Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA CƯỜNG QUỐC VÀ VỊ THẾ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.83 KB, 4 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA CƯỜNG QUỐC VÀ
VỊ THẾ VIỆT NAM
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỊA CHÍNH TRỊ CỦA CƢỜNG QUỐC VÀ VỊ THẾ VIỆT NAM
Vị thế địa chính trị của quốc gia – đây là vị trí và vai trò của quốc gia trong hệ thống địa chính trị các
nƣớc trong khu vực cũng nhƣ hệ thống địa chính trị toàn cầu. Vị thế địa chính trị đƣợc xác định bằng
tiềm lực chính trị, kinh tế, quân sự, dân số và trí tuệ. Vị trí địa chính trị quốc gia còn chịu ảnh hƣởng
của những cửa khẩu mở ra biển lớn, cấp độ phát triển của hệ thống giao thông, sự hiển diện và tình
trạng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, độ dài của biên giới trên đất liền, trên không và trên biển,
điều kiện khí hậu, thủy văn môi trƣờng, cấp độ các mối quan hệ quốc tế.
Hình thái địa chính trị thế giới hiện nay hoàn toàn khác hẳn so với hệ thống địa chính trị từng tồn tại
bởi hệ thống các mối quan hệ quốc tế ngày càng trở lên phức tạp, đại đa số những quan hệ này đã
phá hủy hoàn toàn các sơ đồ địa chính trị trƣớc đây. Địa chính trị thời quá khứ cho ta thấy hình thái
đƣợc biểu thị rất rõ ràng và chính xác, hệ thống tọa độ địa chính trị cụ thể và cố định, những xung đột
liên tiếp và những sự cố đối đầu khổ đủ sức thay đổi những liên minh lực lƣợng thống trị biển và đất
liền, hình thành khái niệm "Heartland" và "Rimland.". Hệ thống địa chính trị quốc tế đa trung tâm (đa
cực) hiện nay “Post Westphal” đã loại bỏ các phƣơng pháp tiếp cận địa chính trị cổ điển, hình thành
các cụm tỷ phần thế giới và phân tách. Để giải thích các sự kiện địa chính trị cần có những phƣơng
pháp phân tích phi truyền thống và đa chiều mới.
Trong khoa học chính trị không có sự phân tích khái niệm “vị thế địa chính trị”, các nhà nghiên cứu
thuộc các trƣờng phái địa chính trị và các xu hƣớng khác nhau đã gián tiếp liên quan đến vấn đề vị
thế địa chính trị của quốc gia, nhƣng chỉ trong giới hạn minh chứng hoặc phản biện các lý thuyết của
mình. Friedrich Ratzel một trong những nhà lý luận địa chính trị trong tác phẩm chủ đạo “Địa lý Chính
trị” “Politische Geographie” (1987) [8], đã chứng minh ý tƣởng là: những tính chất cơ bản của một
quốc gia đƣợc xác định bởi lãnh thổ và vị trí của quốc gia đó trên bản đổ địa cầu, sự phát triển của
quốc gia đƣợc phụ bởi thuộc vào khả năng thích ứng với điều kiện môi trƣờng. HJ Mackinder trong
bản báo cáo của mình “ Trục địa lý lịch sử” đƣợc công bố năm 1904 trên tạp chí “Địa lý Geograghical Journal” đã đƣa vào khái niệm (Heartland) – trái tim quốc tế hay còn gọi là “trọng tâm
trái đất” điểm đầu cầu thuận lợi cho việc kiểm soát toàn bộ thế giới và thể hiện địa vị hàng đầu của
quốc gia.
A. Mahan đã đƣa ra các tiêu chí nhằm phân tích vị trí hoặc vị thế địa chính trị của nhà nƣớc, bao
gồm: vị trí địa lý và vùng mở ra hƣớng biển, cấu hình của bờ biển và số lƣợng hải cảng có đƣợc mà
sự phát triển thịnh vƣợng thƣơng mại và chiến lƣợc an ninh quốc gia phụ thuộc vào vấn đề này.


Chiều dài lãnh thổ, thống kê dân số, bản sắc dân tộc và bản chất chính trị của cơ quan công quyền
điều hành đất nƣớc. [5] Cơ sở căn bản của lý thuyết Mahan về địa chính trị là vấn đề quốc gia biển
mà Mahan cho rằng đó là Mỹ, có tiềm năng của siêu cƣờng thống trị thế giới và đối đầu với những
nền văn minh lục địa ( các quốc gia Á Âu mà đứng hàng đầu là Trung Quốc và Nga.
Nhà địa chính trị nổi tiếng Mỹ N. Spykman trong tác phẩm, "Chiến lƣợc Mỹ trong chính trị thế giới" và
"Địa lý thế giới" [10] phát triển các lý luận của Mahan, đã xác định 10 tiêu chí vị thế đất nƣớc, trên cơ
sở đó sẽ xác định quyền lực địa chính trị của quốc gia. Trong các tiêu chí đó có: Bề mặt lãnh thổ,
tổng dân số, sự phát triển kinh tế à công nghệ, tình đồng nhất của các dân tộc, cấp độ hòa nhập cộng
đồng xã hội, ổn định chính trị v.v..Nếu nhƣ tổng kết quả của các tiêu chí địa chính trị nói trên không
cao, tình thế sẽ tự động đẩy quốc gia đó vào một liên minh chiến lƣợc nhằm có đƣợc sự hỗ trở của
hệ thống địa chính trị toàn cầu.
Vị thế địa chính trị của quốc gia – đây là vị trí và vai trò của quốc gia trong hệ thống địa chính trị các
nƣớc trong khu vực cũng nhƣ hệ thống địa chính trị toàn cầu. Vị thế địa chính trị đƣợc xác định bằng
tiềm lực chính trị, kinh tế, quân sự, dân số và trí tuệ. Vị trí địa chính trị quốc gia còn chịu ảnh hƣởng
của những cửa khẩu mở ra biển lớn, cấp độ phát triển của hệ thống giao thông, sự hiển diện và tình
trạng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, độ dài của biên giới trên đất liền, trên không và trên biển,
điều kiện khí hậu, thủy văn môi trƣờng, cấp độ các mối quan hệ quốc tế. Vị thế của quốc gia có thể
đánh giá theo các cấp: Cấp toàn cầu (vĩ mô) – gắn liền với các trung tâm kinh tế, chính trị thế giới.
Cấp khu vực (trung) – liên quan đến các khu vực lớn và các cụm quốc gia phát triển; Cấp vi mô –
Các mối quan hệ chủ yếu liên quan đến các nƣớc láng giềng.
Khái niệm “vị thế” trong các tài liệu khoa học hiện đại đƣợc giải thích khá mơ hồ. Trong xã hội học
khái niệm “vị thế” đƣợc hiểu là vị trí (địa vị) của một cá nhân hay một nhóm ngƣời trong hệ thống xã
hội, vị thế của một chủ thể đƣợc xác định bằng một loạt các tiêu chí kinh tế, tính chuyên sâu nghề
nghiệp, dân tộc và các tiêu chí cụ thể khác của một hệ thống xã hội. Trong từ điển bách khoa “địa


chính trị” vị thế đƣợc hiểu nhƣ một tập hợp các quyền và và trách nhiệm, xác định rõ địa vị pháp lý
của chủ thể trong các cơ quan nhà nƣớc, trong cộng đồng hoặc các tổ chức quốc tế. Vị thế của chủ
thể trong xã hội có thể là do “quy định” đƣợc kế thừa hoặc “nỗ lực đạt đƣợc”. Nhƣ vậy, vị thế - địa vị
của một chủ thể trong một hệ thống phân cấp các mối quan hệ xác định.

Vị thế chính trị đƣợc xác định bằng sức mạnh của quốc gia và những khả năng đƣa vào hiện thực
trong môi trƣờng các mối quan hệ quốc tể nhất định. Những yếu tố quan trọng của vị thế là: bản chất
cấu thành, quyền lực tối thƣợng trong vùng lãnh thổ, cơ cấu tổ chức cơ quan quyền lực hợp hiến, sự
hiển diện của sở hữu nhà nƣớc, hệ thống tiền tệ đơn nhất, tƣ cách pháp nhân quốc tế chung đƣợc
thừa nhận .v.v.
Bất cứ một quốc gia nào, tồn tại trong một hệ thống địa chính trị, xác định một địa vị nhất định, có
nghĩa là một vị thế, bao hàm sự hiển diện của địa vị chính trí và pháp lý quốc gia đó trong các mối
quan hệ quốc tế. Nói các khác, vị thế địa chính trị - là địa vị chính trị - pháp lý của quốc gia hoặc một
đối tƣợng chính trị trong khuôn khổ hệ thống địa chính trị quốc tế. Với mỗi quốc gia, vị thế chính trị
đƣợc đặc trƣng bằng sức mạnh quân sự chính trị và sức mạnh kinh tế, khả năng giải quyết các các
vấn đề xuất hiện trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác của các quan hệ quốc tế, có nghĩa là: tiềm lực
địa chính trị. Để xác định vị thế địa chính trị cần thiết phải phân tách hàng loạt các thông số, đánh giá
toàn diện quốc gia đó và các tiêu chí đặc trƣng không thể tách dời, mang tính then chốt của chủ thể.
Các biểu hiện đặc trƣng đó cấu thành cơ sở căn bản cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia đó.
Các thông số đã nêu có thể là cơ bản không thay đổi (chủ đạo) và biến động (thứ cấp). Các thông số
chủ đạo của vị thế địa chính trị là vị trí địa lý, diện tích lãnh thổ, điều kiện khí hậu thời tiết thủy văn
môi trƣờng, sự hiện hữu của nguồn tài nguyên thiên nhiên, mật độ dân số và những thông số khó
biến động khác. Các thông số thứ cấp có thể là: những đặc điểm về chính trị, quân sự, kinh tế - xã
hội của quốc gia, phụ thuộc vào ý chí chính trị của tầng lớp lãnh đạo đất nƣớc, khả năng đƣa vào
thực tế chiến lƣợc địa chính trị nào đó mà cơ sở căn bản của nó là lợi ích chính đáng của quốc gia,
dân tộc trong sự biến đổi thƣơng xuyên, liên tục của hệ thống địa chính trị thế giới. Từ một số lƣợng
lớn các thông số khác nhau của vị thế địa chính trị quốc gia, có thể rút ra đƣợc những điểm then chốt
nhƣ sau:
1. Lãnh thổ và vị trí địa lý. Khái niệm lãnh thổ hiện nay đƣợc hiểu là không gian sống với một chế độ
pháp lý nhất định, có nghĩa là một phần của trái đất với bề mặt lục địa và mặt nƣớc, sâu trong lòng
đất và không trung, gắn liền với không gian vũ trụ và những vật thể nằm trong vùng không gian đó.
Đây là cơ sở vật chất cơ bản sinh tồn của quốc gia. Chất lƣợng của lãnh thổ đƣợc xác định bằng
điều kiện tự nhiên, khí hậu, có hay không bờ biển và những cửa khẩu mở ra biển thế giới, các đƣờng
giao thông nội thủy, đặc biệt là nguồn dự trữ tài nguyên thiên nhiên và các phƣơng pháp khai thác tài
nguyên, tình trạng văn hóa, kinh tế, chất lƣợng điều hành và quản trị xã hội tổng quan nói chung từ

phía tầng lớp lãnh đạo chính trị. Lãnh thổ cấu thành dự trữ chiến lƣợc hàng đầu của quốc gia, theo
giá trị vƣợt hơn hẳn các dự trữ chiến lƣợc khác , ảnh hƣởng trực tiếp đến tính chất và những thông
số cơ bản của lợi ích quốc gia, dân tộc. [1]
2. Không gian biên giới lãnh thổ và tình trạng biên giới. Không gian biên giới bao gồm phần tiếp giáp
với biên giới từ phía bên trong và phía bên ngoài phần lãnh thổ trên bộ, trên biển, trên không, trong
giới hạn của không gian biên giới thiết lập chế độ pháp lý và những thủ tục đặc biệt quy định hành vi
nhằm đảm bảo chủ quyền của quốc gia và bảo vệ những lợi ích của quốc gia, dân tộc. Biên giới quốc
gia và những thông số của không gian biên giới là một thành phần không thể tách rời của vị trí địa
chính trị quốc gia.
3. Khả năng sinh tồn và phát triển, thành phần quan trọng là tình trạng dân số: số lƣợng và chất
lƣợng. Chất lƣợng dân số đƣợc hiểu là tình trạng thể lực chung của dân số, tình hình sinh sản và
kiểm soát dân số của xã hội, cấp độ giáo dục và các ngành chuyên nghiệp...
4. Sự hiển diện của sức mạnh chiến lƣợc quân sự, bao gồm hoạt động hiệu quả của các tổ hợp công
nghiệp quốc phòng, năng lực chiến đấu của lực lƣợng vũ trang, sự hiển diện hoặc không có vũ khí
hủy diệt lớn, sự phát triển của công nghiệp chiến lƣợc. Một điều quan trọng nữa là sự tham gia của
quốc gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, sự phát triển của lực lƣợng công quyền, khả năng đảm
bảo an ninh quốc gia và dân tộc trên tầm thế giới. Vai trò then chốt là sự hiển diện của học thuyết
quân sự, xác định rõ nét các nguy cơ và các phƣơng pháp ngăn chặn, vô hiệu hóa.
5. Cấp độ an ninh quốc gia và an ninh dân tộc. An ninh quốc gia là hệ thống chức năng đa cấp phức
tạp mà trong đó luôn diễn ra các quá trình tƣơng tác và đối đấu những lợi ích sống còn, trƣớc hết là
quốc gia đấu tranh với những nguy cơ đe dọa lợi ích từ phía bên trong cũng nhƣ thế giới bên ngoài.
[7] Thành tố xƣơng sống của hệ thống an ninh quốc gia là những lợi ích quốc gia có ảnh hƣởng trực
tiếp đến những nhu cầu thực tế của đất nƣớc và của xã hội, sự đáp ứng những nhu cầu đó có khả
năng đảm bảo sự phát triển ổn định của quốc gia. [3] Đảm bảo an ninh của bất cứ quốc gia nào đều
mang tính đặc thù, do tính chất đặc trƣng riêng biệt của lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc cũng nhƣ
phƣơng pháp thực tế hóa những lợi ích đó. Trong thế kỷ 21 những tiêu chí mới về an ninh càng ngày


càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng, nhƣng đồng thời phải giữ đƣợc sự cần bằng lực lƣợng
quân sự và tƣơng quan chiến lƣợc quân sự không mất đi tính quan trọng của nó. Những thực tế này

vẫn giữ đƣợc giá trị của nó tƣơng tự nhƣ yếu tố cơ bản của hệ thống an ninh thế giới .
6. Cấp độ phát triển chiến lƣợc địa chính trị của quốc gia đƣợc thực tế hóa trong hệ thống các
chƣơng trình văn bản quốc gia: Hiến pháp, các nội dung đảm bảo an ninh quốc gia, chiến lƣợc an
ninh kinh tế, chiến lƣợc dài hơi phát triển kinh tế xã hội và sự phát triển của đất nƣớc. Trong tình
huống địa chính trị hiện đại, đất nƣớc đang đứng ở điểm giao nhau của 2 xu hƣớng chiến lƣợc: xu
hƣớng thứ nhất đƣợc xác định bởi những chuẩn mực hiện đại của nền văn minh châu Âu, xu hƣớng
thứ hai dựa trên những giá trị của châu lục. Xu hƣớng thứ nhất là sự hội nhập của quốc gia vào cộng
đồng kinh tế và chính trị toàn cầu thông qua việc xác lập trật tự kinh tế và chính trị xuyên quốc gia
(liên minh châu Âu). Xu hƣớng thứ hai là tổ hợp chủ nghĩa tự do truyền thống và sự điều chỉnh của
nhà nƣớc bằng các các chính sách, trong nội dung này điều kiện tiên quyết là phải duy trì những giá
trị tự do của nền kinh tế thị trƣờng. [6]
7. Khả năng đóng góp vào sự phát triển của cộng đồng quốc tế, bao gồm những hành động địa chính
trị tích cực hoặc thủ động của quốc gia và xã hội. sức mạnh của kinh tế và tài chính, cấp độ phát triển
khoa học và công nghệ cao, năng lực quốc tế và uy tín của quốc gia trên trƣờng thế giới.
Vị thế địa chính trị của quốc gia đƣợc hình thành trong quá trình phát triển văn hóa, xã hội, đƣợc xác
định bằng các nhân tố cơ bản nhƣ sự tồn tại của dân tộc, sự phân bổ dân số theo địa lý, tập hợp các
sức mạnh của quốc gia. Trong khuôn khổ trật tự thế giới hiện đại, quốc gia vẫn là thành phần chủ
chốt của địa chính trị nhƣng theo sức mạnh tổng hợp, các quốc gia đƣợc phân tách theo cấp độ. Giai
đoạn hiện nay có 4 nhóm quốc gia cơ bản – những thành phần của địa chính trị: siêu cƣờng, cƣờng
quốc thế giới, cƣờng quốc khu vực và các quốc gia nhỏ. Siêu cƣờng ( thuật ngữ xuất hiện vào nửa
cuối thế kỷ 20 – là cƣờng quốc có ƣu thế sức mạnh lớn nhất, đôi khi là tuyệt đối về kinh tế, chính trị,
quân sự đối với hầu hết tất cả các nƣớc khác, hoặc có đƣợc ba ƣu thế tuyệt đối đã nêu. Siêu cƣờng
không có số nhiều: trong những điêu kiện khác nhaucuar trật tự địa chính trị có thể là Một siêu cƣờng
(thế giới đơn cực) hoặc hai siêu cƣờng (lƣỡng cực). Mỹ và Liên bang Xô viết, hai siêu cƣờng không
chỉ là nƣớc hàng đầu về quân sự, mà theo hệ tƣ tƣởng và kinh tế đều là các nƣớc hàng đầu lãnh đạo
hai khối các nƣớc đối đầu mhau. Những hoạt động mở rộng trong các không gian địa chính trị khác
nhaumang tính tuyệt đối, ví dụ nhƣ Mỹ và Liên xô có ƣu thế tuyệt đối về vũ khí hạt nhân những năm
60 – 70 của thế kỷ 20. Các quốc gia lãnh đạo mang sứ mệnh nặng nể bảo vệ an ninh cho các khối
các nƣớc định hƣớng theo chính sách của họ.
Siêu cƣờng – quốc gia trên thực tế xã hội và thƣờng xuyên có ảnh hƣởng lên sự phát triển của thế

giới trong khuôn khổ một thời đại xác định.[4] Đại hội Vienna năm 1815 các quốc gia chiến thắng đã
hệ thống hóa vị thế của các cƣờng quốc vĩ đại. Hình thành "Concert các cƣờng quốc", gồm Nga,
Anh, Áo, Phổ, và sau đó là Pháp. Các cƣờng quốc đã mở rộng vùng địa chính trị liên tục, nhƣng
không đồng đều. Siêu cƣờng hiện đại (World power) – là quốc gia có thể gây ảnh hƣởng hiệu quả
thực sự và lâu dài về hệ thống luật pháp quốc tế và quan hệ quốc tế trong giai đoạn lịch sử cụ thể.
Nói cách khác, cƣờng quốc - là nhà nƣớc có sở hữu khả năng vƣợt trội ở rộng khu vực địa chính trị
trên tất cả các không gian. Việc mở rộng vùng ành hƣởng địa chính trì của các cƣờng quốc diễn ra
thƣờng xuyên, liên tục, chỉ có sự khác biệt là không có tính tuyệt đối, tính toàn cầu và không đồng
đều. Trên thế giới tồn tại các quốc gia, không có đƣợc tập hợp các sức mạnh của cƣờng quốc,
những vƣợt hơn hẳn các quốc gia khác về cấp độ phát triển một tiêu chí sức mạnh nào đó trong tập
hợp sức mạnh. Liên quan đến vấn đề này hình thành các khái niệm “cƣờng quốc kinh tế” “cƣờng
quốc hạt nhân” “cƣờng quốc biển”….cho phép làm nổi bật hể về sức mạnh của một quốc gia nếu so
sánh với những quốc gia khác.
Khái niệm “cƣờng quốc khu vực” xuất hiện không lâu – hoàn toàn mới trong lịch sử” Cƣờng quốc khu
vực là các quốc gia, có đƣợc những ảnh hƣởng thực tế nhât định trong giới hạn khu vực cụ thể, theo
một số các tiêu chuẩn khác không đạt đƣợc đến vị trí của các cƣờng quốc thế giới nhƣ Iran, Brazil,
Ấn độ, Úc và một số nƣớc khác.
Các nƣớc nhỏ – là các quốc gia có tổng hợp sức mạnh và ảnh hƣởng hạn chế trong khuôn khổ các
quan hệ quốc tế. Khái niệm các nƣớc nhỏ còn đƣợc sử dụng đối với các quốc gia mà tầm quan trọng
của vị trí cũng nhƣ lãnh thổ có giá trị không lớn ngay cả giới hạn khu vực.
Vị thế địa chính trị Việt Nam là cƣờng quốc.
Những tiêu chí cơ bản: Xét từ góc độ địa thế và hình dáng lãnh thổ đất nƣớc, Việt Nam có một vị trí
chiến lƣợc rất quan trọng, có thể thấy trên bản đồ địa chính trị khu vực nhƣ một cầu nối hai vùng kinh
tế biển và kinh tế lục địa của châu Á. Việt Nam là cửa giao thƣơng với các nền kinh tế biển khu vực,
đồng thời cũng là cửa khẩu đi vào hệ thống giao thông đƣờng bộ trên đất liền của các quốc gia Đông
Nam Á và châu Á. Với không gian biên giới đất liền và biển dài và hẹp, Việt Nam thực sự là trung tâm
kinh tế thƣơng mại trong khu vực Đông Nam Á, đễ dàng kết nối với biển Hoa Đông và với vùng Viễn
Đông của Nga. Đồng thời từ Việt Nam qua Căm Phu Chia Thái Lan, Myamar, Băng la dét bằng



đƣờng bộ, đã có thể tiếp cận vùng Nam Á. Là một nền kinh tế biển Việt Nam có nguồn tài nguyên
phong phú, trong đó tài nguyên dầu khí trên thềm lục địa có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc
gia, khu vực và thế giới. Một điểm thú vị nữa, Biển Đông chính là con đƣờng vận tải thƣơng mại lớn,
kết nối với những nền kinh tế khổng lồ nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Viễn Đông
Nga.
Vấn đề dân số: Dân số và mật độ tăng ổn định, với chính sách dân số, độ tuổi ngƣời lao động (từ 15
– 59) tăng ổn định. Với mức sinh nhƣ hiện nay, dự báo dân số Việt Nam vào năm 2019 sẽ là 94,7
triệu ngƣời, 63% dân số có độ tuổi lao động.
Dân tộc Việt Nam có khả năng hội nhập cộng đồng cao, không có nguy cơ tiềm ẩn chia rẽ dân tộc
trong cộng đồng ngƣời Việt, dễ hòa nhập với cộng đồng quốc tế, Đời sống tâm linh, tôn giáo của
ngƣời Việt ổn định, có tính hòa bình cao.
Nhƣ vậy vị thế địa chính trị trên góc độ tự nhiên của Việt Nam thực tế đã hội tụ khá đủ yếu tố của một
cƣờng quốc.
Những tiêu chí biến động: Từ quan điểm lịch sử địa chính trị, do tính chiến lƣợc quan trọng của địa
thế. Việt nam trong 4000 năm lịch sử, với bề dầy hàng ngàn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Đất nƣớc Việt Nam và dân tộc Việt thích nghi với môi trƣờng khu vực và quốc tế, hơn thế nữa, đã để
lại một dấu ấn sâu sắc trên thế giới về lịch sử giữ nƣớc và dựng nƣớc, có tiếng nói trong phong trào
gìn giữ độc lập và tự chủ.
Hệ thống chính trị lãnh đạo đất nƣớc ổn định, cho tới thời điểm hiện nay không có những những nguy
cơ thƣờng trực đe dọa sự ổn định mội trƣờng chính trị trong nƣớc.
Từ những tiêu chí cơ bản đã nêu, trong điều kiện tự nhiên, Việt Nam hoàn toàn có vị thế địa chính trị
quan trọng khu vực để trở thành cƣờng quốc khu vực. Những điểu chƣa đầy đủ là tổng hợp sức
mạnh kinh tế, quân sự, công nghiệp dân sự, khoa học công nghệ và hạ tầng giao thông. Hội tụ đủ
sức mạnh của các tiêu chí biến động đã nêu. Việt Nam sẽ là một cƣờng quốc có ảnh hƣởng rất lớn
trong khu vực và có vị thế địa chính trị của một trung tâm kinh tế châu Á – Thái Bình Dƣơng.
Nỗ lực đạt đƣợc và duy trì vị thế địa chính trị của quốc gia - kết quả của quá trình lịch sử phát triển
lâu dài. Đôi khi, những đặc điểm khởi nguồn của quốc gia cho phép nƣớc đó có vai trò hàng đầu
trong phân tầng địa chính trị. Nhƣng hầu hết các quốc gia là sự tích lũy tiềm năng và hiện thực hóa
các lợi ích chiến lƣợc của quốc gia và dân tộc để dành đƣợc vị thế địa chính trị của đất nƣớc ở cấp
độ khu vực hay trên toàn thế giới.

1. Hajiyev , giới thiệu về địa chính trị : sách giáo khoa cho sinh viên / K. Hajiyev - M: . . Logos, 2002 P. 40 Địa chính trị .
2 . Bách khoa toàn thƣ. Moscow : . TERRA – CÂU LẠC BỘ SÁCH , 2002 - P. 544
3 . Vasilenko I. Địa chính trị . Sách giáo khoa. / I. Vasilenko. Moscow, Khoa học, 2003 - P. . 148 .
4 . Komlev N. An ninh tập thể trong giai đoạn hiện nay . Vấn đề giáo dục, khoa học và văn hóa. Xuất
bản lần thứ 12. Vấn đề sinh thái hiện đại. / /Đại học vùng Ural, 2002. № 23. Trang. 23
5 . Petrov O. Tình hình thế giới và Nga. //An ninh quốc gia và địa chính trị Nga, 2003 - . № 9. Trang .
16
6 . An ninh Kinh tế của Nga . Nhà xuất bản " Depo" , 2005, trang. 71.
7 . Yavchunovskaya R. Nguy cơ địa chính trị và những thách thức đối với an ninh quốc gia Nga . / /
Chính quyền. 2004 , № 2 trang. 49
8. Friedrich Ratzel, «Politische Geographie», 1887, «Einleitung»
9. Mackinder H. «Geographical Pivot of History» in «Geograghical Journal», 1904.
10. Spykman N. «Geography of peace», 1942



×