Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Công tác xã hội với tình trạng bỏ học của học sinh dân tộc thiểu số nghiên cứu trường hợp tại xã đăk jơ ta – huyện mang yang – tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.8 KB, 16 trang )

Công tác xã hội với tình trạng bỏ học của học
sinh dân tộc thiểu số - nghiên cứu trường hợp tại
xã Đăk Jơ Ta – huyện Mang Yang – tỉnh Gia
Lai
Tạ Thị Điệp
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn Thạc sĩ. Công tác xã hội: 60 90 01 01
Nghd: TS. Hà Thị Thư
Năm bảo vệ: 2014
Keywords: Công tác xã hội; Dân tộc thiểu số; Gia Lai; Học sinh
Contents:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trẻ em là tương lai của nước nhà, trẻ cần được thụ hưởng những điều kiện tốt nhất để
phát triển hoàn thiện về thể chất và trí tuệ. Một trong những phương cách để trẻ hoàn thiện nhân
cách là thông qua con đường giáo dục. Giáo dục cơ bản của nước ta phân chia thành 3 cấp học
nhằm giúp trẻ tiếp cận với tri thức ở từng mức độ, tầng bậc khác nhau phù hợp với khả năng tiếp
nhận, phân tích thông tin, ứng với quá trình phát triển tâm sinh lý của trẻ. Mục tiêu của giáo dục
phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân.[19, tr.7]
Giáo dục con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhà nước ta,
đặc biệt là ưu đãi trong giáo dục cho đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS), các nhóm đặc biệt
khó khăn. Đây là điều có ý nghĩa động viên các nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt có cơ hội tiếp
cận với nền giáo dục phổ thông và góp phần bình đẳng xã hội giữa các nhóm người, các dân tộc
trên một vùng lãnh thổ, thể hiện sự ưu việt của nền an sinh xã hội nước nhà trong trách nhiệm
nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần ổn định cuộc sống cho
nhóm dân cư, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn.


Người dân tộc thiểu số (DTTS) có tiếng nói và chữ viết riêng có nền văn hóa khác biệt


cùng tồn tại song song và phát triển cùng với các phong tục tập quán của văn hóa cộng đồng
chung của người Việt có những dấn ấn tinh hoa nhưng cũng có những hủ tục làm cho nhận thức
và đời sống của người đồng bào dân tộc thiểu số còn thua kém so với mặt bằng chung của cả
nước vì vậy họ được xem là nhóm đối tượng yếu thế, cần có sự quan tâm đặc biệt. Những năm
gần đây với sự quan tâm của Đảng và nhà nước đời sống của đại bộ phận người DTTS được
nâng lên đáng kể, cơ sở vật chất kỹ thuật được đầu tư đúng mức để giúp cho họ có cơ hội tiếp
cận với tri thức của quá trình hội nhập. Tuy nhiên vì xuất phát điểm của người DTTS là thấp hơn
so với người Kinh nên quá trình tiếp cận với phát triển còn hạn chế họ không nắm bắt được các
cơ hội, không khai thác được tiềm năng, tính ưu việt trong cơ chế, chính sách, điều kiện mà nhà
nước đang dành cho họ. Một phần vì thói quen canh tác, sinh sống ở những vùng có điều kiện tự
nhiên không thuận lợi nên khiến cho cơ hội tiếp cận cũng giảm đi. Hơn nữa vì điều kiện kinh tế
khó khăn, ít được học tập, quan sát học hỏi từ môi trường bên ngoài nên trình độ nhận thức của
họ về những điều kiện phát triển còn hạn chế, và đây cũng chính là cái vòng luẩn quẩn của đói
nghèo, nhận thức thấp, bỏ học sớm, tái nghèo.
Tỉnh Gia Lai là tỉnh nằm ở Bắc Tây Nguyên kinh tế chủ yếu là hoạt động nông nghiệp
với 44,5% người ĐBDTTS [29, tr.1 ]. Người DTTS đa số thất học và nghèo, cái nghèo và thất
học trở thành cái vòng luẩn quẩn trói chân họ qua bao thế hệ với nương rẫy. Ở các xã vùng sâu
vùng xa tình trạng này càng tồi tệ hơn khi điều kiện kinh tế khó khăn giao thông không thuận lợi
và tỷ lệ người DTTS chiếm tỷ lệ cao. Học sinh ở các xã này bỏ học khá sớm và khá phổ biến ảnh
hưởng không nhỏ đến điều kiện kinh tế văn hóa xã hội an ninh trên địa bàn tỉnh nhà trong trước
mắt và lâu dài.
Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã lựa chọn vấn đề nghiên cứu của mình cho luận văn cao
học là “Công tác xã hội với tình trạng bỏ học của học sinh dân tộc thiểu số - nghiên cứu
trường hợp tại xã Đăk Jơ Ta, huyện Mang Yang tỉnh Gia Lai”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1 Các nghiên cứu trên thế giới
Giáo dục được xác định là chiến lược lâu dài cho phát triển bền vững. Vào đầu thập niên
80 Liên hợp quốc đã đưa mục tiêu phấn đấu “phổ cập hóa giáo dục tiểu học” cho mọi người dân,
tất cả mọi người đi học tiểu học phải được “miễn phí”[8, tr.7]. Ngoài ra, một số quốc gia còn xác



định những lớp học đầu tiên phải được đưa vào chương trình bắt buộc 4, 6 hoặc 9 năm, tùy theo
đặc trưng của mỗi quốc gia. Đặc trưng về phát triển kinh tế cũng quy định nền giáo dục của quốc
gia cũng được phát triển hoàn thiện, một số nước đặt giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm trong từng
thời kỳ phát triển, để tạo ra nguồn lực chất lượng cao không chỉ cho hiện tại mà còn định hướng
sự phát triển cho tương lai của quốc gia đó. Chỉ số HDI (Human Development Index) về chất
lượng cuộc sống cũng lấy tỷ lệ người biết chữ làm tiêu chí đo lường nhằm đánh giá mức độ phát
triển toàn diện của một quốc gia bên cạnh GPP bình quân và tuổi thọ bình quân đầu người. Ở
những nước phát triển tỷ lệ trẻ em đến trường đạt 95%, các nước có thu nhập thấp như thì tỷ lệ
trẻ em học xong trung học cơ sở (THCS) cũng đạt rất thấp, khoảng 77 %. Ví dụ như với
Malaysia tỷ lệ bỏ học ở trường phổ thông là 9,3% đối với vùng đô thị và 16,7% ở nông thôn.
Trong khi đó có 4,4% học sinh tiểu học và 0,8% học sinh phổ thông chưa làm chủ được ba kỹ
năng đọc, viết, làm toán.[8, tr. 8].
Nghiên cứu của UNICEF (2010) chỉ ra rằng “Trong khi tỷ lệ nhập học ngày càng được
cải thiện thì việc học sinh bỏ học đang là một trong những vấn đề mà hầu như tất cả các nước
nước đang phát triển phải đối mặt. Điều này không những có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả của
việc phổ cập hóa giáo dục cấp tiểu học mà còn là một sự lãng phí nguồn lực và làm tăng số
người mù chữ. Trong các nước đông dân số, tỷ lệ nhập học cao đồng thời tỷ lệ bỏ học ở các nước
này cũng cao”[8, tr. 18]. Chính sách giáo dục liên quan đến chính sách phát triển kinh tế, chính
sách dân số của một quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều phải đương đầu với tình trạng học sinh
bỏ học trong nhiều giai đoạn khác nhau, điều này đã trở thành đề tài cho nhiều nhà nghiên cứu
nhằm tìm ra giải pháp thiết thực cho ngành giáo dục của quốc gia góp phần thúc đẩy sự bình
đẳng ở tất cả mọi lĩnh vực.
Okumu, Ibrahim M., Naka jo, Alex and Isoke, Doren (2008) đã phân tích các yếu tố kinh
tế xã hội dẫn đến quyết định bỏ học ở học sinh tiểu học tại Uganda. Các nhà nghiên cứu đã thiết
lập một mô hình hậu cần để phân tích các số liệu quốc gia vào năm 2004 và mô hình phân tích
này đã phân tích theo đoàn hệ đối với tuổi của các học sinh nông thôn và thành thị, theo giới
tính. Kết quả phân tích cho thấy các biến số như giới tính, tổng số tiền chi trả cho học phí, giới
tính của chủ hộ không có ý nghĩa tác động đến tỷ lệ bỏ học của học sinh tiểu học. Nhưng các
biến số như quy mô gia đình, trình độ học vấn của cha mẹ, loại hình hoạt động kinh tế của các

thành viên hộ gia đình, đặc biệt là ở vùng nông thôn đã có những tác động quan trọng đối với cơ
hội tiếp tục việc học tập hoặc tỷ lệ bỏ học của học sinh. Thậm chí rằng, Robert Balfanz and


Nettie Legters (2004) còn chỉ ra rằng có những vùng, miền có tỷ lệ học sinh bỏ học cao thường
là những trường yếu về năng lực, có nhiều học sinh dân tộc thiểu số và kết quả học tập của
trường thông thường kém ở những môn như toán, văn…Hơn nữa các trường này thường là
những trường được đặt ở các vi trí mà cộng đồng xung quanh đó có tỷ lệ cao về thất nghiệp, tội
phạm và có trình độ học vấn không cao [8, tr.19].
B. Alfred Liu (1976) đề cập đến các nội dung rất thú vị về sự biến đổi xã hội, sự gia tăng
dân số với vấn đề phát triển giáo dục. Theo nghiên cứu này thì sự biến đổi xã hội có được là do
sự tác động của các yếu tố hệ tư tưởng, công nghệ và nhân khẩu [8, tr,19].
Biến đổi xã hội sẽ dẫn đến những biến đổi trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có sự biến đổi của hệ thống giáo dục. Sự biến đổi này chính là để thích nghi với những nhu
cầu đặt ra trong quá trình chuyển hóa của xã hội. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển, việc
kiểm soát yếu tố nhân khẩu có một vai trò quan trọng. Vì quy mô dân số là chỉ số chủ chốt trong
việc phát triển hệ thống giáo dục cả về lượng và chất. Không thể hình thành các chương trình
chuyên biệt nếu không có đủ số lượng học sinh, cũng không thể hình thành các chương trình phát
triển nếu không tính đến yếu tố về quy mô dân số.[8, tr.20]
Một nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhân khẩu học với với việc lập kế hoạch giáo dục
của Stelios N. Georgiou cho thấy, việc nâng cao tỷ lệ nhập học và chất lượng giáo dục là mục
tiêu của kế hoạch hóa phát triển giáo dục. Xây dựng và thực hiện các mục tiêu này trong phát
triển giáo dục cần phải tính đến các yếu tố nhân khẩu như cấu trúc tuổi và giới tính dân cư.[8,
tr.20].
Nghiên cứu về tình trạng bỏ học của Ấn Độ trên cơ sở thống kê khá đầy đủ theo từng
năm và theo các đặc điểm kinh tế xã hội cơ bản như đô thị - nông thôn, giới tính và đã áp dụng
phân tích theo đoàn hệ để chỉ ra xu hướng và số bỏ học theo từng nhóm tuổi và từng lớp học. Kết
quả nghiên cứu cho thấy với quy định giáo dục bắt buộc và miễn phí cho tất cả trẻ em đến 14
tuổi theo hệ thống giáo dục của Ấn Độ, đến giữa năm 1978, số học sinh từ lớp 1 – 5 khoảng 69
triệu, tăng gấp 3 lần so với số học sinh năm 1950. Số học sinh từ lớp 6-8 khoảng 18 triệu gấp gần

6 lần so với số học sinh cùng cấp năm 1950. Khoảng 20% học sinh tiểu học và 11% học sinh
trung học bỏ học ở thời điểm 1978. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng đã chỉ ra một số đặc điểm và
nguyên nhân ở giai đoạn này. Số lượng học sinh bỏ học nhiều ở lớp một. Nguyên nhân là học
sinh chưa được chuẩn bị trước để thích nghi với môi trường mới. Do đó, giáo dục mẫu giáo là


một bước để giảm tỷ lệ trẻ em bỏ học ở lớp một. Đa số học sinh bỏ học là những học sinh lưu
ban điều đó cho thấy kết quả học tập thấp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến bỏ học.
Vấn đề này đòi hỏi xem xét những yếu tố liên quan đến giảng dạy như chất lượng giáo viên,
chương trình học và những điều kiện cơ sở hạ tầng…Một phát hiện trong nghiên cứu này là trẻ
em gái bỏ học nhiều hơn trẻ em trai, điều này cũng chỉ ra mối liên hệ giữa tỷ lệ bỏ học và giới [8,
tr.21].
Ở khu vực nông thôn, các nghiên cứu phát hiện phát hiện có khoảng sáu mươi nguyên
nhân dẫn đến việc bỏ học của trẻ em. Các nguyên nhân này được nhóm thành ba cụm chủ yếu và
có sự chồng lấn lên nhau. Nghèo khổ là một trong những nguyên nhân chủ yếu, song trầm trọng
hơn nữa là tình trạng mù chữ của bố mẹ có tác động lớn đến việc bỏ học của trẻ em. Nguyên
nhân thứ hai là do những trẻ em bỏ học và cha mẹ của chúng đưa ra là việc trừng phạt về thân
thể đối với học sinh học kém.Trong khi đó, giáo viên và nhà trường lại cho rằng, phụ huynh học
sinh ít liên hê với nhà trường, chương trình giảng dạy chưa phù hợp, thiếu phương tiện giảng dạy
là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ học của trẻ em. Bất bình đẳng giới cũng được xác định là
một trở ngại đối với trẻ em gái Bất bình đẳng về giới không chỉ liên quan đến các quan niệm của
cộng đồng đối với vai trò của nữ giới mà nó còn có cả nguyên nhân kinh tế khi trong nhiều nhóm
dân tộc, các bậc phụ huynh bị áp lực về của hồi môn cho con gái, về việc đầu tư cho con gái học
hành không mang lại lợi nhuận trước mắt…điều này dường như thể hiện rõ trong một số cồng
đồng ở Ấn Độ và một số nước thuộc châu Á [8, tr,23].
Học sinh bỏ học do gia đình có thu nhập thấp, bố mẹ thất nghệp hoặc nghề nghiệp không
ổn định, học vấn thấp hoặc thất học hoặc bỏ học vì sức khỏe yếu do suy dinh dưỡng, trường ở xa
nhà, không thích học và những yếu tố nhà trường như cơ sở vật chất, chất lượng giáo viên.
Những nguyên nhân này liên quan đến những rào cản về kinh tế xã hội và có mối quan hệ ràng
buộc chặt chẽ với nhau (Barton, 2006; Barsaga, 1995)[8, tr.23].

Tóm lại, các yếu tố tác động đến học sinh bỏ học được nghiên cứu khá nhiều trên thế
giới. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng vấn đề bỏ học sớm của học sinh liên quan đến trình độ phát
triển kinh tế xã hội của một quốc gia, từ những chính sách về kinh tế, dân số, nhân khẩu đều ảnh
hưởng rõ rệt đến vấn đề này. Ngoài ra những nguyên nhân về bình đẳng giới, sự phân cấp giữa
thành thị, nông thôn, giữa nhóm người có thu nhập cao với nhóm có thu nhập thấp và nhóm
DTTS với nhóm người đa số cũng có ảnh hưởng đến việc xã hội hóa giáo dục. Từ thực tế này chỉ


ra rằng bất bình đẳng trong tiếp cận với giáo dục cho trẻ em vẫn còn diễn ra ở khắp nơi trên thế
giới, điều này cần thiêt có sự vào cuộc nghiên cứu của nhiều ngành khác nhau.
2.2 Nghiên cứu ở Việt Nam
Phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, lấy con người là trung tâm trong quá trình
phát triển, nhân tài được xem là nguyên khí của quốc gia nên Đảng ta xác định “giáo dục đào tạo
là quốc sách hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”. “phát triển giáo dục đào
tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”[19, tr.2]. Giáo dục phát triển
đồng hành cùng đất nước qua từng thời kỳ khác nhau. Các phong trào bình dân học vụ, diệt giặc
dốt, xóa mù chữ ra đời để mọi người dân từ già đến trẻ có thể tiếp cận với nền học vấn tối thiểu.
Trường học được đầu tư ngày càng nhiều, chi phí cho giáo dục không ngừng tăng qua các năm.
Năm 2001 tổng chi cho giáo dục chiếm 4,1% GDP thì đến năm 2006 con số trên đã đạt 5,6%.
Chi ngân sách cho giáo dục đào tạo chiếm tỷ trọng cao nhất trong lĩnh vực xã hội. Việt Nam
nằm trong những quốc gia có tỷ trọng đầu tư cho giáo dục cao nhất. Hệ thống cơ sở vật chất đầu
tư cho giáo dục được mở rộng, thầy cô giáo được đào tạo để “cắm làng, bám bản”, gieo cái chữ
đến tận biên giới, vùng địa đầu Tổ Quốc. Chính vì sự nỗ lực của toàn thể nhân dân nên nước ta
đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiều học vào năm 2003, trung học cơ sở (THCS) vào năm 2010
đó là những thành tựu vô cùng to lớn trong công cuộc xây dựng một nền học vấn mang tính đại
chúng, dễ dàng tiếp cận.
Thời kỳ nào cũng vậy, tuổi trẻ luôn được xem là rường cột của nước nhà, là những vị
kiến trúc sư tài ba để kiến thiết xã hội trong tương lai. Chính vì vậy muốn xây dựng một xã hội
khỏe mạnh phồn vinh đòi hỏi phải có những con người khỏe mạnh về thể chất, tinh thần, vững
chắc về tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm. Chính vì vậy đòi hỏi hệ thống giáo dục phải có những

bước tiến vững chắc, đi tắt, đón đầu nhằm gặt hái được nhiều thành công trong hiện tại và cả
tương lai. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong suốt thời gian qua thì nền giáo dục của
nước ta còn tồn tại nhiều hạn chế, như chương trình học quá tải, chất lượng không đảm bảo và
không đồng đều, giáo dục thiên về dạy chữ hơn dạy người, cơ sở vật chất chưa đáp ứng đủ nhu
cầu, việc bất bình đẳng trong tiếp cận với hệ thống giáo dục còn diễn ra khá phổ biến, bệnh thành
tích, thi cử trong giáo dục xuất hiện bao nhiêu năm vẫn chưa có thuốc đặc trị. Ngoài ra, vấn đề
dành cho giáo dục chuyên biệt, giáo dục với nhóm người đặc biệt chưa được chú trọng đầu tư
đặc biệt là giáo dục cho trẻ em vùng sâu vùng xa vùng DTTS sinh sống dẫn đến tỷ lệ bỏ học ở


những vùng này còn khá cao, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trong vùng nói riêng và cả nước nói chung, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của
cả nước. Chính vì ý thức được những ảnh hưởng không tốt từ hệ lụy của sự phân hóa trong phát
triển nên những năm gần đây, nhà nước đã chú trọng nhiều hơn cho những vấn đề nổi cộm xuất
hiện giáo dục. Một trong những vấn đề đó là tình trạng HSDTTS bỏ học.
Thực trạng bỏ học của học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng, thực chất đã diễn
ra trong một thời gian khá dài nhưng hầu như chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề này chỉ
được nhắc đến và đưa ra bàn luận trong thời gian gần đây, đặc biệt là sau sự kiện Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Ngoài trọng tâm đào tạo con người với đầy đủ năng
lực và phẩm chất, thì vấn đề bỏ học của học sinh trung học cũng ngày càng được Đảng, Nhà
nước và các tổ chức ban ngành quan tâm. Tuy nhiên, có thể thấy các nghiên cứu liên quan đến
vấn đề này vẫn chưa nhiều và chưa thật sự phản ánh một cách chân thật nhất, khái quát nhất thực
trạng vấn đề. Có chăng chỉ là những trang tin đăng tải trên các tờ báo (báo Tuổi trẻ, báo Thanh
niên, báo Sài Gòn giải phóng .), trên internet hoặc một số tin ngắn, phóng sự trên các phương
tiện thông tin đại chúng phản ánh các sự kiện liên quan
Tập trung giải quyết các “điểm nóng” tại buổi họp báo định kỳ tháng 3 năm 2008 của Bộ
GD-ĐT tổ chức ở Hà Nội ngày 12/3/2008, do Phó thủ tướng -Bộ trưởng bộ GD-ĐT Nguyễn
Thiện Nhân chủ trì, Bộ GD-ĐT đã dành phần lớn thời gian để nói về vấn đề bỏ học và giải pháp
để khắc phục.
Ngày 14 tháng 3 năm 2008, Bộ GD-ĐT có công văn số 2092/BGD&ĐT-VP gửi đến lãnh

đạo các Tỉnh, Thành phố trên cả nước giải trình về tình trạng học sinh bỏ học trong học kỳ I năm
học 2007-2008.
Với Việt Nam, ngành công tác xã hội còn khá mới mẻ, và với những khóa đầu tiên đào
tạo trong nước về công tác xã hội thì vấn đề học đường cũng là chủ đề nhận được quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu trẻ. Tuy nhiên chủ đề này không còn xa lạ với các ngành khác.
Đề tài Các yếu tố tác động đến tình trạng bỏ học của trẻ em vùng Tây Bắc hiện nay - luận
án tiến sĩ chuyên ngành Xã hội học, mã số 62 31 30 01 của NCS. Nguyễn Thị Thanh Hương
dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Vũ Tuấn Huy. Luận án đã tập trung nghiên cứu, khảo sát thực
trạng và các nguyên nhân bỏ học của trẻ em vùng Tây Bắc trong bối cảnh đất nước ta đang trong
quá trình phát triển và hội nhập. Trên cơ sở khảo sát các đối tượng nghiên cứu gồm trẻ em, nhà


trường, gia đình, cộng đồng, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục, đào tạo và chăm
sóc, bảo vệ trẻ em tại 3 tỉnh thuộc Tây Bắc là Lai Châu, Điện Biên, Sơn La tác giả luận án đã
phân tích được mối quan hệ và tác động qua lại giữa các yếu tố xã hội đến vấn đề trẻ em bỏ học.
Việc phân tích trình trạng bỏ học của trẻ em tại vùng Tây Bắc được xem xét trong mối quan hệ
với hệ thống giáo dục hiện nay của Việt Nam để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm giảm thiểu
tỷ lệ tình trạng bỏ học của trẻ em vùng Tây Bắc hiện nay. Đây là đề tài có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn, không trùng lặp với các đề tài khoa học và luận án tiến sĩ đã bảo vệ trước đó nó góp
phần trong việc tham khảo đưa ra những giải pháp để giải quyết tình trạng này ở địa phương
nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu là khu vực Tây Bắc tác giả đã chỉ ra những yếu tố như
kinh tế, văn hóa, chính sách… mang đặc trưng của vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nên
có thể mang một vài điểm tương đồng cho các vùng khác như Tây Nguyên.
Luận văn “Các giải pháp khắc phục tình trạng bỏ học của người đồng bào dân tộc thiểu
số ở huyện Kon Rẫy – Kon Tum”. Luận văn chuyên ngành kinh tế phát triển. Mã số 60 31 05.
Người thực hiện Lê Thị Bích Ngân, người hướng dẫn T.S Đoàn Gia Dũng. Luận văn đề cập đến
các nguyên nhân qua đó chú trọng đến những giải pháp để giúp khắc phục tình trạng bỏ học của
người dân tộc thiểu số tại huyện Kon Rẫy – tỉnh Kon Tum. Đây là luận văn có ý nghĩa thực tiễn
to lớn và có tính liên quan đến đề tài mà tôi đang nghiên cứu vì sự tương đồng về nhóm khách
thể nghiên cứu cũng như địa bàn thuộc khu vực Tây Nguyên. Tây Nguyên là địa bàn khá khó

khăn, trình độ phát triển về giáo dục còn kém các địa phương khác trong cả nước, hơn nữa là
vùng đồng bào dân tộc thiểu số chiếm phần nhiều nên hiện tượng học sinh dân tộc thiểu số bỏ
học diễn ra khá phổ biến. Chính điều này ảnh hưởng đến quá trình phát triển chung của vùng làm
cho trình độ dân trí thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Với những đề tài được nghiên
cứu xuất phát từ địa phương có thể góp phần rất lớn cho việc giải quyết vấn đề xã hội đang tồn
tại ở chính địa phương đó.
Luận văn “xóa đói giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Gia Lai”
của tác giả Nguyễn Đình Sơn chuyên ngành quản lý kinh tế cũng nghiên cứu chi tiết về nghèo
đói trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Luận văn đã chỉ ra thất học cũng là một nguyên nhân dẫn đến
nghèo và tái nghèo của vùng dân tộc thiểu số. Cái vòng luẩn quẩn của nghèo – thất học – tái
nghèo – bỏ học cũng được nhắc đến trong luận văn. Chính vì bỏ học nên việc tiếp cận với tri
thức, mở mang kiến thức, tiếp cận với kinh tế thị trường rất khó khăn và thất học ảnh hưởng rất
lớn đến nhận thức để thay đổi tình trạng kinh tế hiện tại của hộ gia đình.


Liên quan đến vấn đề bỏ học của học sinh đã có một số nghiên cứu nhỏ, các bài báo khoa
học như:
Đề tài “Khảo sát tình hình lưu ban, bỏ học của học sinh 2 trường vùng ven Thành phố Hồ
Chí Minh” của tác giả Đặng Văn Minh, Viện Nghiên cứu giáo dục, năm 1992. Nghiên cứu được
tiến hành tại hai trường: Trường THCS Đặng Trần Côn và Trường Cấp II, III Võ Văn Tần (năm
học1990 – 1991). Tác giả đã đánh giá thực trạng và chỉ ra những nguyên nhân bỏ học của học
sinh tại hai trường này. Đề tài đã đưa ra những nguyên nhân chủ quan, cũng như khách quan
khiến học sinh bỏ học, những nguyên nhân từ phía bản thân học sinh, gia đình, nhà trường và xã
hội. Từ việc phân tích nguyên nhân, tác giả đã đề xuất những giải pháp hữu hiệu ngăn chặn tình
trạng bỏ học, nó thật sự có ý nghĩa đối với ngành giáo dục tại thời điểm đó.
Bài trích “Hiện tượng lưu ban, bỏ học thực trạng, nguyên nhân, vấn đề và biện pháp /
Thái Duy Tuyên /Nghiên cứu giáo dục - 1992 - Số 242 - Tr.4-6”. Tác giả đã phản ánh thực trạng,
nguyên nhân của hiện tượng lưu ban, bỏ học và đưa ra những biện pháp cần thiết để ngăn chặn
và khắc phục tình trạng trên. Qua đề tài, có thể thấy được tình trạng bỏ học, lưu ban của học sinh
ở từng vùng, từng miền là khác nhau: về nguyên nhân, tỷ lệ, hệ quả. Từ đó tác giả đưa ra những

biện pháp ngăn chặn, khắc phục phù hợp với từng địa bàn nghiên cứu và tham khảo cho vùng
khác.
Bài trích “Về nguyên nhân và biện pháp chống bỏ học / Phạm Thanh Bình / Nghiên cứu
giáo dục - 1992 - Số 242 - Tr.31- 32”. Tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân cơ bản nhất khiến
học sinh phải bỏ học: nó có thể xuất phát từ phía nhà trường, học sinh, gia đình và toàn xã hội.
Bên cạnh việc nêu ra những nguyên nhân, tác giả đã nêu lên được những biện pháp để ngăn chặn
và giải quyết vấn đề đang được quan tâm lúc bấy giờ.
Bài trích “Vấn đề lưu ban, bỏ học ở Thành phố Hồ Chí Minh / Hồ Thiệu Hùng /Nghiên cứu
giáo dục - 1992 - Số 242 - Tr11-12”. Tác giả đã nêu lên được những đặc điểm chủ yếu về điều
kiện kinh tế - xã hội - giáo dục ở TP.Hồ Chí Minh và thực trạng lưu ban, bỏ học của học sinh tại
thời điểm nghiên cứu. Qua bài trích, tác giả đã chỉ rõ nguyên nhân khiến cho học sinh bị lưu ban,
bỏ học tại một thành phố lớn và đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế hiện tượng này.
Báo cáo của Ông Mai Phú Thanh – Chuyên viên Sở GD-ĐT về “Thực trạng học sinh lưu
ban, bỏ học tại Thành phố Hồ Chí Minh đầu năm học 2007 – 2008” (Báo cáo tại hội thảo
“Nguyên nhân và giải pháp thực trạng bỏ học của học sinh hiện nay”, được tổ chức tại Trường


Đại học Bán công Tôn Đức Thắng ngày 25/04/2008”. Trong báo cáo của mình, ông Mai Phú
Thanh đã trình bày sơ bộ về tình hình học sinh theo học ở các cấp, kết quả xếp loại học lực hàng
năm và đặc biệt là đưa ra những con số thống kê về nguyên nhân bỏ học của học sinh hiện nay.
Điểm đáng lưu ý của báo cáo là ông đã đưa ra những giải pháp mang tính chiến lược, nêu
bật vai trò của các cấp ban ngành cũng như của các đơn vị, tổ chức có trách nhiệm trong việc hạn
chế và ngăn ngừa tình trạng học sinh bỏ học hiện nay.
Đề tài “ Nghiên cứu về nguyên nhân bỏ học của Trẻ em Việt Nam, Hà Nội tháng
11/2010”. Tác giả Đặng Thị Hải Thơ – UNICEF tại Việt Nam. Đề tài đã chỉ ra những nguyên
nhân xuất phát từ gia đình như kinh tế khó khăn, trẻ lao động sớm, gia đình không hạnh phúc,
gia đình không có truyền thống học tập, gia đình khuyết thiếu, đông con. Những nguyên nhân
xuất phát từ nhà trường đó là chương trình giáo dục không thiết thực, chất lượng dạy học và
phương pháp giảng dạy thiếu hấp dẫn, ít hứng thú, mối quan hệ thầy trò có vấn đề, ngôn ngữ là
một rào cản. Bên cạnh đó tác giả đã chỉ ra các nguyên nhân từ xã hội, từ bản thân trẻ, các nhân tố

tác động khác.
Trong điều kiện giới hạn về thời gian và phương tiện tra cứu, tôi chỉ có thể sơ lược được
một số nghiên cứu nêu trên. Nguồn tư liệu nhóm thu thập được chủ yếu từ một số bài trích của
các đề tài nghiên cứu cách đây khá lâu (năm 1992), còn lại một số thông tin liên quan đến vấn đề
bỏ học của học sinh THCS hiện nay được lấy từ các bài báo, dữ liệu trên internet và tài liệu tham
dự hội thảo “Nguyên nhân và giải pháp thực trạng bỏ học của học sinh hiện nay” (ngày
25/04/2008). Qua đó, cũng có thể nhận định rằng, tình hình nghiên cứu vấn đề bỏ học của học
sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng còn rất hạn chế.
Công tác xã hội trong lĩnh vực học đường được nhắc đến nhiều trong những năm gần đây
nhằm góp phần cùng giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong giáo dục. Thực tế ta đã thấy, đầu
tư cho giáo dục là sự phát triển bền vững. Những thành quả đầu tư hôm nay là phồn vinh của xã
hội ngày mai, là sự phát triển vững chắc khi mà tầng lớp tương lai kế cận giỏi giang có thể gánh
vác nhiệm vụ của thế hệ trước xây đắp. Vậy nhưng giáo dục trong thời đại hiện nay của nước đối
mặt với vô số thách thức. Đã có một vài trường ở thành phố Hồ Chí Minh áp dụng CTXH trong
học đường nhưng một thời gian ngắn các dự án bị cắt hoặc không được tiếp tục... Gần đây, khi
báo chí dư luận xã hội nói nhiều về những tình trạng xảy ra trong môi trường học đường mà ít
nhiều là do trẻ bị “ô nhiễm” từ chính môi trường sống của trẻ nên dần dần xã hội mới nhìn nhận


lại quá trình giáo dục của từng gia đình, của cả hệ thống giáo dục của cả nước trong đó nhiều ý
kiến của những người có uy tín cho rằng giáo dục của nước ta thiên về dạy chữ hơn là dạy người
, trẻ em thiếu các kỹ năng sống cần thiết trong hội nhập chính vì vậy trẻ thiếu khả năng giao tiếp,
kỹ năng ứng phó khi có khủng hoảng xảy ra hay khi đối đầu với một vấn đề quá sức chịu đựng
của trẻ, khiến trẻ bị hụt hẫng, căng thẳng và gây ra những hành vi không mong muốn, kể cả vấn
đề trẻ bỏ học giữa chừng cũng là biểu hiện của hành vi thiếu hệ thống hành vi chuẩn mực để
đương đầu với những khó khăn trong quá trình học tập đến từ chủ quan hay khách quan.
Với những nghiên cứu chỉ ra ở trên có tác dụng rất lớn trong việc tham khảo trong việc
xây dựng luận văn. Các nghiên cứu đã là nguồn tài liệu vô cùng quý giá để có thể xây dựng
những chính sách lớn hơn, thiết thực hơn cho vùng nghiên cứu. Tuy nhiên với luận văn “Những
yếu tố tác động đến tình trạng bỏ học của học sinh dân tộc thiểu số - nghiên cứu trường

hợp tại xã Đăk Jơ Ta, huyện Mang Yang tỉnh Gia Lai.”. Tôi đã xây dựng đề cương nghiên
cứu về những yếu tố tác động đến tình trạng bỏ học của HSDTTS dưới góc nhìn của ngành
CTXH, những yếu tố này mang tính đặc trưng của địa phương. Qua đó ứng dụng những lý thuyết
của CTXH để can thiệp cho nhóm học sinh bỏ học ở địa phương nghiên cứu.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
Luận văn sẽ chỉ ra những yếu tố tác động đến tình trạng bỏ học của HSDTTS và biểu
hiện của các yếu tố này;
Đề xuất những giải pháp nhằm góp phần giải quyết vấn đề xã hội đang xảy ra ở địa
phương và ứng dựng lý thuyết CTXH vào một trường hợp cụ thể để giúp can thiệp đúng hướng
nhằm tăng cường chức năng xã hội của cá nhân, phát triển cộng đồng người dân tộc thiểu số;
Luận văn cũng góp phần làm tài liệu tài khảo cho những NVCTXH, nhà giáo dục khi làm
việc với đối tượng học sinh bỏ học, những dự án phát triển cộng đồng với các nhóm đối tượng
tương tự.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu các yếu tố tác động đến tình trạng bỏ học của HSDTTS và công tác xã hội
với tình trạng bỏ học của học sinh dân tộc thiểu số.


4.2. Khách thể nghiên cứu:
- Khách thể chính: HSDTTS đang đi học THCS mà xảy ra hiện tượng bỏ học và phụ
huynh học sinh.
- Khách thể khác: giáo viên, chính quyền địa phương, tìm hiểu cộng đồng mà học sinh
đang sinh sống.
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Giới hạn thời gian: 6 tháng (từ tháng 1/2013 – tháng 8/2013)
5.2. Giới hạn không gian: Nghiên cứu các khách thể trên địa bàn xã Đăk Jơ Ta, huyện Mang
Yang, tỉnh Gia Lai.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Thực trạng của vấn đề học sinh bỏ học tại các trường này diễn ra như thế nào?

Những yếu tố nào tác động dẫn đến hiện tượng HSDTTS bỏ học xảy ra ở địa phương?
Trong đó yếu tố nào là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất?
Đã có những can thiệp gì của chính quyền các cấp, nhà trường, gia đình, cộng đồng
nhằm giúp các em trở lại trường học? Đề xuất những giải pháp nào để có thể giải quyết vấn đề
này?
Nhận thức của học sinh, chính quyền, cộng đồng, gia đình về vấn đề nào như thế nào?
Bằng phương pháp công tác xã hội trợ giúp cho một nhóm học sinh bỏ học có thể quay
lại trường học.
7. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
7.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sẽ chỉ ra thực trạng và những yếu tố tác động đến tình trạng bỏ học của
HSDTTS tại xã Đăk Jơ Ta, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai từ đó đưa ra những giải pháp can
thiệp. Dưới góc độ của CTXH chúng tôi sẽ vận dụng lý thuyết nhận thức hành vi để nhóm học
sinh nâng cao nhận thức để giúp các em yên tâm học tập.


7.2 Nhiệm vụ
Nghiên cứu lý luận (hệ thống hóa các vấn đề lý luận về công tác xã hội lý thuyết công tác
xã hội, xác định yếu tố nào tác động đến tình trạng bỏ học của học sinh.)
Nghiên cứu thực tiễn (khảo sát đánh giá thực trạng bỏ học của học sinh DTTS và các yếu
tố tác động đến hiện tượng này).
Đề xuất giải pháp, ứng dụng một lý thuyết CTXH trong giải quyết vấn đề nhằm giúp đỡ
cho một nhóm cụ thể.
8. Giả thuyết nghiên cứu
Có rất nhiều yếu tố tác động đến tình trạng bỏ học của HSDTTS, trong đó yếu tố gia đình
và bản thân học sinh yếu tố tác động mạnh nhất. Việc sử dụng lý thuyết nhận thức - hành vi để
can thiệp sẽ đem lại kết quả tốt cho việc giải quyết vấn đề này.
9. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu (nghiên cứu tài liệu thứ cấp thông qua các báo cáo của
trường THCS xã Đăk Jơ Ta, UBND xã, UBND, phòng giáo dục, ban dân tộc huyện Mang Yang,

sở giáo dục đào tạo tỉnh Gia Lai).
Phương pháp điều tra bảng hỏi (Phát 100 bảng hỏi cho 50 học sinh của trường THCS Đăk
Jơ Ta, 50 phiếu cho phụ huynh học sinh trường THCS Đăk Jơ Ta).
Phương pháp chuyên gia (tham khảo ý kiến của những người có chuyên môn trong từng
lĩnh vực cụ thể).
Phương pháp phỏng vấn sâu (phỏng vấn sâu 2 người trong ban giám hiệu trường, 01 lãnh
đạo UBND xã, trưởng trạm y tế xã, Chi hội trưởng chi hội phụ nữ của 2 làng, trưởng phòng giáo
dục huyện và 15 giáo viên của trường).
Phương pháp thảo luận nhóm (thành lập nhóm gồm các em HSDTTS đang đi học để sinh
hoạt tạo tâm thế, niềm vui và giúp nhau trong học tập. Thành lập nhóm sinh hoạt của những
người mẹ có con là HSDTTS để cùng sinh hoạt nhóm, tạo ra những chuẩn mực, áp lực nhóm
giúp các bà mẹ tác động đến con cái của mình đi học đầy đủ).


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Lê Chí An, (1999), Nhập môn công tác xã hội cá nhân, khoa phụ nữ học đại học mở bán
công thành phố Hồ Chí Minh.

2.

Bộ lao động thương binh xã hội, (2000), Bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, Nxb Lao động xã hội.

3.

Phạm Văn Chung, Tập bài giảng đạo đức học, NXB chính trị quốc gia.

4.


Trương Minh Dục, (2008), Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên,
Nxb chính trị quốc gia.

5.

Tạ Thị Điệp, (2013), Cần thiết giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em, tạp chí khoa học và môi
trường tỉnh Gia Lai, (số 7), tr.12-15

6.

Phạm Minh Hạc (1996) 10 năm đổi mới giáo dục, Nxb giáo dục Hà Nội

7.

Phạm Minh Hạc (2011), Về tâm lý giáo dục Việt Nam, Nghiên cứu con người số 1 (52).

8.

Nguyễn Thị Thanh Hương, Các yếu tố tác động đến tình trạng bỏ học của trẻ em vùng Tây
Bắc, luận án tiến sỹ.

9.

Tiêu Thị Minh Hường – ThS Lý Thị Hàm – ThS. Bùi Thị Xuân Mai, Giáo trình tâm lý học
xã hội, Nxb lao động xã hội

10.

Đặng Cảnh Khanh, (2006), Nguồn nhân lực trẻ các dân tộc thiểu số những phân tích xã

hội học, Nxb Thanh niên.

11.

Nguyễn Thị Thái Lan & TS. Bùi Thị Xuân Mai (2011), Giáo trình công tác xã hội cá
nhân và gia đình, NXB Lao động xã hội.

12.

Nguyễn Thị Thái Lan (chủ biên), Giáo trình CTXH nhóm, Nxb Lao động xã hội.

13.

Đỗ Long – Đức Uy, Tâm lý học dân tộc, Nxb đại học quốc gia Hà Nội.

14.

Bùi Thị Xuân Mai (chủ biên), Giáo trình nhập môn công tác xã hội, Nxb lao động xã hội.

15.

Bùi Thị Xuân Mai - TS Gina A.Yap – Ths Joes C.Cam (2011), Nghề CTXH nền tảng triết
lý và kiến thức.

16.

Hồ Chí Minh toàn tập,1945, tập 4, trang 3233, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội


17.


Nguyễn Thị Hồng Nga, Giáo trình hành vi con người và môi trường xã hội, Nxb lao động
xã hội.

18.

Nghị định 37/2000 NĐ-CP về việc đổi tên xã thị trấn và thành lập huyện Mang Yang, Đăk
Đoa, tỉnh Gia Lai.

19.

Luật giáo dục/số 38/2005/ QH11 ngày 14 tháng 06 năm 2005.

20.

Lê Thị Quý, (2011), Xã hội học gia đình, Nxb chính trị hành chính

21.

Phạm Văn Quyết& Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB đại
học quốc gia Hà Nội.

22.

Hà Thị Thư, (2012), Kỹ năng công tác xã hội nhóm của sinh viên ngành CTXH, Nxb từ
điển bách khoa.

23.

Trần Đình Tuấn (2010), Công tác xã hội lý thuyết và thực hành, NXB Đại học quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

24.

Nguyễn Mạnh Tường (1994), Trung tâm giáo dục châu Âu, Nxb giáo dục Hà Nội

25.

Trường THCS Đăk Jơ Ta, (2012), Báo cáo tổng kết năm học 2012-2013 và phương hướng
nhiệm vụ của năm học 2013-2014.

26.

Sở Giáo dục và đào tạo tỉnh Gia Lai, Báo cáo tình trạng học sinh dân tộc thiểu số bỏ học
năm 2013 và giải pháp khắc phục.

27.

Malcolm Payne (1997), Lý thuyết CTXH hiện đại, Trường đại học KHXH&NV –
ĐHQGHN.

28.

Unicef Viet Nam, (2008), Children in Viet Nam who and where are poor? The
development and application of a multidimensional approach to child poverty, High level
conference.

29.

Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, (2012), Báo cáo năm 2012 của hội đồng nhân dân tỉnh Gia

Lai.

30.

Ủy ban nhân dân huyện Mang Yang,(2012), Báo cáo tổng kết tình hình hoạt động năm
2012 và phương hướng nhiệm vụ năm 2013.


31.

Vụ giáo dục trung học, Sơ lược tình hình phát triển giáo dục của một số nước trên thế
giới, tập 1.

Các trang web:
/> /> /> />


×