo
này… Đây chính là những biểu hiện cụ thể cho một sự chiếm cứ thực sự của Việt
Nam. Việc chiếm cứ của Việt Nam được sự thừa nhận của các quốc gia, bằng những
chứng cứ cụ thể: nhiều tài liệu, sách vở, bản đồ của các quốc gia khác, kể cả Trung
Quốc như Hải ngoại ký sự (1696), An Nam đại quốc họa đồ (1838)… đã trực tiếp
hoặc gián tiếp thừa nhận điều đó như cuốn Hải lục (1842) viết: “Vạn lý Trường Sa là
đất nối giữa biển, dài vài ngàn dặm, là phên dậu của An Nam”. Trong các hội nghị

quốc tế về sau này, như hội nghị tại San Francisco (Mỹ) năm 1951, khi Việt Nam
khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, không có một quốc gia nào
phản đối. Mà theo luật quốc tế, điều đó thể hiện sự thừa nhận hoàn toàn.
Áp dụng nguyên tắc nói trên của pháp luật quốc tế vào trường hợp hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, các bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý đều cho thấy rằng
các Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thực sự hai quần đảo này hàng trăm năm qua.
Nói chính xác là các Nhà nước Việt Nam trong lịch sử và cho tới nay đã thực thi chủ
quyền ở đây ít ra từ thế kỷ XVII khi hai quần đảo chưa hề thuộc chủ quyền của bất cứ
nước nào.
Về phía Trung Quốc, Trung Quốc cũng cho rằng họ đã phát hiện ra hai quần đảo
này và chiếm hữu, khai thác từ lâu đời. Tuy nhiên phần lớn bằng chứng đưa ra thiếu
thuyết phục, chỉ đủ để khẳng định đã có một số hoạt động kinh doanh nhỏ, tránh bão,
cứu hộ, ... của ngư dân và thương nhân, chứ hoàn toàn không đề cập đến sự hiện diện
và cai quản của các triều đại Trung Quốc. Các lập luận như lập luận về "sự tiếp nhận
hai quần đảo từ tay quân đội Nhật Bản" hoàn toàn không đúng sự thật và không có cơ
sở pháp lí.
Để khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo này, Trung Quốc đã thực
hiện nhiều hoạt động như: Ngày 14 tháng 3 năm 1988, hải quân Trung Quốc dùng vũ
lực để chiếm các đảo ở Trường Sa. Họ đã bắn chìm ba tàu vận tải của hải quân Việt
Nam. Kết quả 74 chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam tử nạn giữa biển khơi, sau đó
Trung Quốc chiếm giữ sáu đảo nhỏ trong một vùng từng nằm dưới sự quản lý của Việt
Nam; vào tháng 4 năm 1988, một tháng sau vụ tấn công chiếm đóng, Trung Quốc đã
thông qua một nghị quyết thành lập tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và
Trường Sa; cũng năm này, Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa lại đụng độ ở biển về
quyền sở hữu đảo ngầm Johnson thuộc Trường Sa. Tàu chiến Trung Quốc đánh đắm
các tàu chở đội quân đổ bộ Việt Nam. Tới năm 1998, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
tiếp tục sự sáp nhập các đảo của mình, đặt các cột mốc lãnh thổ hay phao trên bãi cát


Thomas thứ nhất và thứ hai, bãi cát Pennsylvania, bãi cát Half Moon và đảo san hô

vòng Sabina cùng đảo Jackson, vùng quần đảo Trường Sa được đưa vào danh sách một
trong tám điểm nóng xung đột trên thế giới. Vào năm 2007, người phát ngôn Bộ Ngoại
giao Trung Quốc Lão Tần Cương nói trong buổi họp báo thường kỳ "Việt Nam áp dụng
hàng loạt hành động mới trên quần đảo Nam Sa đã đi ngược với nhận thức chung quan
trọng về các vấn đề trên biển" mà hai bên đã đạt được. Trung Quốc ngày càng gây hấn
bằng vũ lực trên quần đảo Trường Sa. Vào tháng 4 năm 2007 đã bắt 41 ngư dân Việt
Nam và chỉ trả tự do cho họ sau khi những người này nộp phạt. Đến ngày 9 tháng 7 tàu
Hải quân Trung Quốc đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam
trong vùng biển gần Trường Sa, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km làm chìm một
thuyền đánh cá của Việt Nam, ít nhất một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị
thương. Nguyên nhân chính dẫn tới các mâu thuẫn gữa hai nước là trữ lượng trên 600
triệu thùng của Việt Nam mà Trung Quốc tuyên bố nằm trong vùng biển chủ quyền
trong khi giá dầu thô có thể tăng lên đến 100 USD vào cuối năm 2007; Ngày
26/05/2011, ba tàu Hải giám Trung Quốc đã xâm phạm vùng lãnh hải của Việt Nam và
thực hiện hành vi cắt cáp tàu Bình Minh 02 của Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN)
trong khi đang làm nhiệm vụ thăm dò địa chấn tại vị trí cách mũi Đại Lãnh, tỉnh Phú
Yên 120 hải lý nằm trong khu vực thềm lục địa của Việt Nam; Vào hồi 6h sáng ngày
9/6, Tàu thăm dò địa chấn 3D Viking II do liên doanh CGG Veritas (Pháp) được Tổng
công ty cổ phần Dịch vụ kỹ thuật dầu khí Việt Nam (PTSC) thuê trong khi đang thu nổ
địa chấn tại lô 136.03, tại tọa độ 6 độ 47,5 phút bắc; 109 độ 17,5 phút kinh đông thuộc
phạm vi 200 hải lý trên thềm lục địa Việt Nam thì một tàu cá Trung Quốc mang số hiệu
6226 được sự yểm trợ của hai tàu ngư chính Trung Quốc mang số hiệu 311 và 303 đã
cố tình chạy cắt ngang phần dây kéo giữ thiết bị dàn trải cáp thu và phá hoại 4 đường
cáp thu phía bên trái tàu. Căn cứ vào Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông
giữa chính phủ các nước thành viên ASEAN và nước CHND Trung Hoa, các hành động
nêu trên của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài
phán đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Về phía Philippin thì tuyên bố chủ quyền của mình đối với Hoàng sa và Trường
sa dựa trên sự phát hiện của một nhà thám hiểm vào năm 1956, còn Malaysia, Brunei

tuyên bố chủ quyền của mình dựa trên cơ sở thềm lục địa.
Có thể thấy rằng mỗi quốc gia đều có quan điểm riêng của mình, đều đưa ra
những căn cứ để khẳng định chủ quyền của mình đối với các quần đảo trên biển Đông.
Như vậy các quốc gia chưa thừa nhận cho một quốc gia nào là chủ thể đã chiếm cứ hữu
hiệu (ngoài việc các quốc gia đã tự mình đưa ra các chứng cứ để khẳng định với quốc
gia khác là mình đã chiếm cứ hữu hiệu nhưng chưa có sự công nhận nào từ phía các
quốc gia hữu quan), các quốc gia do chưa thống nhất quan điểm do đó chưa ngồi vào
bàn đàm phán đa phương liên quan đến xác định biên giới trên biển để thừa nhận cho
một quốc gia trong số họ là chủ thể thật sự đã chiếm cứ hữu hiệu phù hợp với luật pháp
quốc tế.
Từ những vấn đề nêu trên, thấy rằng: thực tiễn áp dụng phương thức thụ đắc lãnh
thổ bằng chiếm cứ hữu hiệu để giải quyết những tranh chấp về biên giới quốc gia trên


biển Đông giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng vẫn chưa đạt được những bước
tiến quan trọng nào, bởi lẽ mặc dù các quốc gia có đưa ra những chứng cứ chứng minh
rằng mình đã chiếm cứ hợp pháp và lần đầu tiên nhưng lại gặp phải sự phản đối của các
nước láng giềng, như Việt Nam bị Trung Quốc phản bác về vấn đề cho rằng Việt Nam
đã xác lập hai quần đảo này vào lãnh thổ của mình bằng hàng loạt các hành động, mới
đây nhất Trung Quốc cũng xử xự như vậy đối với bên Philippin.

K T LU N
Có th nói, ph n g th c th c lãnh th b ng ph n g pháp chi m h u th c s
c hình thành là m t d u m c quan trong trong l ch s pháp lu t qu c t . Nh m t
ph n c a th gi i hi n i , nguyên t c th c lãnh th b ng chi m h u th c s ã có
nh ng tác d ng to l n trong vi c phân chia biên gi i lãnh th gi a các qu c gia, i u
mà tr c ây t nh ng tranh ch p nh nh t có th phát tri n thành cu c chi n e d a
hòa bình th gi i. Th c ti n i s ng qu c t h t s c a d ng và ch u nh h n g l n
c a các y u t chính tr , kinh t - xã h i, tranh ch p lãnh th gi a các qu c gia là
không th nào tránh kh i. Trong m t t n g lai xa, chúng ta có quy n hi v ng r ng v i

nh ng ch n h lu t qu c t ngày càng hoàn thi n, nh ng tranh ch p ó s
c các
bên gi i quy t m t cách thi n chí hòa bình trên bàn àm phán, tránh s l p l i m t
cách y au th n g c a l ch s .

DANH M C TÀI LI U THAM KH O
1. Hi n ch n ng Liên h p qu c
2. Giáo trình Lu t Qu c t , Ths. Nguy n Th Kim Ngân – Ths. Chu M nh Hùng,
NXBGD, 2010
3. Lu t Qu c t , Sách chuyên kh o, Ths. Ngô H u Ph c , NXBCTQG, 2010.
4. />5. />6. />7. o/co-so-phap-ly-quoc-te-ve-su-thiet-lap-chu-quyenlanh-tho-tai-cac-hai-dao.html
8. />

MC LC


I. LỜI MỞ ĐẦU
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi đân tộc.
Trong đó lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với nhau như hình với
bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa nhận tính bất khả
xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia. Cho đến đầu thế kỷ 20, pháp
luật quốc tế vẫn còn thừa nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một bộ phận hay toàn
bộ lãnh thổ của một nước là hợp pháp. Sau khi hai trận Thế chiến kết thúc, Liên hợp
quốc được thành lập. Hiến chương Liên Hợp tại khoản 4, Điều 2 đã khẳng định
nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nghị quyết 26/25 năm
1970 của Liên Hợp Quốc cũng ghi nhận: “Các quốc gia có nghĩa vụ không được dùng
đe dọa hoặc dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên giới quốc tế hiện có của một
quốc gia khác hoặc như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế kể cả các tranh
chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các quốc gia”.“Mọi
hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe dọa hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa

nhận là hợp pháp”.



×