Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tìm hiểu và đưa ra một số những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.62 KB, 11 trang )

Danh mục viết tắt
ĐCGQVADS
GQVADS
BLTTDS
TA
TADNTC
HĐXX

: Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
: Giải quyết vụ án dân sự
: Bộ luật tố tụng dân sự
: Toà án
: Toà án nhân dân tối cao
: Hội đồng xét xử

1


A. LỜI MỞ ĐẦU
Bên cạnh những kết quả đạt được thì những quy định của
pháp luật hiện nay về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở
toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm còn có nhiều vấn đề cần được
xem xét cho thoả đáng với thực tiễn áp dụng. Do đó, nội dung
bài tiểu luận xin đi vào tìm hiểu và đưa ra một số những kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đình chỉ giải quyết vụ
án ở toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Vấn đề đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở toà án cấp sơ
thẩm, phúc thẩm
1. Khái niệm chung về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự:
* Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (ĐCGQVADS) là việc Tòa án


quyết định ngừng hẳn việc giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý khi
có những căn cứ do pháp luật quy định, sau khi quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu lực pháp luật thì đương sự
không có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ
việc đó nữa, trừ những trường hợp đặc biệt mà pháp luật có quy
định khác.
* Việc ĐCGQVADS có những đặc điểm sau: ĐCGQVADS phải
dựa trên những căn cứ mà pháp luật đã quy định trước chứ
không được tiến hành tùy tiện theo ý chí chủ quan của tòa án;
ĐCGQVADS làm cho hoạt động tố tụng GQVADS đã thụ lý của
Tòa án được ngừng lại và Tòa án không GQVADS đó nữa;
ĐCGQVADS đã làm chấm dứt việc GQVADS ở một giai đoạn tố
tụng nào đó nhưng nó không phải là một quyết định về nội dung
của vụ án dân sự mà chỉ đơn thuần là một quyết định về tố tụng
làm chấm dứt việc GQVADS mà Tòa án đã thụ lý; Việc
ĐCGQVADS có thể được tiến hành ở Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa
án cấp phúc thẩm, Giám đốc thẩm và Tái thẩm. Do vấn đề
ĐCGQVADS ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm trên thực tế phổ
biến hơn cả vì vậy trong nội dung bài tiểu luận này chỉ xin
nghiên cứu về vấn đề ĐCGQVADS ở tòa án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm.
2. Căn cứ ĐCGQVADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
Căn cứ ĐCGQVADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm được quy
định tại Điều 192 BLTTDS 2004:
“1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường
hợp sau đây:
2



a) Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa
vụ của họ không được thừa kế;
b) Cơ quan, tổ chức đã bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà
không có cá nhân, cơ quan, tổ chức nào kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng của cơ quan, tổ chức đó;
c) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận
hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện;
d) Cơ quan, tổ chức rút văn bản khởi kiện trong trường hợp
không có nguyên đơn hoặc nguyên đơn yêu cầu không tiếp tục
giải quyết vụ án;
đ) Các đương sự đã tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án tiếp
tục giải quyết vụ án;
e) Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt;
g) Ðã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với
doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà
việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ, tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã đó;
h) Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
2. Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xóa
tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu vụ án thuộc trường hợp
trả lại đơn khởi kiện quy định tại Ðiều 168 của Bộ luật này.”
Đối với trường hợp ĐCGQVADS tại Tòa án cấp phúc thẩm
cần phải phối hợp với các căn cứ tại: Ðiều 269. Nguyên đơn rút
đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc
thẩm:
“1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm
phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà

giải quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi
kiện của nguyên đơn;
b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản
án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này,
các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo
quy định của pháp luật.

3


2. Trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại
vụ án theo thủ tục do Bộ luật này quy định nếu thời hiệu khởi
kiện vẫn còn.”
Và Ðiều 278. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ
án: “Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ
giải quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án
cấp sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại
Ðiều 192 của Bộ luật này.”
Ngoài ra, cần xem xét các trường hợp khác mà pháp luật
quy định tại Nghị quyết 02/2006 NQ-HĐTP của hội đồng thẩm
phán tòa án nhân dân tối cao (tại mục 10 phần II của NQ
02/2006 NQ-HĐTP)
3. Thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc
ĐCGQVADS ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm
a) Ở Tòa án cấp sơ thẩm
* Thẩm quyền và thủ tục : trong quyết định chuẩn bị xét xử có

căn cứ được quy định tại Điều 192 BLTTDS thì thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án quyết định, tại phiên tòa, việc ra
quyết định ĐCGQVADS phải do HĐXX quyết định và được
thông qua tại phòng nghị án theo quy định tại khoản 2 Điều 210.
Việc ĐCGQVADS được thể hiện bằng quyết định ĐCGQVADS.
Nội dung của quyết định được quy định cụ thể tại nghị quyết số
02/2006 NQ-HĐTP.
* Hậu quả pháp lý: theo quy định tại Điều 193 BLTTDS khi có
quyết định ĐCGQVADS thì đương sự không có quyền khởi kiện
lại, trừ các trường hợp sau:
- Người khởi kiện đã rút đơn khởi kiện và được tòa án chấp
nhận hoặc người khởi kiện không có quyền khởi kiện…tuy
nhiên, khi khởi kiện lại phải có thời hiệu khởi kiện và người
khởi kiện có quyền khởi kiện.
- Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn
vắng mặt.
- Đã có quyết định của Tòa án mở thủ tục phá sản đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án mà việc
GQVADS đó có liên quan. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã trong
vụ án đó không bị tòa án ra quyết định tuyên bố phá sản thì có
quyền khởi kiện lại.
Đối với tiền tạm ứng án phí khi tòa án ra quyết định
ĐCGQVADS thì: trường hợp toàn án ra quyết định theo các căn
4


cứ ở khoản 1 Điều 192 thì tiền tạm ứng án phí các đương sự đã
nộp được sung công quỹ nhà nước; nếu thuộc khoản 2 Điều 192
thì tòa án trả lại cho đương sự.
Quyết định ĐCGQVADS có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo

thủ tục phúc thẩm, vì vậy, trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ
ngày ra quyết định ĐCGQVADS Tòa án phải gửi quyết định đó
cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
b) Ở cấp phúc thẩm
* Thẩm quyền và thủ tục : các căn cứ ĐCGQVADS có thể được
phát hiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa Phúc thẩm.
Tuy nhiên, ĐCGQVADS tại Tòa án phúc thẩm được tiến hành
khi đã có bản án sơ thẩm, do đó, việc ĐCGQVADS trong thủ tục
phúc thẩm là quyết định “ số phận” pháp lý của bản án sơ thẩm
nên nó phải được quyết định tại phiên tòa phúc thẩm. Thẩm
quyền ĐCGQVADS chỉ thuộc về Hội đồng xét xử phúc thẩm
theo quy định tại Điều 269 và Điều 278 BLTTDS. Nội dung,
mẫu quyết định được quy định cụ thể tại nghị quyết số 05/2006
NQ-HĐTP của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao.
Đối với trường hợp người khởi kiện rút đơn khởi kiện ở
Tòa án cấp phúc thẩm thì cần phải có sự đồng ý của bị đơn mới
có thể ĐCGQVADS. Khoản 1 Điều 269 BLTTDS quy định:
trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa
hoặc tại phiên tòa phúc thẩm thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị
đơn có đồng ý hay không và tùy từng trường hợp mà giải quyết
như sau:
+ Nếu bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận yêu cầu rút đơn
khởi kiện của nguyên đơn
+ Nếu bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn. HĐXX ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và
ĐCGQVADS.
* Hậu quả pháp lý : theo quy định tại Điều 278 BLTTDS thì
HĐXX phúc thẩm phải “ hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án nếu trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
sơ thẩm, vụ án thuộc một trong các trường hợp quy định tại

Ðiều 192 của Bộ luật này.” Theo đó, trong quá trình GQVADS
tại tòa án cấp sơ thẩm thì các căn cứ này đã xuất hiện và tồn tại
nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã không phát hiện để có quyết định
ĐCGQVADS theo quy định của pháp luật mà tòa án cấp sơ thẩm
vẫn giải quyết vụ án, vì vậy, khi xem xét vụ án theo thủ tục

5


phúc thẩm, tòa án cấp phúc thẩm phát hiện ra các căn cứ được
quy định tại Điều 192, sẽ hủy bản án sơ thẩm và ĐCGQVADS.
II. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự ở toà án sơ thẩm, phúc thẩm
Theo số liệu thống kê của TA dân sự - TANDTC năm 2008
về tình hình giải quyết các vụ việc dân sự cho thấy trong số các
vụ án dân sự mà TA thụ lý thì số các vụ án mà TA phải ra quyết
định đình chỉ chiếm 1 tỉ lệ không nhỏ:
- Đối với các vụ án phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự do TA
cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thì số vụ đình chỉ so
với số vụ đã giải quyết là 13.343/72494 chiếm tỷ lệ là
18,4%tổng số vụ việc đã được giải quyết.Ở các Tòa án cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương thì số vụ án đình chỉ ở cấp sơ
thẩm là 479/2068 vụ đã giải quyết, chiếm tỷ lệ 0,68%.
- Số vụ án đình chỉ ở TA cấp phúc thẩm ở TAND cấp tỉnh là
929/12529 vụ đã được giải quyết chiếm tỷ lệ 7,24% (theo tài
liệu tham khảo Hội nghị triển khai công tác năm 2009 của
ngành TAND (trang 3)).
Các quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc vận dụng ĐCGQVADS trên thực tiễn. Tuy nhiên, trong quá
trình áp dụng các quy định của pháp luật vẫn còn nảy sinh nhiều

bất cập do sự không nhất quán trong việc sử dụng thuật ngữ, sự
thiếu sót, bất hợp lý thậm chí là mâu thuẫn trong các quy định
về căn cứ ĐCGQVADS… Đây là những nguyên nhân dẫn tới
những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật
hiện hành về vấn đề ĐCGQVADS tại TA cấp sơ thẩm, phúc
thẩm. Những hạn chế, bất cập đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ
sung các quy định pháp luật cho phù hợp. Vì vậy bài viết xin
đưa ra một số ý kiến tham khảo như sau:
1. Sử dụng các quy định về thuật ngữ trong BLTTDS theo hướng
thống nhất thuật ngữ.
Theo hướng dẫn tại mục 10 phần II nghị quyết số 02/2006
NQ-HĐTP TANDTC 12/5/2006 thì TA ra quyết định “ đình chỉ
giải quyết toàn bộ vụ án dân sự ” trong trường hợp tất cả các
đương sự đều rút yêu cầu của mình. Trong trường hợp ngược lại
thì TA chỉ “ĐCGQVADS đối với yêu cầu của đương sự đã rút ”
đồng thời tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung đối với
các yêu cầu còn lại của đương sự khác. Việc sự dụng thuật ngữ
này chưa thực sự hợp lý. Ngoài ra, theo quy định tại phần III
mục 7 của nghị quyết số 02/2006 thì thuật ngữ “đình chỉ xét xử
6


đối với yêu cầu của đương sự đã rút” lại được sử dụng lại. Do
vậy, để đơn giản hóa và sử dụng thống nhất các thuật ngữ xin
kiến nghị sửa đổi các thuật ngữ liên quan trong BLTTDS theo
hướng sau: thuật ngữ “ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc
việc dân sự” sẽ được sử dụng nếu tất cả các đương sự đều rút
đơn yêu cầu của mình. Nếu một trong số các đương sự có đương
sự rút, có đương sự không thì không phân biệt việc rút đơn
trước khi mở phiên tòa hay tại phiên tòa sơ thẩm, thuật ngữ

“đình chỉ giải quyết yêu cầu của đương sự” sẽ được sử dụng.
2. Bổ sung căn cứ ĐCGQVADS nếu bị đơn là cá nhân chết
nhưng không để lại tài sản thừa kế. Xét về bản chất thì sự kiện
người có nghĩa vụ chết không để lại di sản là căn cứ để chấm
dứt việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, do pháp luật đã bỏ sót
không quy định căn cứ đình chỉ này trong luật, vì vậy xin kiến
nghị bổ xung vào Điều 192 quy định: TA ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án nếu nguyên đơn chết mà không để lại tài sản .
3. Bổ sung quy định hướng dẫn việc xử lý trong trường hợp
tranh chấp về tài sản những nguyên đơn chết mà không có người
thừa kế.
Do không giải thích cụ thể nên dẫn tới hiện tượng hiểu và
vẫn dụng không đúng quy định tài điểm a khoản 1 Điều 192
“Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ
của họ không được thừa kế ”để ra quyết định ĐCGQVADS trong
trường hợp nguyên đơn có tài sản tranh chấp chết nhưng không
có người thừa kế tài sản. Việc vận dụng như trên là không đúng
với tinh thần của Điều 192, vì quy định này không được áp dụng
cho các quan hệ về nhân thân mà quyền, nghĩa vụ của nguyên
đơn không được thừa kế. Đối với trường hợp trên thì đây là
trường hợp tranh chấp về tài sản, nguyên đơn chết,quyền, nghĩa
vụ tài sản được thừa kế nhưng không có người thừa kế thì theo
quy định tại Điều 66 BLDS 2005 tài sản sẽ thuộc về nhà nước.
Do vậy, kiến nghị bổ sung quy định này như sau: đối với
vụ án tranh chấp về tài sản mà nguyên đơn chết nhưng không
người thừa kế tài sản thì TA không đình chỉ mà vẫn tiến hành
GQVA. Nếu quyết định tài sản thuộc về quyền sở hữu,sử dụng
của nguyên đơn thì tài sản này thuộc về nhà nước quản lý .
4. Sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều
192 BLTTDS về căn cứ ĐCGQVADS theo hướng mở rộng phạm

vi áp dụng đối với việc dân sự. Căn cứ này sẽ được vận dụng
tương tự đối với việc ĐCGQVADS trong trường hợp người yêu
7


cầu rút đơn yêu cầu hoặc người yêu cầu không có quyền yêu
cầu. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc đình chỉ ĐCGQVADS thì
kiến nghị sửa đổi điểm c và d theo hướng xác lập căn cứ
ĐCGQVADS như sau: Đương sự đã khởi kiện, yêu cầu rút đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc người đại diện của đương sự đã
thực hiện việc khởi kiện rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu nhưng
nguyên đơn, người yêu cầu không yêu cầu TA tiếp tục giải quyết
vụ việc.
5. Sửa đổi bổ sung quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168
BLTTDS theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng đối với việc dân
sự. Theo quy định tại khoản 2 Điều 192 và điểm a khoản 1 Điều
168 BLTTDS thì TA ĐCGQVADS nếu sau khi đã thụ lý Vụ án
dân sự mới phát hiện được “ thời hiệu khởi kiện đã hết ”. Căn cứ
này có nghĩa là: khoảng thời gian đó do pháp luật quy định cho
đương sự có quyền yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình đã hết. Vì TA đã thụ lý vụ án nên khi phát hiện ra căn
cứ này TA sẽ ra quyết định ĐCGQVADS, không giải quyết yêu
cầu của đương sự đó nữa. Ở đây, ý kiến cho rằng căn cứ này sẽ
được vận dụng tương tự đối với việc đình chỉ giải quyết việc
dân sự trong trường hợp thời hiệu yêu cầu đã hết. Do vậy, cần
sửa đổi quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 BLTTDS theo
hướng TA trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu nếu thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu đã hết. Trường hợp sau khi đã thụ lý vụ
án, TA mới phát hiện căn cứ này thì TA sẽ ra quyết định
ĐCGQVADS.

6. Sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS theo
hướng loại bỏ sự trùng lặp và sắp xếp lại căn cứ “ người khởi
kiện không có quyền khởi kiện ” cho phù hợp.
Căn cứ “người khởi kiện không có quyền khởi kiện ” dường
như được xếp cùng nhóm với căn cứ “ người khởi kiện rút đơn
yêu cầu khởi kiện”. Điều này là không hợp lý. Căn cứ này lẽ ra
nên xếp vào nhóm căn cứ TA đã thụ lý vụ án khi không có đủ
điều kiện thụ lý mà pháp luật quy định (loại bỏ khỏi khoản 1
Điều 192) để tránh sự trùng lặp với căn cứ tại khoản 1 Điều 167
và phù hợp với lý luận hơn. Tương tự, đối với việc đình chỉ giải
quyết việc dân sự trong trường hợp người yêu cầu rút đơn yêu
cầu hoặc người yêu cầu không có quyền yêu cầu.
Vì vậy, bên cạnh việc loại bỏ sự trùng lặp thì cần sửa đổi
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 168 theo hướng : người khởi

8


kiện, người yêu cầu không có quyền khởi kiện, yêu cầu TA giải
quyết vụ việc.
7. Sửa đổi quy định tại điểm d khoản 1 Điều 192 theo hướng cụ
thể hóa hơn ý chí của đương sự trong việc yêu cầu TA giải quyết
vụ án dân sự. BLTTDS chưa quy định rõ ràng khi dùng cụm từ
“không yêu cầu TA tiếp tục giải quyết vụ án ”. Trường hợp
đương sự không thông bào kết quả của sự tự thỏa thuận cho TA
hoặc đương sự tự thỏa thuận xong và không đến TA để yêu cầu
không tiếp tục GQVA nữa thì Ta không thể biết được để ra
quyết định ĐCGQVADS. Sẽ hợp lý hơn nếu quy định sửa đổi tại
điểm d khoản 1 Điều 192 theo hướng cụ thể hóa hơn ý chí của
đương sự trong việc yêu cầu TA GQVADS và mở rộng phạm vi

áp dụng đối với việc dân sự như sau : các đương sự đã tự thỏa
thuận và yêu cầu TA không tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự.
8. Về sửa đổi quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 về căn cứ
ĐCGQVADS theo hướng làm rõ hơn căn cứ suy đoán là đương
sự đã từ bỏ việc kiện, yêu cầu. Kiến nghị: sẽ hợp lý hơn nếu sử
dụng quy định này theo hướng sau nguyên đơn, người yêu cầu
đã được triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý
do chính đáng sẽ bị coi là từ bỏ việc khởi kiện, yêu cầu và TA sẽ
ra quyết định ĐCGQVADS.
9. Sửa đổi khoản 2 Điều 192 theo hướng không quy định căn cứ
tại điểm d khoản 1 Điều 168 BLTTDS là lý do để ĐCGQVADS.
Thông thường người khởi kiện có nghĩa vụ đóng tiền tạm ứng án
phí. Vì vậy, nếu người khởi kiện không thuộc trường hợp miễn
nộp tiền tạm ứng phí hoặc án phí thì trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày nhận được thông báo, đương sự phải đến làm thủ tục
nộp tạm ứng án phí, nếu không đến mà không có lý do chính
đáng thì TA sẽ không thụ lý vụ án. Trường hợp thiếu sót mà TA
đã thụ lý vụ án thì phải ĐCGQVADS đó. Tuy nhiên, thực tế thì
khả năng này là rất hiếm khi xảy ra vì không có TA nào lại thụ
lý vụ án khi mà người khởi kiện không đến TA để làm thủ tục
thụ lý. Nếu đương sự đến làm thủ tục quá hạn mà không vi phạm
các điều kiện khác của việc thụ lý thì cũng không nên quan niệm
việc thụ lý của TA cần phải được hủy bỏ thông qua quyết định
ĐCGQVADS.
10. Sửa đổi bổ sung quy định về quyền khởi kiện, quyền yêu cầu
lại khi TA đã quyết định ĐCGQVADS nhằm bảo đảm quyền tiếp
cận công lý của công dân. Ở đây cần ghi nhận, bổ sung quyền
khởi kiện, quyền yêu cầu lại khi TA đã ra quyết định
9



ĐCGQVADS vì một trong những lý do sau: Người khởi kiện
không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; TA thụ lý vụ việc
khi chưa có đủ điều kiện khởi kiện; Chủ thể có đơn yêu cầu giải
quyết việc dân sự rút đơn yêu cầu hoặc các đương sự đã tự hòa
giải; Người yêu cầu đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà
vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng.
Vì vậy, cần sửa đổi bổ sung quy định của pháp luật về hậu
quả pháp lý của ĐCGQVADS tại khoản 1 Điều 193 theo hướng:
khi có quyết định ĐCGQVADS, đương sự không có quyền khởi
kiện yêu cầu TA giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi
kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn,
bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp
quy định tại điểm c, e, và g khoản 1 Điều 192 và khoản 2 Điều
192 của BLTTDS và các trường hợp pháp luật có quy định khác .
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Việc ĐCGQVADS nhằm khắc phục những sai lầm do việc
thụ lý vụ án không đúng đem lại. Đối với những trường hợp việc
thụ lý vụ án là đúng pháp luật nhưng trong quá trình giải quyết
đã phát sinh một số sự kiện làm cho đối tượng của vụ án cần
giải quyết tại Tòa án không còn… thì việc tòa án ra quyết định
ĐCGQVADS có ý nghĩa giải phóng cho các bên đương sự, đặc
biệt là bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khỏi việc
tham gia tố tụng vốn bị coi là một nghĩa vụ bắt buộc đối với họ.
Tuy nhiên, việc ĐCGQVADS không đúng pháp luật cũng có thể
dẫn tới quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, người có yêu
cầu sẽ không được Tòa án xem xét giải quyết và quyền khởi
kiện, quyền yêu cầu của họ sẽ không bị mất nếu như các quyết
định về quyền khởi kiện, quyền yêu cầu lại không được pháp
luật ghi nhận. Qua bài tiểu luận này cho thấy việc nghiên cứu

nhằm tiến tới hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ở toà án cấp sơ thẩm, phúc
thẩm cần được quan tâm thoả đáng.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. B ộ Luật t ố t ụng dân s ự Việt Na m n ăm 2005.
2. T rư ờ n g Đạ i họ c L uậ t Hà Nộ i, Giáo t r ìn h l uật tố t ụng dâ n
s ự, Nx b Tư p há p, 2004.
3 . Đì n h chỉ giả i q uyết vụ á n dâ n sự , Nguyễn T r iều Dươ ng ,
T ạp chí Luậ t họ c, Tr ườ ng Đạ i họ c L uậ t Hà Nộ i, Số Đặ c
s an về B ộ luật t ố t ụng dân s ự 2004.
4. T ạm đ ình chỉ, đ ình chỉ giả i quyết vụ việc dân s ự t heo
q uy đ ịnh của Bộ l uậ t tố t ụn g dâ n sự n ăm 2004, Phạm Hả i
T âm , n gư ờ i hướ ng dẫn : TS . Tr ần A nh Tuấn , Hà Nộ i,
2010.
5. T ạm đ ìn h chỉ, đ ìn h chỉ giả i quyết vụ việc dâ n s ự : Khoá
l uận t ốt n ghiệp , Ho àn g Thị Phư ơn g L iên; Ngườ i hướ ng
dẫn : T hS . Nguyễn Thị T hu Hà , Hà Nộ i, 2010.
6. Mộ t s ố vư ớ ng mắ c t ro ng việc r a q uyết đ ịn h đ ình chỉ giả i
q uyết vụ việc dân sự t heo đ iểm c kho ản 1 đ iều 192 Bộ
l uật t ố t ụng dân s ự, Võ Than h B ìn h , Tạ p chí T oà án n hâ n
dân . T oà á n n hâ n dân tố i cao , Số 12/ 2010,
7. Đìn h chỉ x ét x ử p húc t hẩm và đ ình chỉ giả i q uyết vụ án
dân s ự ở to à á n cấp p húc t hẩm , Nguyễn T hị Thu Hà ,T ạp
chí L uậ t họ c. T rư ờn g Đạ i họ c Luật Hà Nộ i, S ố 7/ 2010.

11




×