I. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự được áp dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật,
xâm hại tới quyền dân sự của các chủ thể khác, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp cho bên có quyền dân sự bị xâm phạm. Như vậy, trách nhiệm dân sự được áp
dụng không chỉ trong trường hợp chủ thể có vi phạm dân sự mà kể cả trường hợp
chủ thể có vi phạm khác, nếu những hành vi này xâm phạm đến quyền dân sự của
những cá nhân, tổ chức trong xã hội. Chủ thể phải chịu trách nhiệm dân sự phải
gánh chịu một hoặc một số hậu quả pháp lí như buộc chấm dứt hành vi vi phạm,
buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc bồi thường thiệt hại.
Là một chế định có lịch sử lâu đời của luật dân sự, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho
người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền nhân thân mà trước đó giữa
người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có giao kết hợp đồng hoặc có giao
kết hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi vi phạm hợp đồng.
Hành vi gây thiệt hại ngoài hợp đồng là hành vi trái pháp luật, hành vi này xâm
phạm đến nhóm khách thể được pháp luật bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại ngoài hợp
đồng phải là hành vi gây ra một thiệt hại xác định được và hành vi gây thiệt hại là
hành vi trái pháp luật.
Là một loại trách nhiệm pháp lí, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
phát sinh khi thỏa mãn những điều kiện do pháp luật qui định. Trên cơ sở qui định
tại Điều 604, BLDS thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh
khi thỏa mãn những điều kiện:
- Có thiệt hại xảy ra (gồm các loại về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự,
uy tín của cá nhân và của các tổ chức bị xâm phạm).
- Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
- Có lỗi của người gây thiệt hại
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Việc đánh giá hình thức, mức độ lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trong trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng khác với trách nhiệm hình sự.
Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội trong hành vi trái pháp luật
của mình và hậu quả của hành vi đó. Chủ thể bị coi là có thái độ tiêu cực đối với xã
hội khi họ có ý thức phủ định lợi ích xã hội, đi ngược lại lợi ích xã hội. Dựa vào thái
độ của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của nó, lỗi được chia làm hai loại là lỗi
cố ý và lỗi vô ý. Hiểu theo góc độ tâm lí học thì lỗi phản ánh yếu tố tâm lí của con
người, là yếu tố nội tâm của con người, diễn biến phức tạp và chi phối trực tiếp hành
vi của con người. Hành vi của một cá nhân là hệ quả của sự biểu lội tâm lí của cá
nhân đó trong một hoàn cảnh thời gian và không gian nhất định. Tuy nhiên, xét về
mặt hậu quả pháp lí thì một hành vi nhất định có thể làm phát sinh hoặc không làm
phát sinh một hậu quả pháp lí. Khi đề cập đến yếu tố lỗi, người có hành vi có lỗi bao
giờ cũng chịu một hậu quả bất lợi về tài sản hoặc nhân thân hoặc cả hai sự bất lợi
trên.
Trong BLDS, qui định về lỗi tại Điều 308 như sau:
Điều 308. Lỗi trong trách nhiệm dân sự
1. Người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự thì
phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
2. Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc
tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Khoản 1 Điều 308 qui định lỗi do hành vi không thực hiện nghĩa vụ dân sự thì
người có hành vi đó bị coi là có lỗi. Theo qui định tại khoản 2 Điều 308 thì nội dung
của khoản này có ý nghĩa viện dẫn trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Về mặt khách quan, qui định tại khoản 2 Điều 308 BLDS đã dự liệu trường hợp
người gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác
mà vẫn thực hiện, cho dù người đó mong muốn hoặc không mong muốn nhưng đã
có thái độ để mặc cho hậu quả thiệt hại xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm
dân sự về lỗi cố ý của mình. Vể mặt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện
hành vi luôn nhằm mục đích gây thiệt hại cho người khác và được thể hiện dưới hai
mức độ:
- Mong muốn có thiệt hại xảy ra;
- Không mong muốn có thiệt hại, nhưng lại để mặc cho thiệt hại xảy ra.
- Mức độ thể hiện ý chí – hành vi của người cố ý gây thiệt hại trong trường
hợp người đó nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người
khác mà vẫn thực hiện, thì phải chịu trách nhiệm dân sự do lỗi cố ý là
nguyên nhân của thiệt hại. Theo nội dung khoản 2 Điều 308 BLDS, cần
thiết phải làm rõ những quan hệ và yếu tố có liên quan đến phạm vi lỗi của
người gây thiệt hại. Một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong
muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại đó xảy ra thì lỗi của người gây thiệt hại
là lỗi cố ý. Những yếu tố liên quan đến hình thức lỗi cố ý gây thiệt hại
được thể hiện ở những mức độ khác nhau, do biểu lộ ý chí của chủ thể đã
là yếu tố quyết định hình thức lỗi. Một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện là lỗi cố ý. Mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi có ý thức của người gây thiệt hại và trong
tâm thức của người đó mong muốn thiệt hại xảy ra cho người khác đã làm
phát sinh trách nhiệm dân sự của người đó.
Được coi là lỗi cố ý trực tiếp nếu chủ thể nhận thức rõ thiệt hại cho xã hội, thấy
trước thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra và mong muốn điều đó xảy ra.
Nếu chủ thể nhận thức được thiệt hại do hành vi của mình gây ra, tuy không mong
muốn nhưng có ý thức bỏ mặc cho điều đó xảy ra thì được coi là lỗi cố ý gián tiếp.
Yếu tố vô ý trong lỗi vô ý thể hiện ở chỗ chủ thể hoàn toàn không có chủ ý gây thiệt
hại cho xã hội. Người có hành vi gây thiệt hại được xác định là có lỗi vô ý nếu họ
không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại mặc dù họ phải
biết hoặc có thể biết trước được thiệt hại sẽ xảy ra khi họ thực hiện hành vi đó. Là
lỗi vô ý vì quá tự tin nếu chủ thể vi phạm nhận thấy trước thiệt hại cho xã hội do
hành vi của mình gây ra nhưng hy vọng, tin tưởng rằng nó sẽ không xảy ra, là lỗi vô
ý do cẩu thả nếu chủ thể vi phạm không nhận thức trước được thiệt hại cho xã hội
do hành vi của mình gây ra nhưng có thể nhận thấy hoặc buộc phải nhận thấy.
Ở mỗi ngành luật, việc xác định lỗi của người có hành vi trái pháp luật ở hình thức
nào (cố ý hay vô ý), trạng thái nào (cố ý trực tiếp hay gián tiếp, vô ý vì cẩu thả hay
quá tự tin) có ý nghĩa khác nhau trong việc xác định hậu quả pháp lí mà người đó
phải gánh chịu. Vì vậy, tùy theo tính chất của trách nhiệm pháp lí trong từng ngành
luật nên việc xác định về lỗi trong mỗi ngành luật có thể khác nhau.
Trong trách nhiệm hành chính, người có hành vi vi phạm pháp luật hành chính đều
bị xử phạt hành chính, tuy nhiên, chỉ có thể áp dụng biện pháp lao động cưỡng bức
nếu người vi phạm pháp luật hành chính có lỗi cố ý. Vì thế, khi áp dụng trách nhiệm
hành chính cần phải xác định hình thức lỗi của người vi pham. Trong trách nhiệm
hình sự có những tội mà trong cấu thành của tội đó, lỗi của người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội phải là lỗi cố ý (tội giết người). Vì vậy, để xác định tội danh và áp
dụng trách nhiệm hình sự thì luôn phải xác định về hình thức lỗi của người có hành
vi trái pháp luật. Hơn thế nữa, hình thức lỗi của người có hành vi trái pháp luật còn
là các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ khi xác định khung hình phạt nên khi áp
dụng trách nhiệm hình sự thì việc xác định hình thức lỗi của người có hành vi trái
pháp luật là một công việc cần thiết.
Khác với luật hành chính và luật hình sự, luật dân sự đã qui định người có hành vi
trái pháp luật thì phải chịu trách nhiệm dân sự bất luận hành vi đó được thực hiện
với lỗi cố ý hay vô ý. Như vậy, về nguyên tắc chung khi áp dụng trách nhiệm dân sự
không cần xác định hình thức lỗi của người gây thiệt hại, đặc biệt, không bao giờ
phải xác định trạng thái lỗi của người đó. Tuy nhiên, khi xác định lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần lưu ý:
- Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi người gây
thiệt hại có lỗi, bất kể đó là lỗi vô ý hay cố ý.
- Việc xác định lỗi cố ý, vô ý trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng có ý nghĩa trong một số trường hợp: Để giảm mức bồi thường và
là điều kiện cần thiết để xác định trách nhiệm bồi thường.
Điều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
...
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý
mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
mình.
...
Điều 615.Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra
…
2. Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho
người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ được
hành vi của họ mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
- Trong một số trường hợp nhất định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh
ngay cả khi người bị thiệt hại không có lỗi.
Điều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
…
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các
trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp
thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
...
Điều 624. Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp
người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi.
Khi xác định và phân tích yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng,
cần thiết phải đặt yếu tố đó trong mối liên hệ với những sự kiện pháp lí khác, mà rõ
nét hơn cả là sự biến pháp lí tuyệt đối và sự biến pháp lí tương đối là những căn cứ
làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.
Sự biến pháp lí tương đối là những sự kiện xảy ra do hành vi của con người tiến
hành nhưng một sự kiện xảy ra do hành vi của con người nhưng không phụ thuộc
vào hành vi của chủ thể tham gia và làm phát sinh hậu quả pháp lí đối với họ. Sự
khởi phát của sự biến pháp lí tương đối do hành vi của con người tác động dưới hình
thức lỗi vô ý, do vậy người có hành vi tạo ra sự kiện đó phải bồi thường thiệt hại
theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại. Trong khoa học pháp lí, các nhà luật
học đều thừa nhận rằng sự biến pháp lí tương đối là sự biến do con người tác động,
còn sự thay đổi và chấm dứt của nó con người không thể kiểm soát được. Như vậy,
hành vi tạo ra sự biến pháp lí tương đối là hành vi có lỗi và là hành vi trái pháp luật.
Người gây thiệt hại đã không mong muốn, không để mặc cho thiệt hại xảy ra mà là
do không kiểm soát được diễn biến của sự kiện do hành vi vô ý của mình tạo ra thì
người có hành vi đó phải bồi thường.
Sự biến pháp lí tuyệt đối là những sự kiện xảy ra trong thiên nhiên hoàn toàn
không phụ thuộc vào ý chí con người, như động đất, núi lửa, lũ lụt,... Sự biến pháp lí
tuyệt đối không chứa đựng yếu tố lỗi dưới bất kì hình thức nào. Ở đây ý thức con
người không thể kiểm soát được sự kiện đó. Sự biến pháp lí tuyệt đối có ý nghĩa
pháp lí đặc thù, bởi vì sự kiện đó được đặt trong mối liên hệ về không gian và thời
gian cụ thể, theo đó trách nhiệm dân sự không phát sinh đối với một hoặc hai bên
chủ thể của quan hệ đó.
Như vậy, có thể nhận định rằng lỗi vô ý luôn tồn tại trong sự biến pháp lí tương
đối, còn lỗi thuộc mọi trường hợp không thể tồn tại trong sự biến pháp lí tuyệt đối.
II. Lỗi trong các trường hợp cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng :
1. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra :
1.1.
Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra (Điều 625
BLDS)
Theo qui định tại Điều 625 BLDS, yếu tố lỗi của chủ sở hữu súc vật không
được coi là điều kiện bắt buộc trong việc xác định trách nhiệm của chủ sở hữu súc
vật. Chủ sở hữu có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người
khác. Yếu tố lỗi chỉ xác định trong các trường hợp :
- Người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm súc vật gây thiệt hại cho
mình, thì chủ sở hữu không phải bồi thường.
- Chủ sở hữu súc vật cũng không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu
thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người thứ ba thì người thứ ba có trách
nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Nếu người thứ ba và chủ sở hữu
cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
- Nếu súc vật của chủ sở hữu bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây thiệt
hại thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường.
Yếu tố lỗi của chủ sở hữu súc vật chỉ được xem xét trong trường hợp nếu chủ sở
hữu súc vật và người thứ ba cùng có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại thì chủ sở hữu
súc vật và người thứ ba phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Yếu tố lỗi
không phải là điều kiện bắt buộc đối với loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
chủ sở hữu súc vật. Tuy nhiên, trên thực tế chủ sở hữu có thể có lỗi dưới hình thức
vô ý hoặc cố ý làm cho súc vật của mình gây thiệt hại cho người khác. Căn cứ vào
hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý của chủ sở hữu súc vật, để xác định yếu tố hình sự trong
trường hợp chủ sở hữu súc vật có lỗi cố ý làm cho súc vật thuộc sở hữu của mình
gây thiệt hại nghiêm trọng cho người khác. Nhưng trong trường hợp chủ sở hữu súc
vật gây thiệt hại cho người khác thì chủ sở hữu súc vật chỉ có trách nhiệm dân sự bồi
thường thiệt hại về tài sản. Chỉ trong ba trường hợp : Thiệt hại hoàn toàn do lỗi của
người bị thiệt hại ; người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm cho súc vật gây thiệt hại cho
người khác và súc vật của chủ sở hữu bị người khác chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật gây thiệt hại.
1.2. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra (Điều 623 BLDS).
Theo qui định tại Điều 623 BLDS, nguồn nguy hiểm cao độ là những vật, thú
dữ,...có tiềm ẩn những nguy cơ gây ra thiệt hại bất ngờ cho con người hoặc gây thiệt
hại về tài sản mà không phải bao giờ con người cũng có thể lường được trước và có
thể ngăn chặn. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải được hiểu là chính sự
hoạt động tự thân (tự tại) của nó gây ra, không có sự tác động bởi hành vi có lỗi của
con người. Máy bay đang bay bị rơi, xe vận tải đang lên dốc thì bị chết máy, mất
phanh,...đã gây thiệt hại cho người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng,...
Nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được qui định với những người xung quanh, người
không có quan hệ lao động liên quan đến việc sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ như
khán giả trong rạp xiếc, người tham gia giao thông đối với các phương tiện giao
thông cơ giới khác đang hoạt động,...
Pháp luật qui định cho dù là chủ sở hữu hoặc người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ hợp pháp phải bồi thường thiệt hại khi nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra cho người khác kể cả khi họ không có lỗi. Nguyên tắc xác định người có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không áp dụng
trong các trường hợp :
- Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người gây thiệt hại.
- Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có qui định khác.
Theo qui định tại khoản 3 Điều 623 BLDS, chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho dù có lỗi hoặc không có lỗi đều có
trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cho người khác. Tuy
vậy nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ hoặc người được giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại cho người khác, thì vẫn phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo trách nhiệm dân sự, nhưng người này không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngược lại, nếu chủ sở hữu hoặc người được giao
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có lỗi vô ý hoặc cố ý để nguồn
nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, thì ngoài trách nhiệm dân sự là bồi
thường toàn bộ thiệt hại, họ có thể còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tại khoản 4
Điều 623 qui định về trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật phải bồi thường thiệt
hại. Theo qui định này, trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ không
phát sinh khi nguồn nguy hiểm cao độ của chủ sở hữu bị người khác chiếm hữu, sử
dụng trái pháp luật gây thiệt hại cho người thứ ba. Trường hợp này xảy ra trong đời
sống xã hội khi nguồn nguy hiểm cao độ bị trộm, cướp hoặc dưới các hình thức
khác thuộc hành vi chiếm đoạt trái pháp luật. Trong trườn hợp chủ sở hữu, người
được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi
trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải
liên đới bồi thường thiệt hại. Ví dụ : Chủ sở hữu xe máy giao xe cho một người
chưa đủ độ tuổi điều khiển.
1.3.
Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối, nhà cửa gây
ra. (Điều 626, 627 BLDS).
Theo qui định tại Điều 626 BLDS, chủ sở hữu cây cối phải có ý thức trong việc bảo
đảm sự an toàn của cây cối (phát cành, nếu cây có nguy cơ đổ, gẫy thì phải chặt,
đốn...). Nếu cây cối đổ, gãy gây thiệt hại thì mặc nhiên chủ sở hữu bị coi là có lỗi
(vô ý). Tuy nhiên, nếu thiệt hại hoàn toàn do người bị thiệt hại (trèo lên cây và cây
bị gãy, đốn trộm cây làm cây đổ vào người,...) thì chủ sở hữu cây cối không phải bồi
thường thiệt hại. Ngoài ra, nếu thiệt hại do cây cối đổ, gãy do sự kiện bất khả kháng
(động đất, bão,...) thì chủ sở hữu cây cối không phải chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra, lỗi của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao quản lí, sử dụng nhà cửa, công
trình xây dựng khác trong việc để những tài sản này bị sụp đổ, hư hỏng, sụp lở gây
thiệt hại cho người khác được suy đoán rằng họ đã không hành động, tức là không
thực hiện hành vi nhất định nên tài sản gây thiệt hại. Các chủ thể đã không thực hiện
nghĩa vụ tôn trong qui tắc xây dựng, không thực hiện nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối
với công trình xây dựng liền kề theo qui định tại Điêu 267, 268 BLDS.
2. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
hành vi trái pháp luật gây ra.
2.1. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể (Điều 628
BLDS)
Hành vi xâm phạm thi thể là hành vi của cá nhân do lỗi cố ý hoặc vô ý mà xâm
phạm đến thi thể của người khác. Hành vi xâm phạm thi thể được xác định theo mục
đích thực hiện hoặc hậu quả do hành vi xâm phạm thi thể gây ra. Hành vi xâm phạm
thi thể là hành vi của cá nhân hoặc nhiều cá nhân do cố ý xâm phạm đến tính toàn
vẹn của cơ thể, đã dẫn đến hậu quả thi thể của cá nhân bị biến dạng, thiếu hụt các bộ
phận tự nhiên của con người.
Người có hành vi xâm phạm thi thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nguyên tắc
này được xác định theo nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, người có
hành vi gây thiệt hại cho dù có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý đều phải bồi thường thiệt hại.
Hành vi lấy bộ phận cơ thể của cá nhân trái với ý chí của cá nhân khi còn sống là
hành vi trái pháp luật, lỗi của người lấy xác hoặc bộ phận cơ thể của một người chết
được xác đinh là lỗi cố ý. Trong trường hợp cá nhân xâm phạm đến thi thể của
người khác có thể có lỗi vô ý. Lỗi vô ý xâm phạm đến thi thể của cá nhân có thể có
trong trường hợp một cơ sở chữa bệnh đã xác định sai thời điểm cá nhân chết,
nhưng thực chất cá nhân đó đã chết, cho nên vẫn tiến hành phẫu thuật với mục đích
điều trị cho người đó. Đây cũng là hành vi xâm phạm đến thi thể của cá nhân, tuy ít
được phát hiện do chính mục đích điều trị bệnh chi phối.
Trên thực tế, còn có trường hợp những người thân thích của người có thi thể như bố,
mẹ, vợ, chồng, các con của người chết đã hiến thi thể của người chết cho cá nhân,
cơ sở y tế nhằm mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học trái với ý chí của
người có thi thể khi còn sống. Hành vi của những người thân thích trong trường hợp
này cũng là hành vi trái pháp luật, và là hành vi cố ý. Theo nguyên tắc của pháp luật
hiện hành, bất kì hành vi nào xâm phạm đến thi thể của cá nhân ngoài ý chí của cá
nhân đó khi còn sống thì cho dù hành vi đó là do cố ý hay vô ý cũng đều là hành vi
trái pháp luật.
Thi thể của cá nhân có thể bị tác động dưới các biện pháp sinh học hoặc cơ học và
hậu quả của tác động đó đã làm thay đổi, biến dạng thi thể do giải phẫu, bị lấy đi bộ
phận cơ thể để nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm, phát hiện nguyên nhân gây
bệnh,...theo một quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi bộ phận cơ
thể bị lấy, thi thể biến dạng do giải phẫu phục vụ những công việc nói trên thì cá
nhân, cơ quan tiến hành các công việc theo một quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, không bị xem là hành vi trái pháp luật, xâm phạm thi thể. Các chủ thể
thực hiện hành vi đó không phải chịu trách nhiệm dân sự.
2.2. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả (Điều 629
BLDS).
Người xâm phạm mồ mả cho dù có lỗi cố ý hoặc vô ý đều phải chịu trách nhiệm dân
sự (xét về hậu quả của hành vi xâm phạm mồ mả). Những thiệt hại về mồ mả cho dù
xuất phát từ hành vi vô ý (đào nhầm mồ mả do xác định sai vị trí,...) hay cố ý, thì
cũng đều gây ra những thiệt hại nhất định về tài sản và nhân thân hoặc gây tổn thất
về tinh thần của những người thân thích của cá nhân có mồ mả đó. Hành vi xâm
phạm mồ mả bao giờ cũng làm phát sinh thiệt hại hoặc về vật chất hoặc thiệt hại cả
về tinh thần của người còn sống, người thân thích của cá nhân có mồ mả. Từ những
nhận định trên, người xâm phạm mồ mả luôn phải chịu trách nhiệm dân sự trước
những người thân thích cuả cá nhân có mồ mả bị xâm phạm. Hành vi xâm phạm mồ
mả được xác định dưới hình thức lỗi vô ý hoặc cố ý, chỉ có ý nghĩa trong việc xác
định có hay không hành vi phạm tội của người xâm phạm mồ mả mà thôi. Trách
nhiệm dân sự không thay đổi trong mọi trường hợp khi có hành vi xâm phạm mồ mả
của cá nhân. Người gây thiệt hại phải bồi thường những thiệt hại vật chất và tinh
thần cho những người thân thích của cá nhân có mồ mả bị xâm phạm.
2.3. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra (Điều
616 BLDS)
Nhiều người cùng gây thiệt hại được hiểu là một thiệt hại tối thiểu phải do hai người
cùng gây ra. Khi nhiều người cùng gây thiệt hại, giữa họ có thể có quan hệ phụ
thuộc như người này sai khiến người kia, người này chỉ định người kia thực hiện
các hành vi nhất định hoặc cùng thỏa thuận, có tổ chức trong việc gây thiệt hại.
Trong trường hợp ‘ nhiều người cùng gây thiệt hại’, dấu hiệu lỗi có các đặc trưng
sau đây :
- Có nhều người cùng thỏa thuận và cùng thống nhất ý chí thực hiện một
hoặc nhiều hành vi gây thiệt hại cho người khác. Nhiều người cùng thống
nhất về ý chí và hành vi gây thiệt hại cho người khác. Thực hiện hành vi
gây thiệt hại trong trường hợp này, xét về khía cạnh của pháp luật hình sự
thì họ là những người đồng phạm, do phạm tội có tổ chức, xét về mặt dân
sự thì họ là những người gây thiệt hại vừa thống nhất với nhau về mặt
hành vi, vừa thống nhất với nhau về mặt hậu quả. Hành vi gây thiệt hại của
nhiều người có tổ chức là hành vi cố ý gây thiệt hại. Trong trường hợp
này, thiệt hại được xác định là do nhiều người cùng gây ra. Nhiều người
cùng gây thiệt hại không nên hiểu đơn thuần là họ cùng đồng loạt thực
hiện hành vi như nhau trong việc gây thiệt hại, mà nên hiểu là họ có cùng
chí hướng và cùng mục đích gây thiệt hại cho người khác, cho dù mỗi
người trong số họ thực hiện các hành vi khác nhau nhưng cùng một mục
đích gây ra thiệt hại.
- Nhiều người cùng gây thiệt hại không thuộc trường hợp cùng thống nhất
với nhau về hành vi hoặc cùng thống nhất với nhau về cả hành vi và hậu
quả, mà trong trường hợp nhiều người gây thiệt hại chỉ thống nhất với
nhau về mặt hậu quả, họ có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Thống nhất về mặt hậu quả là trường hợp người gây thiệt hại đã thực hiện
các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác có ý
chí. Trường hợp này thường diễn ra khi người có hành vi chiếm đoạt trái
pháp luật tài sản của người khác và người tiêu thụ tài sản do người phạm
tội mà có. Theo qui định của pháp luật hình sự thì họ là đồng phạm và
trách nhiệm dân sự của họ là liên đới bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, cũng
tồn tại trong những trường hợp khác cho dù người thực hiện hành vi gây
thiệt hại không có chủ đích, không cố ý nhưng do hành vi vô ý của họ đã
dẫn đến thiệt hại về tài sản của người khác, thì trách nhiệm liên đới thuộc
về những người có hành vi vô ý gây thiệt hại được xác định là cùng thống
nhất với nhau về mặt hậu quả. Ví dụ : hai người do mâu thuẫn mà xô đẩy
nhau, khiến cho một người thứ ba bị ngã đã gây thiệt hại về tài sản cho
người khác, thì cả hai người có hành vi xô đẩy nhau phải liên đới bồi
thường thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhiều người cùng gây thiệt hại theo qui định
tại Điều 616 là trách nhiệm dân sự liên đới. Phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi
của mỗi người gây ra phải bồi thường không làm triệt tiêu trách nhiệm dân sự liên
đới của nhiều người cùng gây thiệt hại. Bên bị thiệt hại có quyền yêu càu bên có
trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại theo nội dung của trách nhiệm liên đới.
Quan hệ tài sản giữa bên gây thiệt hại gồm nhiều người và bên bị thiệt hại là trách
nhiệm liên đới, còn phần bồi thường của mỗi người trong số nhiều người gây thiệt
hại tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người là xét trong mối quan hệ giữa những
người có trách nhiệm liên đới với nhau trong trường hợp một người có trách nhiệm
liên đới đã bồi thường thiệt hại cho bên bị thiệt hại, để có cơ sơ thực hiện theo phần
trong nghĩa vụ hoàn lại. Nếu không xác định được mức độ lỗi thì những người có
trách nhiệm phải bồi thường theo phần bằng nhau.
2.4. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hỗn hợp lỗi (Điều
617 BLDS)
Theo qui định tại Điều 617 BLDS, trách nhiệm của người bị thiệt hại và người gây
thiệt hại đều có lỗi đối với thiệt hại, thì trách nhiệm của cả hai bên là trách nhiệm
hỗn hợp. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm hỗn hợp là mỗi bên, bên
gây thiệt hại và bên bị thiệt hại phải chịu trách nhiệm về tài sản tương ứng với mức
độ lỗi của mình. Về mức độ lỗi, BLDS không có bất cứ một điều luật nào qui định,
nhưng khi xét mức độ lỗi cần thiết phải tham khảo những qui định về mức độ lỗi
trong Bộ luật Hình sự. Mức độ lỗi chỉ được đặt ra với hình thức lỗi vô ý mà gây
thiệt hại, mức độ lỗi không thể tồn tại trong hành vi cố ý gây thiệt hại. Hành vi cố ý
thể hiện rõ bản chất nguy hiểm của hành vi gây thiệt hại là mong muốn thiệt hại xảy
ra và hành vi gây thiệt hại do lỗi cố ý luôn luôn nhằm mục đích gây thiệt hại cho
người khác. Với những bản chất của lỗi cố ý do hành vi cố ý thực hiện, còn lỗi vô ý
gây thiệt hại thì người có hành vi vô ý không mong muốn thiệt hại xảy ra, và pháp
luật căn cứ vào yếu tố tâm lí của chủ thể gây thiệt hại để xác định lỗi vô ý gồm có
vô ý vì cẩu thả, vô ý vì quá tự tin cho nên đã gây thiệt hại cho người khác. Mức độ
lỗi của mỗi bên trong việc gây thiệt hại là căn cứ để xác định trách nhiệm theo phần
của hành vi gây thiệt hại. Trách nhiệm hỗn hợp không có điểm nào chung với trách
nhiệm liên đới bởi nội dung thực hiện trách nhiệm liên dới và trách nhiệm hỗn hợp
có đặc điểm rất khác nhau. Theo qui định tại Điều 617 BLDS, thì trường hợp một
người do lỗi vô ý mà gây thiệt hại và người bị thiệt hại cũng có lỗi vô ý trong thiệt
hại, thì người gây thiệt hại chỉ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với
mức độ lỗi của mình, và người bị thiệt hại chịu thiệt hại về tài sản do lỗi vô ý của
mình gây ra. Tuy nhiên, theo qui định tại Điều 617 BLDS, cần thiết phải làm rõ
những yếu tố khác biệt mang tính chất loai trừ trách nhiệm hỗn hợp.
Thứ nhất, người gây thiệt hại có lỗi vô ý và người bị thiệt hại cũng có lỗi vô ý đối
với một hoặc nhiều thiệt hại xác định được là do lỗi vô ý của mỗi bên gây ra. Như
vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang tính chất theo phần – phần bồi thường
thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại. Trong
những trường hợp không có căn cứ để xác định mức độ lỗi của mỗi bên thì trách
nhiệm hỗn hợp được chia đều, mỗi bên chịu trách nhiệm về tài sản theo phần bằng
nhau.
Thứ hai, cũng theo qui định tại Điều 617 BLDS, trong trường hợp thiệt hại xảy ra
hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường.
Nếu người thiệt hại có lỗi cố ý, thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. Nếu
cả hai người cùng có lỗi vô ý, thì trách nhiệm hỗn hợp được áp dụng đối với cả hai
bên, trong trường hợp cả hai người cùng có lỗi cố ý thì trách nhiệm bồi thường
không phát sinh. Còn nếu người gây thiệt hại có lỗi cố ý, người bị thiệt hại có lỗi vô
ý thì trách nhiệm thuộc về người có hành vi cố ý gây thiệt hại.
2.5. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường (Điều
624 BLDS)
Trách nhiệm của người có hành vi gây ô nhiễm môi trường phát sinh trong cả
trường hợp người đó có lỗi hoặc không có lỗi, đều phải bồi thường. Người gây ô
nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại theo trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Người đó còn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp gây ô
nhiễm về không khí, về nguồn nước, đất đai theo qui định tại các Điều 182, 183, 184
BLHS.
Xét về yếu tố lỗi của hành vi làm ô nhiễm môi trường pháp luật đã qui định cho dù
người gây ô nhiễm môi trường có lỗi hoặc không có lỗi đều có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Như vậy, yếu tố lỗi không phải là yếu tố quyết định đến việc xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường. Trách
nhiệm dân sự do hành vi gây ô nhiễm môi trường được xác định dựa trên mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi gây ô nhiễm môi trường và thiệt hại xảy ra, do thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường có nhiều đặc trưng, không giống như cách xác định
thiệt hại như những hành vi thiệt hại khác ở nhiều yếu tố.
2.6. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi, người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác
trực tiếp quản lí (Điều 621 BLDS)
Trách nhiệm của nhà trường được xác định đối với những thiệt hại do học sinh gây
ra trong thời gian học ở trường như một nguyên tắc. Qui định này nhằm nâng cao
trách nhiệm của nhà trường trong việc quản lí học sinh đang ở độ tuổi học trong
trường trung học cơ sở trở xuống. Nhà trường có nghĩa vụ quản lí học sinh trong
thời gian học tại trường theo thời khóa biểu học tập hoặc lao động, vui chơi, giải trí
do nhà trường tổ chức và học sinh gây thiệt hại cho người khác, nhà trường phải bồi
thường. Đây là trách nhiệm pháp lí do pháp luật qui định, không phụ thuộc vào việc
nhà trường có lỗi hoặc không có lỗi trong việc quản lí học sinh.
Một người bị mất năng lực hành vi dân sự được hiểu là người đã có năng lực hành
vi dân sự nhưng bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình và đã có kết luận của cơ quan chuyên môn, đang
được điều trị tại một bệnh viện hoặc đang được một tổ chức có chuyên môn, nghiệp
vụ trực tiếp quản lí người này và người này đã gây thiệt hại cho người khác thì bệnh
viện, tổ chức đang có nghĩa vụ quản lí trực tiếp phải bồi thường thiệt hại. Qui định
này của pháp luật được dựa trên các căn cứ chủ thể nào đang có nghĩa vụ trực tiếp
quản lí người mất năng lực hành vi dân sự thì chủ thể đó có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho người khác, thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ thể quản
lí người bị mất năng mực hành vi dân sự gây thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp
lí phụ thuộc vào yếu tố lỗi của chủ thể quản lí, mà căn cứ vào thời điểm người bị
mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác có đang là người được chủ
thể là bệnh viện, cơ quan quản lí người đó. Các điều kiện cần và đủ này là căn cứ để
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bệnh viện, tổ chức có nghĩa vụ trực
tiếp quản lí người gây thiệt hại.
Nếu trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được họ không có lỗi trong
việc quản lí người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự ( người dưới 15
tuổi trong lúc ngoài giờ học tại trường, người bị mất năng lực hành vi dân sự gây
thiệt hại trong thời gian đang ở ngoài bệnh viện theo yêu cầu của gia đình,...) thì họ
không có trách nhiệm bồi thường.
Người bị thiệt hại có lỗi cố ý mà dẫn đến việc gây thiệt hại của người dưới 15 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại do chính người có hành vi cố ý
hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba thì trường học, bệnh viện, tổ chức cho dù đang
trực tiếp quản lí những người trực tiếp gây thiệt hại cũng không phải bồi thường.
Trách nhiệm bồi thường thuộc về người có hành vi cố ý.
2.7. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề
gây ra (Điều 622 BLDS).
Người giao việc cho người học nghề thưc hiện các hành vi theo ý chí của mình, do
vậy người giao việc trước hết phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, mà khồng
cần điều kiện người giao việc có lỗi hay không có lỗi. Trách nhiệm của người giao
việc là trách nhiệm pháp lí do pháp luật qui định. Hành vi giao việc trong trường
hợp này cũng tương tự như sự ủy quyền, và người ủy quyền phải chịu trách nhiệm
về hành vi ủy quyền của mình, khi người được ủy quyền gây thiệt hại cho người thứ
ba. Người dạy nghề giao việc cho người học nghề, mà người học nghề có hành vi
gây thiệt hại cho người thứ ba, thì người dạy nghề có trách nhiệm bồi thường toàn
bộ thiệt hại cho người thứ ba theo trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, là bồi thường
toàn bộ và kịp thời. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về người dạy nghề vì đã
giao công việc cho người học nghề, và người này có hành vi gây thiệt hại cho người
khác. Việc thực hiện các công việc cụ thể do người dạy nghề giao cho nên người bị
thiệt hại là chủ thể của quan hệ - một bên và chủ thể dạy nghề là bên thứ hai, còn
người học nghề chỉ là người thực hiện công việc theo sự chỉ định của chủ thể giao
việc – là bên dạy nghề. Người học nghề chỉ là chủ thể trực tiếp gây thiệt hại, mà
không phải là chủ thể bồi thường cho người bị thiệt hại vì người học nghề là người
phụ thuộc vào người dạy nghề và thực hiện các hành vi do người dạy nghề chỉ định.
Trách nhiệm hoàn trả của người học nghề cho người dạy nghề là quan hệ bên trong,
tùy theo hành vi có lỗi của người học nghề gây thiệt hại. Quyền của bên dạy nghề
được yêu cầu người học nghề đã trực tiếp gây thiệt hại, thì người học nghề có nghĩa
vụ hoàn trả một phần hoặc toàn bộ giá trị tài sản mà người dạy nghề đã bồi thường
cho người bị thiệt hại theo những mức mà pháp luật qui định.
Về người làm công được qui định trong BLDS, được hiểu là cá nhân thực hiện các
công việc vì lợi ích của người khác theo chỉ định của người có công việc và được
hưởng tiền công do bên sử dụng làm công trả theo thỏa thuận hoặc theo qui định của
pháp luật. Người làm công là người được người sử dụng làm công ‘dắt tay chỉ việc’
cho nên không có quyền tự tổ chức thực hiện công việc, mà thực hiện công việc theo
sự chỉ định của người sử dụng làm công. Bên sử dụng lao động là công phải bồi
thường thiệt hại do người làm công gây ra cho người khác trong khi thực hiện công
việc được giao. Nhưng trong trường hợp, người làm công có lỗi gây thiệt hại, có
nghĩa vụ hoàn trả một khoản tiền cho bên sử dụng làm công theo qui định của pháp
luật. Người làm công có lỗi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hịa trong khi thực hiện công
việc được bên sử dụng lao động làm công giao, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của bên sử dụng làm công đối với người bị gây thiệt hại là trách nhiệm dân sự ngoài
hợp đồng. Trách nhiệm của người làm công có lỗi trong việc gây thiệt hại có nghĩa
vụ phải hoàn trả một khoản tiền theo yêu cầu của người sử dụng lao động làm công.
2.8. Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức, do người có
thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (Điều 619, 620 BLDS)
Cơ quan, tổ chức quản lí cán bộ, công chức phải bòi thường cho người bị thiệt hại
khi có các điều kiện :
- Cán bộ, công chức thuộc diện quản lí của cơ quan, tổ chức có hành vi gây
thiệt hại cho người khác ;
- Thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ của cơ
quan, tổ chức giao cho.
Việc bồi thường thiệt hại của cơ quan, tổ chức trong trường hợp này theo nguyên tắc
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bồi thường toàn bộ thiệt hại và bồi thường theo
quyết định của tòa án. Vì người cán bộ, công chức đang thực hiện nhiệm vụ của tổ
chức, cơ quan mà gây thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thuộc về cơ quan, tổ chức
đang quản lí người cán bộ, công chức đó. Nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với đời
sống xã hội và bảo đảm được quyền bình đẳng trong quan hệ pháp luật dân sự.
Những lợi ích tài sản của cơ quan, tổ chức đã bị mất đi do phải được thực hiện nghĩa
vụ bồi thường cho người bị thiệt hại có được hoàn trả một phần hay toàn bộ, còn tùy
thuộc vào hình thức lỗi của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ mà gây
thiệt hại cho người khác. Điều 619 BLDS qui định trong trường hợp cán bộ có lỗi
trong khi thi hành công vụ mà gây thiệt hại thì cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
cán bộ, công chức phải hoàn trả một khoản tiền theo qui định của pháp luật. Theo
qui định này, thì thẩm quyền buộc người gây thiệt hại cho người khác phải hoàn trả
khoản tiền cho cơ quan, tổ chức nếu người gây thiệt hại có lỗi trong khi thi hành
nhiệm vụ. Quan hệ hoàn trả của người cán bộ, công chức đối với tài sản của cơ
quan, tổ chức là trách nhiệm hành chính và thuộc thẩm quyền của thủ trưởng cơ
quan, tổ chức quyết định mức hoàn trả dựa trên căn cứ luật định.
Theo Điều 620 BLDS, cơ quan tiến hành tố tụng cũng phải bồi thường thiệt hại do
người có thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tố
tụng. Tuy nhiên, nếu người gây thiệt hại có lỗi thì họ phải hoàn trả một khoản tiền
nhất định cho cơ quan tiến hành tố tụng. Mức hoàn trả này được xác định theo quyết
nghị của thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng đó trên cơ sở kiến nghị của hội đồng
xét giải quyết việc hoàn trả.
2.9.
Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vượt quá yêu cầu của
phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết ( Điều 613, 614 BLDS) :
Hành vi gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng không bị coi là hành vi trái pháp luật,
từ đó pháp luật suy đoán rằng người phòng vệ chính đáng (người thực hiện hành vi
chống trả) không có lỗi. Nếu hành vi chống trả được coi là phòng vệ chính đáng thì
người gây thiệt hại khong phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Để xác định một
hành vi có là phòng vệ chính đáng hay không, cần xem xét các yếu tô như : hành vi
của người khác là cơ sở để chống trả lại là hành vi trái pháp luật ; hành vi trái pháp
luật đó phải đang gây thiệt hại cho đối tượng bị xâm hại ; hành vi phòng vệ chính
đáng phải gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm hại.
Hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng ở đây được hiểu là khi bị người
khác gây thiệt hại, người phòng vệ chính đáng đã có hành vi gây thiệt hại ngược trở
lại nhưng đã có sai lầm trong việc đánh giá mức độ của sự tấn công, điều kiện hoàn
cảnh của hành vi tấn công và hành vi chống trả, do đó vượt quá giới hạn cần thiết
nên đã gây thiệt hại cho người có hành vi gây thiệt hại ban đầu. Vì vậy, hành vi của
họ đã vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Việc này được coi là trái pháp luật và
họ phải bồi thường. Lỗi của người phòng vệ chính đáng được xác định ở phần vượt
quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
Tương tự, theo Điều 614 BLDS, người gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết
đã có sự sai lầm trong việc đánh giá mức độ gây thiệt hại của « nguy cơ đe dọa »
nên họ đã gây thiệt hại vượt quá so với yêu cầu của tình thế cấp thiết. Lỗi của người
gây thiệt hại được xác định là lỗi đối với phần vượt quá nên họ chỉ phải bồi thường
thiệt hại đối với phần vượt quá mà thôi.
2.10.
Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra (Điều 615 BLDS)
Pháp luật nói chung, pháp luật dân sự nói riêng buộc con người phải chịu
trách nhiệm về hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, pháp luật
cũng không buộc một người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình khi họ
không nhận thức và làm chủ được hành vi khi họ gây thiệt hại. Điều này không đồng
nghĩa với việc trong mọi trường hợp pháp luật đều miễn trách nhiệm cho người thực
hiện hành vi gây thiệt hại mà vào thời điểm gây thiệt hại, người gây thiệt hại không
nhận thức và làm chủ hành vi của mình. Trước khi thực hiện hành vi gây thiệt hại,
người gây thiệt hại hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của
mình nhưng bản thân người gây thiệt hại lại tự đặt mình vào tình trạng không nhận
thức và làm chủ hành vi đó. Nếu người gây thiệt hại tự đặt mình vào tình trạng say
do dùng chất kích thích thì họ phải chịu trách nhiệm về hậu quả của hành vi đó.
Người gây thiệt hại có lỗi đối với tình trạng say của mình và do vậy cũng có lỗi đối
với thiệt hại xảy ra trong khi say.
Nếu người gây thiệt hại do dùng chất kích thích nhưng bản thân họ không tự kiểm
soát được việc dùng chất kích thích – tức là có một người thứ ba cố ý dùng chất kích
thích để người này gây thiệt hại, thì người gây thiệt hại không phải bồi thường. Theo
qui định tại khoản 2 Điều 615 BLDS, người cố ý dùng chất kích thích làm cho
người khác không thể nhận thức được hành vi của mình và do đó đã gây thiệt hại thì
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra (ví dụ : đổ rượu, bia vào miệng, cưỡng bức
tiêm vào người khác chất kích thích). Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích
thích khác để đưa người khác vào tình trạng không nhận thức và làm chủ hành vi
của mình gây thiệt hại thì người có hành vi cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích này
phải bồi thường thiệt hại xảy ra, không cần xét đến mục đích của việc cố ý dùng
rượu hoặc chất kích thích khác là nhằm để người kia gây thiệt hại (người bị dùng
rượu hoặc chất kích thích).
KẾT LUẬN :
Yếu tố lỗi đã được pháp luật dân sự Việt Nam đề cập khá đầy đủ và chi tiết, tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, trong thời đại hội nhập
quốc tế và nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ như hiện nay, thiết nghĩ, các
qui phạm pháp luật sẽ vẫn cần những thay đổi. Chế định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng ngày càng được hoàn thiện,với những qui phạm pháp luật
mới chặt chẽ và bao quát nhiều quan hệ xã hội hơn , có thể lấy ví dụ bằng việc ban
hành Luật Bồi thường Nhà nước năm 2010. Việc nhận thức rõ về lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – một quan hệ xã hội hết sức phổ biến,
giúp cho công tác áp dụng pháp luật ngày càng thêm thuận lợi, giúp cho ngành tòa
án và những người hành nghề luật áp dụng pháp luật một cách chính xác, góp phần
bảo đảm pháp chế trong thời đại mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2005
2. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính
mạng – TS. Phùng Trung Tập. NXB. Hà Nội, năm 2009.
3. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 8/7/2006 Hướng dẫn các qui
định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS 2005.
4. Giáo trình luật Dân sự Việt Nam, module 1, module 2 NXB CAND,
2006
5. Bình luận khoa học bộ luật dân sự Việt Nam - Bộ tư pháp, Viện
nghiên cứu khoa học pháp lí
MỤC LỤC
Điều 308. Lỗi trong trách nhiệm dân sự................................................................................2
Điều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại...........................................................................4
Điều 615.Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra...................................5
Điều 624. Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.................................................5
MỤC LỤC
Điều 308. Lỗi trong trách nhiệm dân sự................................................................................2
Điều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại...........................................................................4
Điều 615.Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra...................................5
Điều 624. Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.................................................5