Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Hoạt động giáo dục hoà nhập cho trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật tại trường giáo dưỡng số 2 ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.91 KB, 12 trang )

Hoạt động giáo dục hoà nhập cho trẻ vị thành
niên vi phạm pháp luật tại Trường Giáo dưỡng
số 2 Ninh Bình
Nguyễn Văn Vệ
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn Thạc sĩ. Công tác xã hội; Mã số: 60 90 01 01
Nghd: PGS.TS Phạm Văn Quyết
Năm bảo vệ: 2014

Keywords: Công tác xã hội; Trẻ vị thành niên; Giáo dục; Hòa nhập xã hội

Contents:
Phần 1. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là hạnh phúc của mỗi gia đình, là lớp người
kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với sự phát triển đi lên của đất nước, trẻ em
ngày càng được Đảng, Nhà nước, xã hội và gia đình quan tâm, chăm sóc tốt hơn, tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho các em phát triển và phát huy vai trò của những chủ nhân tương lai.
Trên thực tế, phần lớn các em đáp ứng được sự mong mỏi của gia đình và xã hội, sống có
lý tưởng, không ngừng tu dưỡng về đạo đức, nỗ lực học tập, tiếp thu kiến thức nhằm cống hiến
sức lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, do đặc điểm
phát triển về tâm, sinh lý của lứa tuổi này là nhân cách chưa hoàn chỉnh, nông nổi, dễ bị kích
động, khó kiềm chế và đặc biệt là hiểu biết về pháp luật chưa sâu sắc, chưa toàn diện nên một bộ
phận không nhỏ thanh thiếu niên ở độ tuổi chưa thành niên sống buông thả, đua đòi hoặc vì


những lý do khác mà dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, thậm chí có nhiều trường hợp
đã có hành vi phạm các tội phạm hình sự - đã và đang là vấn đề gây nhức nhối trong xã hội.
Trong thời gian qua, xu hướng phạm tội ngày càng được trẻ hoá với các vi phạm pháp
luật mang tính tập thể, quy mô ngày càng lớn; tội phạm vị thành niên ngày càng gia tăng; điều
đáng lo ngại hơn là trẻ vị thành niên trong thời gian gần đây lại phạm các tội đặc biệt nghiêm


trọng, kể cả các tội phạm giết người, hiếp dâm, buôn bán ma tuý, cố ý gây thương tích, trộm cắp
tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản… ngày càng có xu hướng tăng lên; theo số
liệu thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì tình hình tội phạm giết
người ngày càng tăng lên, nguy hiểm và đáng báo động là trong thời gian gần đây nhiều đối
tượng thực hiện tội phạm giết người lại rơi vào một số bị can, bị cáo có tuổi đời còn rất trẻ và số
lượng này không ngừng tăng lên trong thời gian gần đây; phải chăng đó chính là những dấu hiệu
đã đến lúc phải báo động về việc giá trị đạo đức của một bộ phận trẻ vị thành niên đã bị xuống
cấp nghiêm trọng.
Theo báo cáo của Bộ Công an, năm 2001 có 11.376 người chưa thành niên vi phạm pháp
luật, trong đó 48,99% là trộm cắp, 4,29% là tội cướp, 0,76% giết người, 11,4% là cố ý gây
thương tích,… nhưng đến năm 2008, số người chưa thành niên vi phạm pháp luật đã tăng lên
thành 17.138 em, trong đó chiếm đa số vẫn là tội trộm cắp (chiếm 41,37%), 1,52% là giết người,
cướp và cướp giất chiếm 9,58%,… (Chỉ tiêu trẻ em Việt Nam, 2008-2009). Tại Hà Nội, theo
thống kê của cơ quan chức năng, từ năm 2008 - 2011 đã xử lý 968 đối tượng trong lứa tuổi còn
ngồi trên ghế nhà trường vi phạm pháp luật hình sự.
Số liệu trên đây chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”, chỉ là những con số được thống kê
chưa thật sự đầy đủ trong tổng số trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật. Vậy, chúng ta cần phải làm
thế nào để giáo dục những em đã lỡ bước chân vào con đường tội phạm, đưa các em trở về cuộc
sống bình thường để sau này các em có thể trở thành một công dân tốt, giúp ích cho xã hội?
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã lập ra các Trường giáo
dưỡng nhằm giáo dục và cải tạo những trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật.
Các trường giáo dưỡng có vai trò quan trọng như vậy, nhưng liệu cách giáo dục của các
trường đó đã phù hợp chưa? Các chế độ, chính sách liên quan đến quá trình giáo dưỡng của trẻ vị
thành niên có hạn chế hay không? Phương pháp giáo dục trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở
các trường giáo dưỡng có ưu điểm, hạn chế gì? Hình thức giáo dục như thế nào thì phát huy tốt
năng lực của trẻ, sự quyết tâm rèn luyện của trẻ và giúp trẻ nhanh chóng trở lại cộng đồng? Công


tác xã hội trợ giúp cho trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở các Trường giáo dưỡng bằng cách
nào? Vai trò của Nhân viên Công tác xã hội là gì?...

Mặt khác, hiện nay có nhiều nghiên cứu về trẻ em vi phạm pháp luật nhưng lại rất thiếu
những nghiên cứu về quản lý trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở các trường giáo dưỡng. Nếu
nghiên cứu về vấn đề này sẽ góp phần bổ sung thêm phát hiện vấn đề còn tồn tại trong cách thức
giáo dục trẻ ở các trường giáo dưỡng.
Nếu nghiên cứu về quản lý trẻ ở trường giáo dưỡng sẽ góp phần bổ sung thêm các học
liệu cho sinh viên ngành Công tác xã hội trong việc tiếp cận, trợ giúp cho trẻ vi phạm pháp luật ở
các trường giáo dưỡng, thúc đẩy quá trình thay đổi nhận thức, hành vi và tái hòa nhập cộng
đồng.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Hoạt động giáo dục hòa
nhập xã hội cho trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình”.
Trong những năm gần đây, hiện tượng trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật là một trong
những hiện tượng xã hội rất “nóng”, được dư luận xã hội quan tâm và trở thành chủ đề nghiên
cứu dưới nhiều cách tiếp cận: luật học, tâm lý học, xã hội học, giáo dục học... bởi tính chất
nghiêm trọng của hiện tượng cũng như mức độ nguy hại của hiện tượng đối với bản thân trẻ, gia
đình và xã hội.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận văn chuyên ngành Công tác xã hội, em xin
phép được tập trung nghiên cứu “Hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vị thành niên vi
phạm pháp luật tại Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình” dưới góc độ tiếp cận Công tác xã hội, từ
đó thấy được thực trạng của cách giáo dục đang áp dụng ở Trường giáo dưỡng; ưu điểm và hạn
chế của cách giáo dục này để đưa ra các giải pháp cũng như thấy được vai trò của Công tác xã
hội và Nhân viên Công tác xã hội trong việc trợ giúp trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật tu
dưỡng rèn luyện và nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
2.1 Nghiên cứu nước ngoài
Vấn đề trẻ em vi phạm pháp luật đã được nhiều tác giả quan tâm. Có nhiều công trình
nghiên cứu đề cập đến những đặc trưng tâm lý, nhân cách của trẻ, những nguyên nhân dẫn đến
việc trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật và các giải pháp hạn chế tình trạng trẻ em VPPL.
A.I Dongova (nhà tâm lý học tội phạm người Nga) đã có công trình nghiên cứu và đưa ra
nhận định của mình về trẻ chưa thành niên vi phạm pháp luật, cụ thể là: những người chưa thành



niên phạm tội thường có tính phô trương, khoe khoang, trưng bày phẩm chất tiêu cực thiếu lành
mạnh của mình, làm ra vẻ anh hùng rơm… Chúng thường thỏa hiệp với những nét tính cách của
mình như: Sống không có lý tưởng, hoài bão, dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực từ những người khác,
thiếu tính điềm đạm, bình tĩnh mà chỉ quen ăn chơi, đàng điếm, lười biếng, nghiện. Đặc biệt ở
giai đoạn này trẻ thay đổi mối quan hệ gia đình và xã hội, giành nhiều thời gian hơn cho bạn bè.
Thời kỳ này, trẻ rất sợ bị bỏ rơi, tẩy chay, loại khỏi nhóm bạn, và đặc biệt hơn, trẻ mong muốn
được vào nhóm để thể hiện tính cách và đóng góp vào lợi ích chung của nhóm.
Theo các nhà tâm lý tội phạm Nga, ở người chưa thành niên phạm tội cũng như những
người chưa thành niên bình thường thì các quan điểm pháp luật, nhận thức pháp luật không được
hình thành hoặc bị lệch lạc. Điều này tạo khả năng phát sinh hành vi không phù hợp với các qui
định của pháp luật.
Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của người chưa thành niên nói chung và người chưa thành niên có hành vi phạm tội nói riêng.
Qua các nghiên cứu cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn người chưa thành niên đến việc thực
hiện những hành vi phạm tội. Đó là nguyên nhân từ phía gia đình và nhóm bạn bè vẫn được xem
là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn đối với hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Tiêu biểu
cho quan điểm này phải kể đến các tác giả như V.M Koromosikov, Margot Prior (2000), Rutter
Giller (1983) và Sarnecki (1985).
Năm 1996, David P.Farrington đã tiến hành điều tra, nghiên cứu và cho rằng: tâm lý hiếu
động và hay bốc đồng là những yếu tố quan trọng nhất có thể phán đoán về khả năng của trẻ sau
này. Qua quá trình điều tra ở Thụy Điển, ông cho thấy: các em học sinh bị giáo viên nhận xét là
hiếu động ở độ tuổi 13 thì thường phạm các tội có sử dụng bạo lực cho đến độ tuổi 26. Ngoài ra,
David P.Farrington còn có cuộc điều tra nghiên cứu về trí tuệ của trẻ vị thành niên phạm tội.
Cuộc điều tra ở Thụy Điển cho thấy, trẻ được kiểm tra nếu thiểu năng trí tuệ lúc 3 tuổi thì sẽ có
nguy cơ phạm tội cao cho tới độ tuổi 30. Nghiên cứu ở Cambridge cho thấy trẻ có điểm IQ nhỏ
hơn 90 trong độ tuổi từ 8-10 tuổi có tỷ lệ phạm tội cao gấp đôi các em khác.
Tóm lại: Các nghiên cứu nước ngoài về trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật tương đối
nhiều. Các tác giả tập trung nghiên cứu về nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của
trẻ cũng như các đặc điểm tâm lý, hành vi, tính cách của trẻ VTN VPPL còn các nghiên cứu về

giáo dục hòa nhập cho trẻ VTN VPPL trong trường giáo dưỡng thì rất hạn chế.
2.2 Nghiên cứu trong nước


Ở trong nước, rất nhiều các nhà nghiên cứu đã khai thác đề tài về trẻ vị thành niên vi
phạm pháp luật. Năm 1981, tác giả Phạm Minh Đức đã có công trình nghiên cứu được tiến hành
với 265 học sinh vi phạm pháp luật có độ tuổi từ 10 đến 17 tuổi. Ở nghiên cứu này, tác giả Phạm
Minh Đức cho rằng: các em học sinh phạm pháp nói chung phát triển bình thường về mặt trí tuệ
nhưng do động cơ học tập bị suy thoái, nhu cầu nhận thức thấp, nhu cầu tầm thường khác cao
nên dẫn đến hành vi phạm tội của các em. Từ kết luận đó của tác giả Phạm Minh Đức, chúng ta
có thể đưa ra bài học kinh nghiệm: Muốn giáo dục hoà nhập xã hội cho trẻ VTN VPPL được tốt
thì Trường giáo dưỡng cần khơi dậy động cơ về học tập, rèn luyện của các em. Ngoài ra, các
thầy cô trong trường giáo dưỡng cần quan tâm hơn đến các nhu cầu của các em, từ đó khơi dậy
niềm ý chí rèn luyện của các em qua các nhu cầu chính đáng và can thiệp để hạn chế các nhu cầu
tầm thường sẽ giúp các em dễ dàng hoà nhập xã hội.
Năm 1993, Tác giả Nguyễn Xuân Thủy cũng có công trình nghiên cứu về trẻ em vi phạm
pháp luật, nhưng ông khai thác ở góc độ tâm lý. Ông cho rằng: người chưa thành niên phạm tội
về cơ bản cũng có những đặc điểm tâm lý như những trẻ em bình thường khác cùng lứa tuổi.
Song, do tiếp xúc thường xuyên với những điều kiện tiêu cực và trong quá trình phạm tội mà
nhân cách của các em bị giảm sút nghiêm trọng. Như vậy, ông đã chỉ ra nguyên nhân trẻ vi phạm
pháp luật ở đây là do môi trường sống và sự tập nhiễm xã hội của trẻ. Điều này giúp chúng ta rút
ra kết luận rằng: Muốn giáo dục hoà nhập xã hội tốt cho trẻ, trường giáo dưỡng cần phải tạo ra
một môi trường giáo dục tốt, các thầy cô giáo phải là những tấm gương sáng để các em noi theo.
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Xuân Thủy cũng chỉ ra rằng: Ở phần lớn các thiếu niên phạm
pháp, phẩm chất tiêu cực chiếm ưu thế trong cấu trúc nhân cách, đó là: thiếu quyết tâm, vô trách
nhiệm, hay bắt chước một cách mù quáng, thô lỗ, gây gổ. Với nghiên cứu này, tác giả Nguyễn
Xuân Thuỷ đánh giá trẻ VTN VPPL có rất nhiều nguyên nhân từ chính bản thân các em. Vì vậy,
chúng ta có thể rút ra bài học về việc giáo dục hoà nhập cộng đồng cho trẻ trong trường giáo
dưỡng cần trú trọng hơn vào việc giáo dục nhận thức, suy nghĩ và khơi dậy lòng quyết tâm trong
mỗi học sinh.

Trong luận án Tiến sỹ “Tội phạm ở tuổi vị thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh Hiện
nay”, tác giả Phạm Đình Chi đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về tình hình phạm tội của trẻ vị
thành niên vi phạm pháp luật. Theo tác giả: Số lượng trẻ vị thành niên càng ngày càng tăng cao
và gia đình luôn có một vai trò to lớn trong việc giáo dục con em mình hoàn thiện nhân cách. Trẻ
vị thành niên vi phạm pháp luật là do ảnh hưởng rất lớn từ nền giáo dục của gia đình. Từ kết quả


nghiên cứu đó của tác giả Phạm Đình Chi, chúng ta có thể thấy vai trò to lớn của gia đình trong
việc giáo dục hoà nhập xã hội cho trẻ VTN VPPL.
Tác giả Nguyễn Duy Xi là một nhà tâm lý học và trực tiếp làm công tác quản lý tại trại
giam của Bộ Công An, tác giả đã có công trình nghiên cứu và đưa ra một số nhận về đặc điểm
tâm lý của trẻ em làm trái pháp luật ở những điểm cơ bản như sau:
- Về trí tuệ, ở trẻ làm trái pháp luật có sự phát triển chậm, tư duy trừu tượng kém hơn trẻ
bình thường, không biết phân tích đánh giá đúng một số hiện tượng mà nặng về tư duy cụ thể
thực dụng và rất khéo léo “mưu trí” trong thực hiện hành vi trái pháp luật như kỹ xảo ăn cắp,
móc túi, che dấu, đối phó với sự theo dõi phát hiện của nhà chức trách”
- Về hứng thú, ham muốn của các em thường nặng về vật chất tầm thường, thấp hèn,
thậm chí kỳ quặc. Các em không còn hứng thú học tập, hiểu biết như trẻ bình thường, thích đua
đòi, ăn chơi như người lớn (có 82% nghiện thuốc lá, 70% uống bia rượu, 72% nghiện cafe, chè.
- Về tình cảm, thiếu bền vững, thay đổi dễ dàng, nhanh chóng, nhưng lại mạnh mẽ. Tình
cảm có tính rung động cao, dễ bị kích động, bồng bột, sôi nổi là đặc trưng cơ bản của tình cảm ở
trẻ em làm trái pháp luật.
- Về tính cách, nét tính cách đặc trưng là các em muốn vươn lên làm người lớn, muốn
hoạt động để thử sức và có xu hướng bắt chước cái xấu của người lớn. Có tính độc lập và tự
trọng cao, nên nếu bị chửi rủa, đánh mắng, xúc phạm thì các em thường có phản ứng quyết liệt,
chống trả lại hoặc nảy sinh tiêu cực bỏ nhà đi lang thang, tỏ ra bất cần đời. Từ kết quả này,
chúng ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm: Muốn giáo dục hoà nhập xã hội tốt cho trẻ VTN
VPPL, trường giáo dưỡng cần xây dựng một môi trường sống thân thiện, không xúc phạm tới
các em để các em không có những phản ứng quyết liệt, không tỏ ra bất cần đời.
Luận văn thạc sĩ khoa học Xã hội học: “Ảnh hưởng của giáo dục gia đình tới hành vi

phạm tội của trẻ vị thành niên hiện nay” (2007) (nghiên cứu trường hợp tại Trường giáo dưỡng
số 02 Ninh Bình của tác giả Cù Thị Thanh Thuỷ đã chỉ ra “Vấn đề tái hoà nhập cộng đồng của
học sinh trường Giáo dưỡng nói chung và những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nói
riêng là một khâu hết sức quan trọng trong toàn bộ các mặt hoạt động giáo dục của trường giáo
dưỡng. Những con người trẻ tuổi đã một thời lầm lỡ không thể tránh khỏi những mặc cảm, tự ti
trước cuộc đời. Mặc dù thời gian đưa vào trường giáo dưỡng không bị coi là án tích nhưng các
em vẫn gặp những khó khăn khi hết thời hạn ở trường và về với cộng đồng xã hội” [17, 85]. Tác
giả Cù Thị Thanh Thuỷ cũng chỉ rõ rằng với sự giúp đỡ của các thầy cô giáo thì các em đã có


những tiến bộ rõ rệt: 29,41% muốn tiếp tục đi học văn hoá, 35,29% muốn đi học nghề, 25,47%
muốn có một việc gì để làm, 8,8% chưa biết phải làm gì.
Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Linh trong luận văn Thạc sỹ Xã hội học: “Thực trạng trẻ em vi
phạm pháp luật ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình” đã chỉ ra rằng: công tác giáo dục đạo đức,
pháp luật, dạy văn hoá song song với việc dạy nghề được lãnh đạo và cán bộ trường giáo dưỡng
số 2 rất coi trọng. “Từng cán bộ như là người cha, người mẹ chia sẻ, động viên kịp thời để các
em tin tưởng vào quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện tại trung tâm sớm được trở về với gia
đình và cộng đồng”. Như vậy, luận văn này đã đánh giá cao vai trò của Trường giáo dưỡng trong
việc giáo dục tái hoà nhập cho trẻ VTN VPPL.
Tóm lại: Vấn đề trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật là một đề tài đã được rất nhiều các
nhà nghiên cứu khai thác. Tuy nhiên, các đề tài chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu về nguyên nhân
dẫn đến hành động vi phạm pháp luật của trẻ, các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi của trẻ như: gia
đình, đặc điểm tâm sinh lý, cha mẹ, bạn bè, nhà trường và các yếu tố khác. Hoặc có nghiên cứu
tiếp cận dưới góc độ hành vi lệch chuẩn và mối quan hệ giữa trẻ vi phạm pháp luật và môi
trường xã hội. Tuy vậy, các nghiên cứu về giáo dục hoà nhập cho trẻ trong các trường giáo
dưỡng lại rất hạn chế.
3. Ý nghĩa nghiên cứu
Các nghiên cứu trong nước và thế giới đã khai thác khá nhiều dưới góc độ nguyên nhân,
môi trường và hành vi vi phạm pháp luật của trẻ vị thành niên. Tuy nhiên các nghiên cứu về cách
giáo dục trẻ vị thành niên trong các trường giáo dưỡng thì còn thiếu. Theo quy định, trẻ vị thành

niên vi phạm pháp luật ở một chừng mực nhất định thì bắt buộc phải đưa vào trường giáo dưỡng
để quản lý và giáo dục. Vì vậy, giáo dục trẻ ở các trường giáo dưỡng là rất quan trọng đối với
việc rèn luyện và tái hòa nhập cộng đồng của trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật. Đặc biệt, cách
giáo dục đó được tiếp cận dưới góc độ của Công tác xã hội đã phù hợp chưa? Vì vậy, việc tiếp
tục nghiên cứu về vấn đề này là rất cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
3.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú thêm cơ sở lý luận về trẻ vị thành niên vi phạm pháp
luật. Đặc biệt, luận văn nghiên cứu sâu vào cơ sở giáo dưỡng số 2 Ninh Bình và cách thức giáo
dục hòa nhập trẻ vi phạm pháp luật trong cơ sở đó để làm căn cứ lý luận hoàn thiện giáo dục hòa
nhập ở Trường giáo dưỡng phù hợp hơn, hiệu quả hơn.
3.2. Về mặt thực tiễn


- Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở thực tiễn về cách thức quản lý, giáo dục hòa nhập
cho trẻ ở Trường giáo dưỡng, giúp cho các quản giáo định hướng tốt hơn cho hành vi của trẻ vi
phạm pháp luật đồng thời luận văn cũng chỉ rõ được vai trò của Nhân viên Công tác xã hội trong
quá trình trợ giúp cho thân chủ là trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật trong các trường giáo
dưỡng.
- Luận văn cũng góp phần bổ sung nguồn học liệu, làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
ngành công tác xã hội về những vấn đề có liên quan đến trẻ em vi phạm pháp luật nói chung và
trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật tại Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình nói riêng.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1 Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu, tìm hiểu hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vị thành niên vi phạm
pháp luật tại Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình và những yếu tố ảnh hưởng từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vị thành niên vi phạm
pháp luật.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật tại Trường Giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.
- Tìm hiểu những hoạt động giáo dục mà Trường Giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đã thực

hiện nhằm trợ giúp hòa nhập xã hội cho trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật.
- Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vị
thành niên vi phạm pháp luật tại Trường Giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.
- Đề xuất những giải pháp để hoàn thiện hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vị
thành niên vi phạm pháp luật trong các trường giáo dưỡng.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình đã có nội dung, phương pháp giáo dục như thế nào để
giúp cho trẻ tái hòa nhập xã hội?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng tới quá trình giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vi phạm pháp
luật tại Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình?
- Làm thế nào để nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vi phạm
pháp luật tại Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình?


6. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
6.1 Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật tại Trường
giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.
6.2 Khách thể nghiên cứu
- Trẻ vị thành niên độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật tại trường giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình.
- Cán bộ, giáo viên đang trực tiếp tham gia quản lý, giảng dạy tại Trường giáo dưỡng số 2
Ninh Bình.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu với 20 người, trong đó có: 12 phỏng vấn sâu đối với
trẻ vị thành niên và 08 phỏng vấn sâu đối với cán bộ, giáo viên tại Trường Giáo dưỡng số 2 Ninh
Bình:
Bảng 1. Cơ cấu chọn mẫu

Nhóm đối tượng
Nữ VTN VPPL

Số lượng
02 người

Mục đích thu thập thông tin
Đánh giá hoạt động giáo dục tái hòa nhập xã hội của
Trường giáo dưỡng đối với nữ học sinh.

Nam VTN VPPL

10 người

Đánh giá hoạt động giáo dục tái hòa nhập xã hội của
Trường giáo dưỡng đối với nam học sinh.

Cán bộ hành chính 03 người

Đánh giá các hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội của

(giám thị, quản lý,

Trường giáo dưỡng ngoài giờ học

giáo viên chủ nhiệm)
Giáo viên (giáo dục 05 người

Đánh giá các hoạt động giáo dục hòa nhập xã hội của


công dân, toán, văn,

Trường giáo dưỡng trong giờ học

kỹ năng sống, dạy
nghề)
- 08 phỏng vấn sâu với cán bộ/giáo viên đang công tác tại Trường Giáo dưỡng số 2 Ninh


Bình
7.2. Phương pháp quan sát:
- Quan sát các hoạt động, phương pháp giáo dục của cán bộ giáo dưỡng tại Trường Giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình.
- Quan sát điều kiện vật chất của Trường giáo dưỡng, hoàn cảnh sống của các em tại
Trường.
- Quan sát các cử chỉ, hành vi, cách ứng xử của các em trong quá trình sinh hoạt, lao
động, học tập tại Trường.
7.3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
- Nghiên cứu, đọc sách tham khảo, báo cáo của Trường để làm cơ sở lý luận, thực tiễn.
- Nghiên cứu một số văn bản, chính sách liên quan đến đối tượng nghiên cứu và phạm vi
nghiên cứu.
- Nghiên cứu bản tự thuật của các em để bổ sung, đối chiếu những thông tin cho đề tài.
8. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi không gian: Trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình.
- Phạm vi thời gian: Tháng 6/2013 – Tháng 05/2014
9. Cấu trúc luận văn
Luận văn có kết cấu 3 phần:
Phần 1. Mở đầu: Giới thiệu khái quát các vấn đề làm cơ sở để thực hiện đề tài.
Phần 2. Kết quả nghiên cứu: gồm có 3 chương:
Chương 1. Tập trung làm rõ các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.

Chương 2. Tập trung nghiên cứu thực trạng về giáo dục hòa nhập xã hội cho trẻ vị thành
niên vi phạm pháp luật ở Trường giáo dưỡng số 2 Ninh bình
Chương 3. Tập trung vào những yếu tố ảnh hưởng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của hoạt động giáo dục hòa nhập cho trẻ vị thành niên vi phạm pháp luật ở Trường giáo dưỡng
số 2 Ninh Bình.
Phần 3. Kết luận: Trình bày các kết luận và khuyến nghị được đúc rút từ nghiên cứu.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngô Thị Ngọc Ánh (2003), Vị thành niên: Các đặc điểm tâm – sinh lý và đặc điểm tâm
lý – xã hội, Tâm lý học, tr. 42 – 48.
2. Cục quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng - Bộ Công An (1999),
Những văn bản pháp luật phục vụ cho công tác trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng,
NXB Công an nhân dân, trang 70.
3. Trần Đức Châm (2002), Thanh, thiếu niên làm trái pháp luật, thực trạng và giải pháp
(sách tham khảo), NXB Chính trị quốc gia.
4. Phạm Đình Chi (2005), Tội phạm ở tuổi vị thành niên tại thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà
Nội).
5. Trần Thị Minh Đức (2012), Giáo trình tham vấn tâm lý, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
6. Trần Thị Minh Đức, Giáo trình tham vấn cho người chưa thành niên vi phạm pháp luật
– Tài liệu tập huấn của Tổ chức Plan, 28
7. Trần Ngọc Giao – Lê Văn Tạc (đồng chủ biên) (2010), Quản lý giáo dục hoà nhập,
NXB Phụ nữ.
8. Trương Thị Khánh Hà (2002), Tìm hiểu khái niệm “Tuổi vị thành niên”, Tâm lý học,
tr. 47 – 48.
9. Huỳnh Thị Thu Hằng (2008), Giáo dục hoà nhập cho trẻ khuyết tật tiểu học, Đại học
Đà Nẵng, tr 3
10. Lê Thu Hiền (2012), Quan hệ giữa cha mẹ và vị thành niên trong gia đình, Luận văn

Thạc sĩ Xã hội học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).
11. Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 của Quốc Hội ngày 20 tháng 6 năm
2013.
12. Luật hình sự (2000).
13. Nguyễn Thị Ngọc Linh (2013), Thực trạng trẻ em vi phạm pháp luật ở Trường giáo
dưỡng số 2 Ninh Bình, luận văn Thạc sỹ Xã hội học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại
học Quốc gia Hà Nội).
14. Trần Mai (1999), Giúp trẻ ở tuổi vị thành niên, Tâm lý học (5),tr62-63.
15. Phạm Thành Nghị (2013), Tâm lý học giáo dục, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr31


16. Nghị định 142/2003/NĐ-CP, ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Chính Phủ về việc Quy
định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
17. Lương Văn Úc (2009), Giáo trình xã hội học, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội
18. Tạp chí khoa học, quản lý và giáo dục phạm nhân năm 2013 (tài liệu lưu hành nội bộ
- Bộ Công an
19. Trường Đại học Luật (2007), Giáo trình Tội phạm học, NXB Công an Nhân dân, Hà
Nội.
20. Cù Thị Thanh Thuỷ (2007), Ảnh hưởng của giáo dục gia đình tới hành vi phạm tội
của trẻ vị thành niên hiện nay (nghiên cứu trường hợp tại Trường Giáo dưỡng số 02 Ninh Bình),
Luận văn Thạc sỹ Xã hội học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà
Nội).
21. Hà Thị Thư (2010), Giáo trình Tâm lý học phát triển, NXB Lao động – Xã hội, 178
22. Thông tư số 39/2009/TT-BGDĐT ban hành quy định giáo dục hòa nhập cho trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn, tr3.
23. Phạm Viết Vượng (2012), Giáo dục học, NXB Đại học Sư phạm, tr22.




×