Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Giải pháp hoàn thiện hoạt động cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.88 KB, 66 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện chuyên đề “Giải pháp hoàn thiện hoạt động Cổ phần
hoá các Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam”, nhóm chúng tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Ban Giám hiệu, phòng đào tạo sau đại học và giảng
viên Trường Đại học kinh tế Huế, Nhóm học viên chúng tôi xin bày tỏ lòng chân thành về
sự giúp đỡ đó.
Nhóm học viên chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.Phan Khoa Cương là
người hướng dẫn cho chúng tôi hoàn thiện chuyên đề này.
Đây là một đề tài tương đối rộng và phức tạp chính vì vậy chuyên đề không tránh
khỏi nhiều thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự đóng góp ý phê bình của
các thầy cô, độc giả để có thể có những hiểu biết hơn về vấn đề này.
Huế, ngày 25 tháng 04 năm 2016
Nhóm học viên
1.Phạm Văn Nhân
2.Đinh Quang Thành Minh
3.Trần Thị Phương Trà

1

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
Chữ cái viết tắt/ký hiệu
CTCP
DNNN
CPH
DN

Cụm từ đầy đủ
Công ty cổ phần


Doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa
Doanh nghiệp

2

2


MỤC LỤC

3

3


DANH MỤC CÁC BẢNG

4

4


DANH MỤC CÁC HÌNH

5

5



Phần 1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước là một giải pháp quan trọng của
Đảng và Nhà nước trong chủ trương đổi mới và sắp xếp lại khối doanh nghiệp
Nhà nước được tiến hành trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ thực trạng kinh doanh kém hiệu quả của hệ
thống doanh nghiệp Nhà nước và mục đích chuyển đổi nền kinh tế phù hợp với
nền kinh tế thị trường thì việc đa dạng hoá các thành phần kinh tế cũng như
hình thức sở hữu nền kinh tế là một điều tất yếu. Cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đổi mới phương thức quản lý
đồng thời nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong các
doanh nghiệp Nhà nước. Hơn nữa, cổ phần hoá là một yếu tố quan trọng thúc
đẩy thị trường chứng khoán ở Việt Nam, nội lực để phát triển nền kinh tế và
hiện nay chưa thể nói là đã phát triển hoàn thiện nhưng lại rất quan trọng khi
Việt Nam đang mở cửa để hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như thế giới.
Cổ phần hóa DNNN vừa nhằm xã hội hóa phương thức tổ chức sản xuất
kinh doanh, vừa nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống doanh nghiệp.
Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã được tiến hành ở Việt Nam
trong gần 20 năm, nhưng việc đổi mới hệ thống doanh nghiệp này là một quá
trình lâu dài và có rất nhiều những khó khăn thử thách.
Nhận định được mục tiêu, lợi ích cũng như tình hình cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài là: “Giải pháp
hoàn thiện hoạt động Cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt
Nam” làm chuyên đề nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung

6



Trên cở sở kết quả phân tích thực trạng quá trình cổ phần hóa Doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, chuyên đề đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện hơn quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước tại Việt Nam giai đoạn 1992-2014.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn quá trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 Đối tượng nghiên cứu : Vấn đề cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam.

 Phạm vi nghiên cứu: thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt
Nam trong thời gian từ 1992 – 2014.
4. Phương pháp nghiên cứu
+ Nguồn thu thập số liệu: Thông tin tạp chí, internet, website của tổng cục
thống kê, tham khảo các công trình nghiên cứu.
+ Các phương pháp nghiên cứu sử dụng:

a) Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
- Phương pháp mô hình hóa
- Phương pháp lịch sử
b) Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát khoa học

- Phương pháp thực nghiệm khoa học
- Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm
7


5. Kết cấu của chuyên đề
Ngoài phần Mở đầu và kết luận, phần nội dung nghiên cứu được kết cầu
thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước.
Chương 2: Thực trạng cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động cổ phần hóa Doanh nghiệp Nhà
nước tại Việt Nam

Phần 2
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1 LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CỔ PHẦN HÓA
1.1.1 Khái niệm Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một công ty có số vốn được chia làm nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần và được thành lập gồm nhiều hội viên gọi là cổ đông và chỉ
chịu lỗ lãi trong số vốn mà họ đã góp. Giấy chứng nhận cổ phần gọi là cổ phiếu.
Hiện nay ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp 2005, CTCP là doanh
nghiệp, trong đó: vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần; cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa; cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào doanh
nghiệp; cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người

khác.
1.1.2 Đặc điểm của Công ty cổ phần
+ Là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập
8


Pháp luật về công ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể về các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của công ty cổ phần với tư cách là một pháp nhân
độc lập, có năng lực và tư cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập và tách biệt với các
cổ đông trong công ty. Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty bằng chính tài sản của mình; với tư cách chủ thể là
pháp nhân thông qua người đại diện của mình theo qui định của pháp luật.
+ Các cổ đông chịu trách nhiệm hữu hạn
Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của CTCP tức là họ đã chuyển
dịch vốn của mình theo những phương thức nhất định vào công ty cổ phần và
trở thành tài sản thuộc sở hữu của CTCP, nhưng cổ đông vẫn được hưởng các
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Vốn thuộc sở hữu công ty chính là
giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào
công ty, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty
được hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu của mình.
+ Chuyển nhượng phần vốn góp một cách tự do
Hầu hết pháp luật về công ty của các nước trên thế giới đều qui định và
cho phép chuyển nhượng một cách dễ dàng và tự do các loại cổ phiếu do công
ty cổ phần phát hành. Việc góp vốn vào CTCP được thực hiện bằng cách mua cổ
phiếu nên cổ phiếu được xem là hình thức thể hiện phần vốn góp của các cổ
đông.
+ Cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt
Sự phát triển của CTCP tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn
trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi
phối khách quan của các qui luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan

của con người. Điều này đặt ra một đòi hỏi là con người phải tạo ra cách thức
góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn để có thể đáp ứng được sự vận động linh
hoạt của vốn. Sự linh hoạt trong vận động của vốn vừa phải thích ứng với yêu
cầu đòi hỏi đa dạng của nhà đầu tư, vừa không mất đi bản chất vốn có của
CTCP.

9


+ Tính ổn định trong hoạt động kinh doanh và không hạn chế về thời gian tồn
tại
Đối với CTCP thì hoạt động kinh doanh của công ty hoàn toàn không phụ
thuộc vào bất kỳ điều gì có thể xảy ra đối với các cổ đông trong công ty. Mặt
khác, luật của một số nước đều không hạn chế thời gian tồn tại của công ty cổ
phần trừ những trường hợp như: công ty phá sản hoặc các cổ đông cùng thoả
thuận chấm dứt hoạt động hay vì một lý do nào khác mà điều lệ công ty qui
định.
+ Cơ chế quản lý tập trung cao
Với tư cách là một pháp nhân độc lập, trong CTCP có sự tách biệt giữa
quyền sở hữu và cơ chế quản lý. Đó là việc các cổ đông sẽ bầu ra Ban giám đốc và
Ban giám đốc sẽ thay mặt các cổ đông quản lý công ty. Như vậy, trong CTCP việc
quản lý được tập trung hoá cao vào Ban giám đốc mà không dàn trải đều việc
quản lý cho các cổ đông. Giám đốc có thể là người đại diện theo pháp luật của
công ty cổ phần, là người điều hành các hoạt động kinh doanh hàng ngày của
công ty.
1.1.3 Cổ phần hoá
1.1.3.1 Khái niệm cổ phần hóa
Cổ phần hoá theo nghĩa rộng là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ các
hình thức tổ chức kinh doanh khác sang hình thái CTCP.
Cổ phần hoá DNNN là chuyển DNNN thành CTCP, trong đó chuyển toàn bộ

hay một phần vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước và các lĩnh vực lâu nay
Nhà nước độc quyền cho các cổ đông.
1.1.3.2 Nội dung của cổ phần hoá.
Quá trình CPH DNNN bao gồm nhiều nội dung nhưng chủ yếu phải xác định
được đối tượng CPH DNNN, hình thức CPH DNNN và những vấn đề khác.
+ Đối tượng của cổ phần hoá
Đối tượng cổ phần hoá là các DNNN thoả mãn một số điều kiện gắn với
quan điểm của từng quốc gia, phụ thuộc vào nhận thức kinh tế và hoàn cảnh

10


lịch sử của quốc gia đó. Nói chung đối tượng CPH là những doanh nghiệp mà
Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Ở Việt Nam cổ phần hoá được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới, sắp
xếp DNNN. Các DNNN (kể cả các tổng công ty) đều là đối tượng cổ phần hoá
(không phụ thuộc vào thực trạng sản xuất kinh doanh). Tuy nhiên, những DN này
không nằm trong diện giải thể, phá sản và không thuộc lĩnh vực mà Nhà nước
cần nắm giữ 100% vốn điều lệ như: sản xuất cung ứng vật liệu nổ, hoá chất độc,
phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng thông tin, quốc phòng, an
ninh…
+ Hình thức cổ phần hoá
Cổ phần hoá DNNN có thể tiến hành theo hình thức như:

 Giữ nguyên giá trị phần vốn Nhà nước hiện có tại DN, phát hành thêm cổ phiếu
thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Hình thức này
nhằm thu hút vốn ngoài xã hội đầu tư, phát triển, tăng vốn hoạt động cho
doanh nghiệp.

 Bán toàn bộ phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. hình

thức này được áp dụng cho những DNNN thuộc đối tượng mà Nhà nước cần
nắm giữ cổ phần.

 Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển
thành công ty cổ phần, tức là Nhà nước không còn nắm giữ cổ phần tại công ty.
Mỗi hình thức CPH đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Nhưng sự
đa dạng trong hình thức sẽ tạo thêm cho DN nhiều lựa chọn phù hợp với ngành
nghề kinh doanh, loại hình DNNN đang tồn tại, mục đích của chủ sở hữu để tiến
hành cổ phần hoá.
+ Các vấn đề về tài chính khi tiến hành cổ phần hóa
Trước khi có thể CPH DNNN, phải xem xét các vấn đề về tài chính trong
quá trình CPH. Trước hết, phải xác định được giá trị doanh nghiệp. Trong quá
trình xác định giá trị doanh nghiệp thì phải xác định được những khoản nợ của
doanh nghiệp để từ đó và xử lý các khoản nợ để tiến hành cổ phần hoá. Nếu

11


không xử lý xong nợ, đặc biệt là những khoản nợ phải thu không có khả năng
thu hồi thì cũng khó có thể CPH được.
Với giá trị doanh nghiệp đã được xác định, thì cần phải bán cổ phần doanh
nghiệp, đó là khâu cuối cùng kết thúc quá trình CPH DNNN. Khi bán cổ phần
phải giải quyết nhiều vấn đề như: Xác định giá bán ban đầu, phương thức bán,
xử lý tiền thu về bán cổ phần,…thông qua bán cổ phần thì Nhà nước mới thu
được tiền về chuyển đổi sở hữu DNNN. Chính vì vậy, bán cổ phần có thể coi là
một vấn đề về tài chính khi tiến hành CPH DNNN.
1.1.3.3 Những điều kiện cần có để thực hiện cổ phần hoá
Chuyển hoá DNNN sang hình thức công ty cổ phần là một công việc phức
tạp, không thể thực hiện trong thời gian ngắn và để quá trình hoạt động có
hiệu quả thì phải thực sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết tạo môi trường

cho công ty cổ phần.
Một là sớm tạo ra cơ sở pháp lý và cơ sở phương pháp luận cho việc
chuyển hoá sở hữu DNNN. Đó là việc dự thảo và thông qua các văn bản luật
pháp và pháp quy, việc chủ động thực hiện và phối hợp hoạt động hệ thống các
cơ quan chức năng có liên quan. Trong tất cả những công việc đó rất cần có
một đội ngũ chuyên gia giỏi, nhạy bén, năng động với đủ trình độ nghiên cứu,
xử lý những vấn đề phát sinh ở doanh nghiệp cần chuyển hoá sở hữu cũng như
trong quá trình chuyển đổi sở hữu tiếp sau.
Hai là, phải lập xong chương trình tiến hành bao gồm những công việc
chủ yếu: nhiệm vụ cụ thể của quá trình cổ phần hoá và phân loại tài sản và
DNNN theo quy mô và xác định tỷ trọng chuyển đổi sở hữu trong chuyển đổi sở
hữu trong từng loại nhỏ, trung bình, lớn và những doanh nghiệp không chuyển
hoá sở hữu trong từng ngành, từng lĩnh vực, cải cách cơ chế quản lý ngân hàng,
trình tự tiến hành kiểm kê và định rõ nguồn hình thành giá trị của các loại tài
sản, vốn, quỹ xí nghiệp theo mức giá thị trường…
Ba là, phải có sự quyết tâm của Chính Phủ. Toàn bộ những bước đi của
quá trình chuyển hoá sở hữu các DNNN từ đặt vấn đề, đến xem xét môi trường

12


kinh doanh, những thay đổi về luật pháp, cách thức chuyển các DNNN sang cơ
chế thị trường. Không thể tiến hành nếu thiếu sự quyết tâm của chính phủ và
thái độ kiên quyết của các cơ quan có trách nhiệm.
Thứ tư là phải có sự thông hiểu và ủng hộ của quần chúng. Nếu muốn quá
trình này được thực thi một cách suôn sẻ thì trước hết phải công khai hoá nó
qua đó sẽ tạo ra sự hưởng ứng của dư luận xã hội, và xác lập một môi trường
cho việc mở rộng đầu tư trong nước.
1.2 DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CỔ
PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM

1.2.1 Khái niệm Doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành
lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao.
Như vậy, DNNN là tổ chức kinh tế được Nhà nước thành lập để thực hiện
những mục tiêu do Nhà nước giao. Và DNNN do Nhà nước đầu tư vốn nên tài
sản trong doanh nghiệp là thuộc sở hữu Nhà nước, còn doanh nghiệp chỉ quản
lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ
dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số
vốn do doanh nghiệp quản lý. Nghĩa là doanh nghiệp Nhà nước chịu trách
nhiệm hữu hạn về số nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản
do doanh nghiệp quản lý.
1.2.2 Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa là công cụ điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Vai trò chủ đạo của nó gắn liền với vai trò quản lý của Nhà nước
đối với nền kinh tế thị trường. Đây là yêu cầu có tình quy luật chung của sự phát
triển kinh tế xã hội, vì bản thân nền kinh tế chứa đựng những khuyết tật mà
muốn khắc phục nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước.
Các DNNN bao gồm những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và những
doanh nghiệp hoạt động công ích được củng cố và phát triển trong các ngành
13


và lĩnh vực then chốt, tạo cơ sở hạ tầng và tiền đề tốt cho sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Thông qua DNNN, Nhà nước tạo nguồn dự trữ đủ
mạnh để có thể can thiệp vào thị trường, thực hiện điều chỉnh các cân đối cơ
bản của nền kinh tế. DN thực hiện việc đầu tư có định hướng để khắc phục bản
chất của nền kinh tế thị trường, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh,
chống xu hướng độc quyền của tập đoàn tư nhân, đi đầu trong đổi mới công

nghệ thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo xu hướng năng suất – chất lượng –
hiệu quả.
Như vậy, vai trò chủ đạo của DNNN xuất phát từ yêu cầu khách quan của
nền kinh tế thị trường nước ta và được ghi thành chủ trương, chính sách và
pháp luật của Nhà nước. Vai trò luật định này là yếu tố quan trọng chi
phối sự điều chỉnh pháp lý đối với tổ chức và hoạt động của DNNN. Để
thực hiện được vai trò đó trước hết phải kiên quyết đổi mới hệ thống DN này.
Việc đổi mới phải được đặt trong sự phát triển tổng thế nền kinh tế quốc dân và
phải xuất xứ từ thực trạng DNNN nước ta.
1.2.3 Hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước và hạn chế
+ Khái quát về hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước
Các DNNN ở Việt Nam được hình thành từ năm 1954 ở miền Bắc, từ năm
1975 ở miền Nam và từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Từ nguồn vốn của ngân
sách Nhà nước, nguồn viện trợ hoặc đi vay hoặc là quốc hữu hoá xí nghiệp của
các nhà tư sản. Tính tới thời điểm trước đại hội Đảng lần thứ VI (1986), DNNN
đã hình thành và phát triển với một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh, ở tất cả các
lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân như hàng không, hàng hải, bưu điện,
đường sắt, nông nghiệp, lâm nghiệp, đánh cá đến các dịch vụ đơn giản. Doanh
nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và nắm các
ngành then chốt như điện khai khoáng, bưu điện viễn thông, giao thông đường
sắt, đường thuỷ..
+ Hạn chế

14


Mặc dù số vốn doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế là rất lớn, nhưng
hiệu quả kinh doanh rất thấp. Chỉ có số ít DNNN hoạt động có hiệu quả, trong
đó thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chỉ chiếm có 30%. Trên thực tế, DNNN nộp
ngân sách nhà nước chiếm 80 – 85% tổng doanh thu, nhưng nếu trừ khấu hao

cơ bản và thuế gián thu thì DNNN chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà
nước. Đặc biệt, nếu tính đủ chi phí và TSCĐ, đất tính theo giá thị trường thì các
DNNN hoàn toàn không tạo ra được tích luỹ.
DNNN tồn tại là những chủ thể quan trọng nhất trong nền kinh tế nhưng
đánh giá về trên các khía cạnh tổng quát có thể thấy thực trạng hoạt động và
quy mô của khối những DN này như sau:
Thứ nhất là vốn: quy mô vốn vẫn chưa lớn, còn nhiều doanh nghiệp hoạt
động trong một số ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần chi phối.
Thứ hai là trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu, một số DN còn sử
dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiên liệu, năng lượng cao. Nhiều tài sản cố định
của các DNNN đã lỗi thời, nhiều máy móc thiết bị đầu tư hoạt động không hiệu
quả hoặc tổng vốn đầu tư lớn dẫn đến chi phí khấu hao, chi phí lãi vay trong giá
thành sản phẩm cao. Nhiều DNNN năng suất lao động và hiệu quả hoạt động
còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế;
còn khoảng 15% số DN làm ăn thua lỗ.
Thứ ba là kết quả sản xuất kinh doanh của DNNN nói chung và Tổng công
ty Nhà nước nói riêng chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước. Tỷ lệ nợ trên
vốn của DNNN còn khá cao.
Thứ tư là các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm, nhiều
DNNN và doanh nghiệp cổ phần hoá chưa có điều kiện thay đổi cơ bản quản trị
công ty một phần do Nhà nước vẫn tiếp tục nắm giữ tỷ lệ Cổ phần lớn trong các
DN CPH. Một số Tổng công ty Nhà nước chưa phát huy được vai trò chi phối
trong ngành, lĩnh vực hoạt động. Một số công ty hoạt động còn kém hiệu quả.
1.2.4 Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Việt Nam

15


Để đổi mới và phát triển có hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước nhằm
phát huy vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường, việc Cổ phần

hoá DNNN là rất cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu tăng vốn dài hạn cho nền
kinh tế, nâng cao năng lực, hiệu quả kinh doanh, tạo thêm việc làm và thu
nhập cho người lao động. Ở nước ta, Cổ phần hoá DNNN không phải là tư
nhân hoá mà là quá trình tăng cường sức mạnh kinh tế của đất nước, làm
cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả theo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Đồng thời Cổ phần hoá cũng phải là biện
pháp và phương hướng để thực hiện công bằng xã hội.
Nghị định 109/2007/ NĐ-CP quy định rõ mục tiêu của quá trình cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước như sau:

 Chuyển đổi những doanh nghiệp Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn sang
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, huy động vốn của các nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ,
đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế.

 Đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao
động trong doanh nghiệp.

 Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường, khắc phục tình
trạng CPH khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn với phát triển thị trường
vốn, thị trường chứng khoán.
1.2.5 Động lực cho quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Động lực của quá trình cổ phần hóa có thể được xem xét từ ba góc độ: Nhà
nước, người lao động và ban lãnh đạo doanh nghiệp.
Trước hết chúng ta phải khẳng định rằng, việc CPH các DNNN là một chủ
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các DN kinh
doanh hiệu quả hơn, phù hợp với quá trình đổi mới, thực hiện mục tiêu công
nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Nhưng cũng có vấn đề đặt ra
cần quan tâm đâu là động lực để có thể tiến hành quá trình này một cách


16


nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Động lực để cổ phần hóa có thể được xem xét
từ ba góc độ: Nhà nước, Doanh nghiệp và người lao động.
Ở cấp độ vĩ mô, cổ phần hóa xuất phát từ động cơ tài chính mà cụ thể là
giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Theo số liệu thống kê, các DNNN có
hiệu quả kinh doanh thấp, nhiều doanh nghiệp kinh doanh không có lợi, nợ xấu
của các Doanh nghiệp còn lớn, khả năng thanh toán nợ còn hạn chế. Trừ
những Doanh nghiệp Nhà nước có lợi thế kinh doanh, được hưởng nhiều ưu đãi
đặc biệt là có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh thấp, còn lại nhìn chung là
thấp. Và khi hoạt động sản xuất kinh doanh có bị thua lỗ hay không hiệu quả thì
việc nhận hỗ trợ từ các cơ quan chủ quản và Nhà nước là điều hiển nhiên.
Nhưng hiện nay ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp
các DN như trước đây. Việc phát hành Cổ phiếu của Công ty Cổ phần và việc tự
do chuyển nhượng cổ phiếu góp phần làm cho tiền vốn trong xã hội được lưu
thông liên lục, thu hút vốn từ nhiều kênh lớn nhỏ đổ vào các Công ty có tỷ suất
lợi nhuận cao, vào những ngành và lĩnh vực có triển vọng, nhờ đó góp phần
điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Chính vì vậy, việc tiến hành cổ
phần hóa, để cho Doanh nghiệp có được khả năng tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước là một chủ trương hết sức
đúng đắn.
Về phía DN, DN sẽ thu hút được một lượng vốn nhất định để đầu tư vào
cho sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng, nâng cao năng lực công nghệ,
sản phẩm, cho phép tuyển chọn và tập hợp những nhà quản lý, kinh doanh giỏi
vào bộ máy quản lý của Công ty. Bên cạnh đó, ban giám đốc doanh nghiệp mới
thực sự là người quyết định cổ phần hóa chuyển đổi doanh nghiệp, khi chuyển
sang hình thức công ty cổ phần thì có được quyền tự chủ hoàn toàn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và không bị làm phiền bởi sự can thiệp có tính hành

chính và chủ quan các cơ quan Quản lý của Nhà nước. Ngoài ra, khi thực hiện
cổ phần hóa DN thì việc biến nguồn vốn của Doanh nghiệp thành nhiều phần và
với nhiều chủ sở hữu có ưu thế hơn so với việc Nhà nước là chủ sở hữu duy nhất

17


hay là chiếm đại đa số vốn của Doanh nghiệp. Tạo ra nhiều chủ sở hữu, đồng
thời với việc khi tiến hành cổ phần hóa thì có thể phát hành cổ phiếu ra bên
ngoài, niêm yết công ty trên thị trường chứng khoán, việc mua đi bán lại các
khoản vốn trên thị trường đồng thời có khả năng huy động thêm lượng vốn
mới sẽ tạo ra tính thanh khoản cho Doanh nghiệp nhằm đảm bảo hoạt động sản
xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Do vậy, CPH các DNNN được coi là một giải
pháp hiệu quả và mang tính tất yếu nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài
hạn và lâu dài cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và sản
phẩm cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế tạo ra sức bật lớn.
Về phía người lao động, lao động trong DNNN đông về số lượng nhưng
nhiều người không qua đào tạo hoặc đã qua đào tạo nhưng hạn chế về chuyên
môn nghiệp vụ, tay nghề không phù hợp với điều kiện doanh nghiệp hoạt động
theo cơ chế thị trường, nên năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm
chưa cao. Đội ngũ người quản lí doanh nghiệp, nhất là hàng ngũ Giám đốc
phần lớn chưa có đủ trình độ đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế theo cơ
chế thị trường không được đào tạo và tuyển chọn một cách chặt chẽ và có hệ
thống. Người Giám đốc cũng như cán bộ công nhân viên điều chưa có trách
nhiệm cao trong việc thục đẩy hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp mình.
Khi tiến hành cổ phần hóa, cơ chế hoạt động của công ty thay đổi thì do đó cũng
yêu cầu tư duy nhận thức của người lao động thay đổi. Trước tiên những người
lao động này sẽ được quyền mua cổ phiếu, được quyền làm chủ doanh nghiệp
do vậy mà họ sẽ có động lực hơn trong công việc, từ đó có thể giúp nâng cao
hoạt động sản xuất kinh doanh cho Doanh nghiệp.

1.3 Kinh nghiệm cổ phần hóa DNNN của Trung Quốc
1.3.1 Một số kinh nghiệm
Nghiên cứu kinh nghiệm cổ phần hóa DNNN của Trung Quốc đặc biệt
quan trọng vì sự tương đồng về hệ thống chính trị và văn hóa giữa Việt Nam và
Trung Quốc.

18


Trước hết để tiến hành CPH, Trung Quốc xác định rõ quan điểm CPH, đó là
tiến hành cổ phần hóa theo quan điểm tư tưởng của Chủ nghĩa Mác, coi CPH là
một bộ phận của nền kinh tế thị trường nhằm tạo ra cơ chế kinh doanh có hiệu
quả chứ không tìm kiếm các hình thức kinh tế khác nhau. Điều đó nhằm mở
rông, phát triển nền kinh tế thị trường và điều chỉnh lại vai trò của khu vực
kinh tế Nhà nước không còn giữ vai trò to lớn như trước nữa.
Trung Quốc đã thực hiện CPH DNNN một cách sâu rộng bằng cách xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, hệ thống các văn bản pháp quy liên
quan đến sự vận hành của DN. Lần lượt rất nhiều Luật đã được ban hành và đi
vào cuộc sống của doanh nghiệp. “Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ
sở hữu toàn dân” đã đem lại cho các doanh nghiệp nhiều quyền tự chủ hơn
trong sản xuất - kinh doanh, góp phần tháo gỡ các ràng buộc về mặt hành
chính, trả doanh nghiệp về đúng với vòng quay của thị trường. Để cụ thể hoá
“Luật Doanh nghiệp công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân”, ngày
23/7/1992, Trung Quốc đã ban hành “Điều lệ chuyển đổi cơ chế kinh doanh của
các DN công nghiệp thuộc chế độ sở hữu toàn dân” với nội dung không những
tiếp tục nâng cao quyền tự chủ cho DN, mà còn phản ánh xu thế mới trong cải
cách, đó là chuyển đổi cơ chế kinh doanh.
Các hình thức CPH bao gồm đa dạng:

 Bán một phần giá trị doanh nghiệp cho các cá nhân, tổ chức ngoài doanh

nghiệp thông qua bán cổ phiếu và cải biến DNNN thành công ty cổ phần trong
đó Nhà nước nắm cổ phần khống chế.

 Bán phần lớn giá trị tài sản của DNNN thông qua bán cổ phiếu cho mọi đối
tượng, trong đó Nhà nước là một cổ đông song không nắm cổ phần khống chế.

 Bán toàn bộ DNNN cho tư nhân để hình thành các công ty tư nhân hoặc các
công ty cổ phần.

 Giữ nguyên vốn Nhà nước và gọi thêm vốn của các cổ đông khác để chuyển
thành công ty cổ phần.

19


Trong giai đoạn 1993 – 1997, khi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 9,
Đảng cộng sản Trung Quốc xác định rõ xây dựng chế độ doanh nghiệp là nhiệm
vụ trung tâm, theo đó các xí nghiệp mới mang bốn đặc trưng:

 Quyền sở hữu tài sản rõ ràng
 Quyền lợi và trách nhiệm của mọi chủ thể rõ ràng.
 Chính quyền và xí nghiệp tách rời nhau.
 Quản lý khoa học.
Nhiều biện pháp mới liên quan đến cổ phần hóa được áp dụng như thành
lập công ty quản lý doanh nghiệp trung Ương và biến các công ty cổ phần hóa
thành công ty con của công ty quản lý; tách hoạt động quan trọng ra khỏi
DNNN và chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần; đẩy mạnh thu hút vốn
nước ngoài vào các xí nghiệp cổ phần hóa.
Năm 1997, Hội nghị Trung Ương 4 khóa XV của Đảng CS Trung Quốc đã
đưa ra những luận điểm mới về cải cách thể chế kinh tế, đồng thời đề cập đến

một số vấn đề như: Quyền tài sản doanh nghiệp, quản lý điều hành doanh
nghiệp, cổ phần hoá… Đối với các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành CPH, Chính
phủ Trung Quốc thực hiện một số biện pháp hữu hiệu như: Khuyến khích sáp
nhập tài sản, quy phạm hóa việc phá sản, thực hiện chuyển nợ thành cổ phần,
trợ giúp các DN cải tạo kỹ thuật, mở rộng quy hoạch vốn, giải quyết vấn đề thất
nghiệp cho người lao động. Đối với các DN đã CPH, Chính phủ đã tạo điều kiện
cho hưởng một số ưu đãi như: Thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp, đặc biệt
được giảm thuế trong những năm đầu hoạt động. Đối với những doanh nghiệp
sau khi CPH mà đạt thành tích cao trong sản xuất – kinh doanh, thì sẽ được
tạo điều kiện thuận lợi tham gia vào thị trường chứng khoán, được hưởng ưu
đãi về tài chính như dành 10% cổ phần doanh nghiệp để thưởng bằng cổ phiếu
cho các cán bộ lãnh đạo và CNVC của doanh nghiệp v.v…
Có thể nói, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ phần ở Trung
Quốc là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, Nhà nước luôn giữ
vai trò độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản
20


trong nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản trị doanh nghiệp. Đây là lợi
ích căn bản và lâu dài nhất của việc cổ phần hóa các DNNN ở Trung Quốc.
Thành quả nổi bật nhất là đến Hội nghị TW 3 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung
Quốc (năm 2004), chế độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là hình thức thực
hiện chủ yếu của chế độ công hữu”.
Chương trình cổ phần hoá của Trung Quốc còn có một ưu điểm khác: “các
cổ đông bên ngoài có vai trò tích cực đáng kể trong việc điều hành doanh
nghiệp. Nhóm cổ đông này thường có khuynh hướng tiết chế vai trò chi phối
truyền thống của Đảng và công đoàn”. Ngoài ra, định chế tài chính quan trọng
hỗ trợ cho sự thành công của Chương trình cổ phần hoá là thị trường chứng
khoán tại Trung Quốc cũng đã phát triển sớm hơn và hiện nay chiếm không nhỏ
trong tổng sản lượng quốc gia.

1.3.2 Bài học kinh nghiệm từ cổ phần hóa ở Trung Quốc
Xây dựng và quán triệt một quan niệm, một mục tiêu đúng đắn về cổ phần
hóa, phù hợp với bản chất của chế độ xã hội: chuyển doanh nghiệp Nhà nước
thành công ty cổ phần là để thu hút vốn từ bên ngoài vào, khuyến khích sự phát
triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
Kinh nghiệm về quản lý tài sản Nhà nước, nội dung của cổ phần hóa là
điều chỉnh mối quan hệ về quyền tài sản đối với tài sản Nhà nước, Trung Quốc
đã tạo ra được một hệ thống các nhà chức trách và giám sát kinh doanh tài sản
Nhà nước. Thành lập cơ quan đánh giá tài sản Nhà nước mang tính chuyên
nghiệp và có quyền lực là điều cần thiết.
Cần phải đa dạng hóa hình thức cổ phần hóa để cho khối DNNN có thể lựa
chọn hình thức phù hợp nhất với mình điều đó cũng đẩy nhanh tiến trình cổ phần
hóa.
Chính phủ Trung Quốc chú trọng đến giải pháp kích cầu và tạo cơ sở ban
đầu cho việc hình thành thị trường vốn trong nước. Bên cạnh việc mở rộng đối
tượng bán để các công dân có thể tham gia chương trình cổ phần hóa, chính
phủ còn có biện pháp hỗ trợ vốn ban đầu cho người lao động trong doanh

21


nghiệp, có các chính sách lãi suất, chính sách tài chính đúng, mở rộng thị
trường mua, kể cả việc bán cho người nước ngoài và chuyển nợ thành vốn đầu
tư. Thêm vào đó là biện pháp bảo đảm quyền lợi của người bỏ vốn, đảm bảo
dòng vốn bỏ vào sinh lời. Cải cách CPH DNNN cần phối hợp với cải cách thể chế
tài chính tiền tệ, sự phát triển của thị trường tài chính và giao dịch chứng
khoán để tạo động lực cho CPH.

22



CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
2.1. CÁC GIAI ĐOẠN CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT
NAM
2.1.1 Giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (Giai đoạn 1992 – giữa 1996) theo
Quyết định 202-CT.
Chủ trương CPH DNNN đã được chính phủ nêu ra trong quyết định
217/HĐBT ngày 14/11/1987 ở điều 22: “Bộ tài chính nghiên cứu và cho tổ
chức làm thử việc mua bán Cổ phần ở một số xí nghiệp và báo cáo kết quả lên
Chính phủ vào cuối năm 1988”. Tuy nhiên, điều kiện cụ thể lúc bấy giờ vẫn còn
là chế độ bao cấp đối với các Doanh nghiệp Nhà nước nên việc thực hiện cổ
phần hóa các Doanh nghiệp này không thành công.
Đến năm 1990, Chính phủ ra quyết định 143/HĐBT trong đó có nội dung:
“Nghiên cứu và làm thử việc chuyển xí nghiệp quốc doanh thành công ty cổ
phần”. Lúc đó lại chưa có luật công ty và sự thiếu thống nhất về quan điểm nên
quyết định này cũng không thể thực hiện được.
Các nghị quyết hội nghị Trung Ương 2 khóa VII, Nghị quyết 10 của Bộ chính
trị, Thông báo số 63 TB/TW của Bộ chính trị, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nghị quyết kỳ họp thứ 10 quốc hội khóa VII ngày 26/12/1991,
Nghị quyết kì họp thứ 6 Quốc hội khóa IX tháng 12/1993 đều chủ trương:

 Thực hiện từng bước vững chắc việc cổ phần hóa một bộ phận DN mà Nhà
nước không cần giữ 100% vốn nhằm ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm
ăn có hiệu quả.

 Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng
phạm vi thích hợp. Cần thực hiện các hình thức cổ phần hóa có mức độ thích
hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó sở hữu Nhà nước

chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối.
23


Tùy tính chất, loại hình DN mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho công
nhân, viên chức làm việc tại DN để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy
phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài doanh nghiệp để thu
hút thêm vốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
Phải tới năm 1992, sau khi Đại hội Đảng lần thứ VII nhận định kinh doanh
đang nắm các vị trí then chốt, nhưng điểm yếu của kinh tế quốc doanh là hoạt
động nhìn chung còn thấp nên Đại hội đề ra nhiệm vụ khẩn trương sắp xếp và
đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh.
Do vậy, vấn đề cổ phần hóa được chú ý một cách đầy đủ và rõ ràng bằng
quyết định 202/HĐBT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng
chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh
nghiệp Nhà nước thành công ty Cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng
Chính phủ ban hành tiếp chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ
phần hóa DNNN và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với DNNN.
Quyết định số 202/CP đã chọn 7 DNNN làm thí điểm, đồng thời giao nhiệm
vụ cho mỗi Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuốc TW chọn từ 1 tới 2
doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và chỉ thị số 84/TTg
(1992 – 1996) cả nước chỉ cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 doanh
nghiệp Trung Ương và 2 doanh nghiệp địa phương. Đó là:

 Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT – ngày thực hiện Cổ phần
hóa là 1/7/1993.

 Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND TP Hồ Chí Minh – ngày 1/10/1994.
 Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An.

 Công ty giày Hiệp An
 Công ty chế biến thức ăn gia súc
Đã có hơn 30 DN đã đăng ký với Bộ tài chính để thí điểm thực hiện cổ
phần hóa và 3 DN xin chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn nhưng kết

24


quả không đáng khả quan, tuy số lượng các DNNN chuyển thành công ty cổ
phần còn ít song giai đoạn thí điểm đem lại một số kết quả đáng lưu ý:

 Quá trình thí điểm cổ phần hóa đã huy động được một lượng vốn quan trọng
trong nhân dân. Qua bán cổ phiếu, Nhà nước đã thu được 14.165 tỷ đồng tiền
mặt nộp vào ngân sách. Đây là số vốn quan trọng làm tăng tài sản thuộc sở hữu
Nhà nước để đầu tư vào chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống DNNN.

 Tại các DN đã cổ phần hóa, 100% cán bộ công nhân viên tham gia mua cổ
phiếu. Khi người lao động có vốn trong công ty, lợi ích của họ gắn với lợi ích
công ty vì vậy họ làm việc với trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình; mặt khác
họ cũng yêu cầu hội đồng quản trị và giám đốc điều hành chỉ đạo và tổ chức để
công ty hoạt động có hiệu quả.

 Hiệu quả hoạt động của các công ty này tăng lên rõ rệt. Các chỉ tiêu kinh tế như
doanh thu tăng bình quân 56,9%/năm, lợi nhuận tăng 70,2%; nộp ngân sách
tăng 89%/năm; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 14,10%.

 Vốn của các DN này tăng lên đáng kể. Tính bình quân vốn của các DN mỗi năm
tăng 45%.


 Người lao động trong các doanh nghiệp này tăng 46,8%, thu nhập của người
lao động tăng 20%/năm.

 Nhà nước vẫn giữ được vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nhờ duy trì tỷ lệ cổ phiếu
chi phối, giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung các điều lệ hoạt
động phù hợp với quy định của Nhà nước.
Bảng 2.1: Tình hình Vốn và cấu trúc sở hữu của 5 doanh nghiệp nhà
nước.
Vốn (tỉ VND)
Tên DN
Công ty Đại lý liên hiệp vận
chuyển
Công ty Cơ điện lạnh.
Công ty giày Hiệp An

6,200
16,000
4,793

25

Cấu trúc sở hữu (%).
Nhà nước Người lao NDT bên
động
ngoài.
18.0
77.0
5.0
30.0
30.0


50.0
35.2

20.0
34.8


×