Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

Giải pháp quản lý thuế tài nguyên tai cục thuế tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.29 KB, 143 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho
việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Huế, ngày 29 tháng 2 năm 2016
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ THỦY

i


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ tận tình và quý báu từ thầy hướng dẫn khoa học, cơ quan công tác, sở
ban ngành trong tỉnh Thanh Hóa, doanh nghiệp, đồng nghiệp, bạn bè và người thân.
Nhân đây, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến:
PGS.TS Hoàng Hữu Hòa - người hướng dẫn khoa học- đã dành nhiều thời
gian quý báu để chỉ dẫn về đề tài và định hướng phương pháp nghiên cứu trong thời
gian tôi tiến hành thực hiện luận văn.
Phòng Thanh tra thuế số 1 - Cục thuế tỉnh Thanh Hóa, các các cơ quan, ban
ngành, các doanh nghiệp nộp thuế tài nguyên, các đồng nghiệp là CBCC thuế đã tạo
điều kiện thuận lợi, nhiệt tình cộng tác giúp tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, khuyến
khích tinh thần lẫn vật chất cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Xin gửi lời chúc sức khỏe và chân thành cảm ơn!
Huế, ngày 29 tháng 2 năm 2016
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ THỦY


ii


TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
Họ và tên học viên: NGUYỄN THỊ THỦY
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh;
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HOÀNG HỮU HÒA
Tên đề tài: Giải pháp quản lý thuế tài nguyên tai cục thuế tỉnh Thanh Hóa
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, hệ thống quản lý thuế luôn được Đảng, Nhà nước quan
tâm xây dựng và kiện toàn. Hệ thống chính sách, pháp luật về thuế được sửa đổi, bổ
sung để phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước và thế giới. Số thu từ thuế,
phí - lệ phí trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, số thu năm sau
luôn cao hơn năm trước. Trong số các nguồn thu chiếm tỷ lệ cao về thu ngân sách
có nguồn thu về thuế tài nguyên. Để quản lý tốt hơn công tác thu thuế tài nguyên tại
các cục thuế nói chung và cục thuế tỉnh Thanh Hóa nói riêng cần có những giải
pháp hữu hiệu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tình hình và các giải pháp hoàn thiện
quản lý của Cục thuế đối với công tác quản lý thu thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa là nhu cầu cấp thiết.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp được sử dụng để thu thập và đánh
giá một số hoạt động liên quan đến tình hình hay công tác quản lý thuế tài nguyên tại
cục thuế tỉnh Thanh Hóa. Phương pháp nghiên cứu tài liệu sơ cấp chủ yếu phục vụ
cho phân tích định lượng được sử dụng thông qua khảo sát các đối tượng là CBCC
thuế và các DN nộp thuế tài nguyên bằng bảng hỏi đã thiết kế dựa trên kết quả nghiên
cứu định tính. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số công cụ thống kê trong SPSS để
xử lí số liệu điều tra.
3. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp của luận văn
Quản lý thuế nói chung và quản lý thuế tài nguyên nói riêng là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhằm đóng góp rất lớn vào hiệu quả thu ngân sách của

nhà nước và của cục thuế.
Kết quả khảo sát 120 CBCC thuế và 150 DN cho thấy đều có 5 nhân tố ảnh
hưởng đến công tác quản lý thuế tài nguyên theo quản điểm của CBCC thuế lẫn DN.
Trong đó nhân tố 1) Công tác quản lý nợ thuế; (2) Công tác kiểm tra, kiểm soát của cơ
quan thuế là 2 nhân tố tác động mạnh nhất theo quan điểm của CBCC thuế; và (1)
Công tác kê khai và nộp thuế; (2) Công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT là hai nhân tố
tác động mạnh nhất theo quan điểm của DN nộp thuế. Ngoài ra nghiên cứu cũng tiến
hành đánh giá chi tiết các câu hỏi trong từng nhân tố theo cả quan điểm của CBCC
thuế và DN nộp thuế.

iii


CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
CBCC

CQT
ĐTNT
GTGT

NDT
NNT
NSNN

QLN & CCNT
SXKD
TNHH
TTĐB
XHCN
XNK


:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Cán bộ công chức
Cơ quan thuế
Đối tượng nộp thuế
Giá trị gia tăng
Nhân dân tệ
Người nộp thuế
Ngân sách nhà nước
Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế
Sản xuất kinh doanh
Trách nhiệm hữu hạn
Tiêu thụ đặc biệt
Xã hội chủ nghĩa
Xuất nhập khẩu

iv



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Đội ngũ cán bộ công chức của Cục thuế tỉnh Thanh Hoá...................................44
Bảng 2.2: Các loại hình doanh nghiệp đăng ký thuế ở Cục thuế Thanh Hóa......................45
giai đoạn 2012 – 2014..........................................................................................................46
Bảng 2.3. Tình hình thực hiện dự toán thuế tài nguyên đối với các DN ở Cục thuế tỉnh
Thanh Hóa giai đoạn 2012-2014..........................................................................................47
Bảng 2.4. Tình hình nợ thuế tài nguyên của các DN ở Cục thuế Thanh Hóa giai đoạn 20122014......................................................................................................................................49
Bảng 2.5. Tình hình kiểm tra hoàn thuế tài nguyên ở cục thuế Thanh Hóa giai đoạn 20122014......................................................................................................................................55
Bảng 2.6: Thông tin chung về doanh nghiệp được khảo sát................................................57
Bảng 2.7: Phân tích độ tin cậy thông tin đánh giá của CBCC.............................................58
Bảng 2.8: Kiểm định hệ số KMO.........................................................................................59
Bảng 2.9: Phân tích nhân tố khám phá EFA phần đánh giá của CBCC..............................59
Bảng 2.10: Hệ số hồi quy của mô hình................................................................................62
Bảng 2.11: Kết quả phân tích hồi quy..................................................................................62
Bảng 2.12: Đánh giá của các cán bộ thuế............................................................................64
về công tác quản lý kê khai thuế..........................................................................................64
Bảng 2.13: Đánh giá của các cán bộ thuế về công tác quản lý nợ thuế...............................65
Bảng 2.14: Đánh giá của các cán bộ thuế về........................................................................66
công tác kiểm tra kiểm soát việc nộp thuế của cơ quan thuế...............................................66
Bảng 2.15: Đánh giá của các cán bộ thuế............................................................................67
về công tác tổ chức quản lý thuế tại Cục thuế......................................................................67
Bảng 2.16: Đánh giá của các cán bộ thuế............................................................................68
về công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế..............................................................68
Bảng 2.17: Thông tin chung về doanh nghiệp được khảo sát..............................................69
Bảng 2.18: Phân tích độ tin cậy thông tin đánh giá của DN................................................70

Bảng 2.19: Kiểm định KMO thông tin khảo sát DN............................................................71
Bảng 2.20: Kết quả phân tích nhân tố khám phá EFA thông tin đánh giá của DN..............71
Bảng 2.21: Hệ số hồi quy của mô hình................................................................................75

v


Bảng 2.22: Kết quả phân tích hồi quy..................................................................................75
Bảng 2.23: Đánh giá của các Doanh nghiệp........................................................................76
về Công tác tuyên truyền và hỗ trợ NNT.............................................................................76
Bảng 2.24: Đánh giá của các Doanh nghiệp........................................................................78
về Công tác kê khai và nộp thuế tại cục thuế.......................................................................78
Bảng 2.25: Đánh giá của các Doanh nghiệp........................................................................78
về Công tác kiểm tra, kiểm soát việc nộp thuế của NNT.....................................................78
Bảng 2.26: Đánh giá của các Doanh nghiệp........................................................................79
về Công tác tổ chức quản lý thuế tại cục thuế.....................................................................79
Bảng 2.27: Đánh giá của các Doanh nghiệp........................................................................81
về Công tác quản lý nợ thuế tại cục thuế.............................................................................81

vi


MỤC LỤC
Đối tượng đăng ký thuế là tất cả tổ chức, cá nhân có tổ chức kinh doanh và sản xuất hàng
hoá. Mỗi một người nộp thuế đều được cấp một mã số thuế duy nhất để nhận biết, xác định
từng người nộp thuế và được quản lý thống nhất trên phạm vi toàn quốc...........................45
14. Lê Thị Thanh Hà (Chủ biên) (2007), Giáo trình thuế, Nhà xuất bản thống kê............105
17. Trần Trọng Khoái (2009), Giáo trình thuế nhà nước, Trường Đại học kinh doanh và
Công Nghệ Hà Nội.............................................................................................................106
18. Nguyễn Thị Liên (Chủ biên) và Nguyễn Văn Hiệu (2008), Giáo trình nghiệp vụ thuế,

Nhà xuất bản tài chính........................................................................................................106
19. Nguyễn Thị Liên và Nguyễn Văn Hiệu (2007), Giáo trình thuế, Nxb tài chính..........106
20. Nguyễn Văn Ninh (2007), Nợ thuế là thước đo năng lực quản lý thuế, Tạp chí thuế Nhà
nước, 158 (40), tr 4-5.........................................................................................................106

PHỤ LỤC

vii


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, hệ thống quản lý thuế luôn được Đảng, Nhà nước quan
tâm xây dựng và kiện toàn. Hệ thống chính sách, pháp luật về thuế được sửa đổi, bổ
sung để phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước và thế giới. Số thu từ thuế,
phí - lệ phí trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, số thu năm sau
luôn cao hơn năm trước. Trong số các nguồn thu chiếm tỷ lệ cao về thu ngân sách
có nguồn thu về thuế tài nguyên.
Thuế tài nguyên là một sắc thuế chuyên biệt trong hệ thống thuế. Thuế tài
nguyên là khoản thu bắt buộc đối với mọi tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên
thiên nhiên, không phụ thuộc vào cách thức cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh
của người khai thác và là một khoản chi phí được tính vào giá thành sản phẩm như
một loại thuế gián thu.
Thuế tài nguyên nhằm đảm bảo cho NSNN có nguồn thu để thực hiện các
biện pháp bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm, thăm dò các nguồn tài nguyên thiên nhiên của
đất nước. Ở nước ta, số thu về loại thuế này chiếm tỷ trọng từ 5 - 9% trong tổng số
thu về thuế hàng năm của Ngân sách nhà nước.
Thuế tài nguyên còn góp phần khuyến khích việc khai thác và sử dụng tài
nguyên thiên nhiên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, hướng dẫn sử dụng tài nguyên có
lợi cho nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, thuế tài nguyên góp phần phản ánh đúng

chi phí trong hạch toán kinh doanh, góp phần đảm bảo tính công bằng giữa các đơn
vị có khai thác, sử dụng tài nguyên với các đơn vị sản xuất kinh doanh khác trong
nền kinh tế. Thuế tài nguyên đòi hỏi Nhà nước có những biện pháp thực thi, quản lý
thu thuế đặc thù.
Thực tế tình hình quản lý thu thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói
chung và tại Cục thuế Thanh Hóa nói riêng trong những năm qua cho thấy đã đạt
được kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, công tác quản lý thu thuế tài nguyên trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa còn một số bất cập: chế độ chính sách thu thuế tài nguyên có một
số điểm chưa phù hợp với xu thế phát triển; sự phối hợp giữa chính quyền địa
phương và các ngành chức năng với cơ quan thuế còn hạn chế; một số tổ chức, cá

1


nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép khai thác tài nguyên thiên
nhiên nhưng chưa thực hiện hoặc đã thực hiện kê khai, nộp thuế tài nguyên với cơ
quan thuế nhưng chưa kịp thời, đầy đủ, chính xác đúng theo qui định gây thất thu
NSNN. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tình hình và các giải pháp hoàn thiện quản lý
của Cục thuế đối với công tác quản lý thu thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa là nhu cầu cấp thiết. Xuất phát từ đó giả chọn đề tài “Giải pháp quản lý thuế tài
nguyên tai cục thuế tỉnh Thanh Hóa” làm luận văn thạc sỹ kinh tế của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thuế tài nguyên đề xuất các
giải pháp góp phần hoàn thiện công tác quản lý thuế tài nguyên ở Cục thuế Thanh
Hóa.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá và góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
công tác quản lý thuế tài nguyên.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế tài nguyên tại Cục thuế

tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác quản lý thuế tài
nguyên tại Cục thuế tỉnh Thanh Hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề liên quan đến quản lý thuế tài nguyên
ở Cục thuế cấp tỉnh.
- Đối tượng khảo sát: Cán bộ, nhân viên của Cục thuế Thanh Hóa và các đối
tượng nộp thuế tài nguyên trên địa bàn nghiên cứu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu được thực hiện tại Cục thuế tỉnh
Thanh Hóa.
- Phạm vị thời gian: Phân tích, đánh giá thực trạng giai đoạn 2012-2014; điều
tra số liệu sơ cấp năm 2015; đề xuất giải pháp đến năm 2010.

2


4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Số liệu thứ cấp cần thiết phục vụ cho đề tài được thu thập từ các nguồn: Cục
thống kê tỉnh Thanh Hóa, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thanh Hóa, Cục thuế
tỉnh Thanh Hóa, báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm của tỉnh Thanh Hóa… Ngoài ra,
luận văn còn sử dụng số liệu của các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác
giả về lĩnh vực mà đề tài quan tâm.
- Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phiếu điều tra, khảo sát theo mẫu
chuẩn bị sẵn. Phiếu điều tra được thực hiện dựa trên số lượng doanh nghiệp có khai
thác, thu mua tài nguyên tại Cục thuế tỉnh Thanh Hóa nhằm khảo sát sự hài lòng
của doanh nghiệp về chính sách thuế và công tác quản lý thuế tài nguyên, ngoài ra,
luận văn còn khảo sát đánh giá của cán bộ công chức thuế về các nội dung liên quan

đến nội dung nghiên cứu. Cụ thể như sau:
+ Quy mô mẫu: theo kinh nghiệm của một số nhà nghiên cứu trên thế giới và
Việt Nam thì có thể sử dụng công thức sau để ước lượng số mẫu phù hợp cho
nghiên cứu định lượng với việc sử dụng một số công cụ nghiên cứu phức tạp như:
phân tích nhân tố khám phá và phân tích hồi quy:
Công thức: n = k.5 + 10%.(k.5)
Trong đó:
n : Số mẫu
k: số biến
Đối với khảo sát của cán bộ: n = 22*5 + 10%*22*5 = 121 phiếu. Do đó cỡ
mẫu ở trong nghiên cứu này có thể sử dụng là 120 cán bộ.
Đối với khảo sát của người nộp thuế: n = 27*5+10%*27*5 = 148,5 phiếu.
Do đó cỡ mẫu trong nghiên cứu này có thể sử dụng là 150 người nộp thuế.
+ Phương pháp chọn mẫu: chọn ngẫu nhiên 150 doanh nghiệp nộp thuế tài
nguyên và 120 cán bộ công chức (CBCC) thuế để tiến hành điều tra.
+ Thiết kế bảng hỏi: bảng hỏi được thiết kế dựa trên phương pháp nghiên
cứu định tính và định lượng sơ bộ. Cụ thể đầu tiên tác giả dựa vào cơ sở lý thuyết
về quản lý thuế tài nguyên để phác thảo sơ bộ các yếu tố liên quan đến công tác

3


quản lý thuế tài nguyên tại cục thuế, tiếp đến là tiến hành thảo luận với 5 lãnh đạo
của cục thuế và 5 đại diện từ phía doanh nghiệp có nộp thuế tài nguyên; tiếp đến là
điều tra thử nghiệm với cỡ mẫu nhỏ để xem thử cán bộ, nhân viên và người nộp
thuế có phản ứng như thế nào đối với bảng hỏi sơ bộ đã được thiết kế; cuối cùng
sau khi điều tra thử nghiệm sẽ tiến hành điều chỉnh một số câu hỏi hoặc ngôn từ của
câu hỏi để đảm bảo phù hợp với mức độ hiểu biết của cán bộ cục thuế đối với phiếu
khảo sát cán bộ và người nộp thuế đối với phiếu khảo sát doanh nghiệp nộp thuế.
Bảng hỏi hoàn thiện được khảo sát chính thức với 120 cán bộ cục thuế và 150

doanh nghiệp có quan hệ nộp thuế tài nguyên tại cục thuế.
4.2. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tổ để tổng hợp số liệu và hệ thống hóa
tài liệu điều tra theo các hình thức khác nhau đáp ứng mục đích nghiên cứu của đề tài.
Số liệu điều tra được xử lý, tính toán trên máy tính theo các phần mềm thống
kê thông dụng như: Micrsoft Excel, SPSS.
4.3. Phương pháp phân tích
Vận dụng các phương pháp phân tích thống kê kinh tế, thống kê mô tả số liệu
điều tra, phương pháp kiểm định thống kê như kiểm định hệ số tin cậy Cronbach’s
Alpha, phân tích nhân tố khám phá và phân tích hồi quy… với sự hỗ trợ của phần
mềm SPSS.
4.4. Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình xây dựng hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá mức độ hài lòng về
chính sách thuế và công tác quản lý thuế tài nguyện tại cục thuế tỉnh Thanh Hóa tác
giả còn sử dụng phương pháp chuyên gia.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, nội dung nghiên cứu của luận văn
gồm ba chương :
Chương 1: Tổng quan lý luận và thực tiễn về quản lý thuế tài nguyên;
Chương 2: Thực trạng quản lý thuế tài nguyên tại Cục thuế tỉnh Thanh Hóa;
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế tài
nguyên tại Cục thuế tỉnh Thanh Hóa

4


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN LÝ LUẬN THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ
THUẾ TÀI NGUYÊN
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ VÀ THUẾ TÀI NGUYÊN

1.1.1. Khái quát về thuế
1.1.1.1. Khái niệm
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là
một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước.
Thuế xuất hiện từ khá lâu, từ lúc nhà nước bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên khoa học về
thuế chỉ ra đời vào cuối thời kỳ phong kiến, đầu thời kỳ chủ nghĩa tư bản. Các lý
thuyết về thuế được xây dựng trên các học thuyết kinh tế dựa trên cơ sở một nền
kinh tế thị trường [32].
Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới vẫn
chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế, bởi lẽ giác độ nghiên cứu có nhiều
khác biệt. Nhìn chung, các nhà kinh tế khi đưa ra khái niệm về thuế mới chỉ nhìn
nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế mà mình muốn khai thác hoặc tìm
hiểu, chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế.
Theo các nhà kinh điển, thuế được quan niệm rất đơn giản: “…Thuế là cái mà
nhà nước thu của dân nhưng không bù lại” và “ Thuế cấu thành nên nguồn thu của
Chính phủ, nó được lấy ra từ sản phẩm của đất đai và lao động trong nước, xét cho
cùng thuế được lấy ra từ tư bản hay thu nhập của người chịu thuế” [17].
Hai tác giả người Anh (Christopher Pass và Baryan Lower) lại cho rằng: Thuế
là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của
các cá nhân hay doanh nghiệp (Thuế trực thu), trên việc chi tiêu vốn nhận được của
cá nhân hay doanh nghiệp (Thuế trực thu), trên việc chi tiêu về hàng hoá, dịch vụ
(Thuế gián thu) và trên tài sản [17].
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta cho rằng: Thuế là hình thức phân
phối và phân phối lại tổng sản phẩm trong nước và thu nhập quốc dân hình thành

5


nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu,
cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.

Dưới góc độ người nộp thuế, Thuế là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ
chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng
nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước; người
đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại.
Về góc độ kinh tế học, Thuế là biện pháp đặc biệt, theo đó, nhà nước sử dụng
quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công
nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của nhà nước.
Trên góc độ pháp luật, Thuế là một khoản thu nhập được chuyển giao bắt
buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước, do pháp luật quy định, nhằm
phục vụ mục đích công.
Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác nhau,
nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn đang được
áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường, điển hình là khái niệm về
thuế của Gaston Jèze đưa ra trong Giáo trình Tài chính công. Dựa vào định nghĩa
này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về thuế phù hợp
với giai đoạn hiện nay như sau: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể
nhân và pháp nhân cho nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy
định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
1.1.1.2. Đặc điểm của thuế
Để làm rõ hơn bản chất của thuế cần tìm hiểu những đặc điểm của thuế:
Thứ nhất, tính cưỡng chế và tính pháp lý cao.
Thuế là một khoản động viên bắt buộc gắn với quyền lực nhà nước - qua hệ
thống pháp luật thuế của nhà nước, là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế để phân biệt
giữa thuế với các hình thức động viên tài chính khác của NSNN như phí, lệ phí và
các vay mượn của Chính phủ như công trái, trái phiếu chính phủ… Nhà kinh tế học
nổi tiếng Joseph E. Stiglitz cho rằng: “Thuế khác với đa số những khoản chuyển giao
từ người này sang người kia: Trong khi tất cả những khoản chuyển giao đó là tự
nguyện thì thuế là bắt buộc”. Đồng thời, thuế là công cụ có tính pháp lý cao và được

6



quyết định bởi quyền lực chính trị của nhà nước. Vì vậy, trong luật thuế phải quy
định rõ những thủ tục cần thiết như quy định phạm vi, hình thức và các thủ tục, quy
trình pháp lý liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế như: phạm vi, đối tượng điều chỉnh,
mức thuế phải nộp, thời hạn và các chế tài mang tính cưỡng chế [14, 17, 18, 19].
Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng thuế là biện pháp tài chính bắt buộc của
nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên nền tảng của các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới.
Thứ hai, thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp.
Nhà nước thu thuế từ cá nhân và các tổ chức kinh tế nhưng không phải hoàn
trả trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng thời gian với một khoản tiền mà họ
đã nộp vào NSNN. Số tiền thuế thu được nhà nước sử dụng cho các chi tiêu công
cộng, phục vụ cho nhu cầu của nhà nước và của mọi cá nhân trong xã hội. Mọi cá
nhân, người nộp thuế cho nhà nước cũng như người không nộp thuế, người nộp
nhiều cũng như người nộp ít, đều bình đẳng trong việc nhận được các phúc lợi công
cộng từ phía nhà nước. Số thuế mà các đối tượng phải nộp cho nhà nước, được tính
toán không dựa trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà dựa trên kết quả
hoạt động cụ thể và thu nhập của họ [14, 17, 18, 19]
1.1.1.3. Chức năng của thuế
Khi đề cập đến chức năng của thuế là nói đến công dụng của thuế đối với đời
sống kinh tế - xã hội. Bởi vì, thuế không những là phạm trù kinh tế mà còn là phạm
trù tài chính. Do đó, thuế không chỉ mang những thuộc tính của quan hệ tài chính
mà còn biểu hiện những đặc trưng, hình thức vận động bắt nguồn từ các mối quan
hệ tài chính. Vì vậy, khi nhìn nhận về chức năng của thuế cũng có nhiều ý kiến khác
nhau. Có ý kiến cho rằng thuế có 2 chức năng là phân phối và kiểm tra, giám đốc;
cũng có ý kiến cho rằng thuế có 4 chức năng là tạo lập nguồn thu cho NSNN, điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, điều hoà thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng. Như vậy, về số
lượng các chức năng cũng khác nhau, nhưng chúng không mâu thuẫn với nhau mà
đó chỉ là sự phân chia cụ thể các chức năng của thuế theo mục đích sử dụng. Vì vậy,

chức năng bao trùm nhất của thuế đó là chức năng phân phối và phân phối lại và
chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của thuế [14, 17, 18, 19].

7


a. Chức năng phân phối và phân phối lại
Đây là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế, thông qua chức năng phân phối và
phân phối lại các quỹ bằng tiền của nhà nước được hình thành, tạo cơ sở vật chất
cho sự tồn tại và duy trì sự hoạt động của nhà nước. Chính chức năng phân phối và
phân phối lại của thuế là công cụ để nhà nước phân phối và phân phối lại các nguồn
lực tài chính một cách có hiệu quả. Chức năng này ngày càng có vị trí quan trọng
trong sự can thiệp của nhà nước vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác,
thông qua chức năng này giúp cho nhà nước ngày càng có thêm nguồn thu nhập,
quy mô NSNN có thể mở rộng, tạo tiền đề mở rộng các chức năng của nhà nước.
Thông qua chức năng phân phối và phân phối lại thuế là công cụ điều hoà thu
nhập, thực hiện công bằng xã hội. Thông qua công cụ thuế nhà nước điều hoà một
phần thu nhập của các tổ chức và cá nhân trực tiếp bằng thuế trực thu và gián tiếp
thông qua thuế gián thu. Đây là tiền đề khách quan vô cùng cần thiết cho sự can
thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế và tạo điều kiện cho sự ra đời và phát
huy chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của thuế.
b. Chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của thuế
Với chức năng này, thuế góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu
thông hàng hoá, nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp và của nền
kinh tế. Đồng thời, góp phần thực hiện công bằng xã hội giữa các thành phần kinh
tế và các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, quan hệ cung - cầu, cơ cấu
đầu tư. Thuế thuộc khâu phân phối nên có tác động đến sản xuất, lưu thông và tiêu
dùng. Thông qua mức điều tiết của thuế sẽ làm thay đổi mối quan hệ cung - cầu trên
thị trường, tác động mạnh mẽ đến quá trình phân bổ các nguồn lực xã hội vào hoạt

động SXKD. Chính sách thuế phù hợp sẽ góp phần hiệu quả trong việc giải phóng
mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế để phát triển lực lượng sản xuất, xây
dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Thuế đã tham gia điều chỉnh quá trình phân phối các
yếu tố đầu vào của hoạt động SXKD, góp phần điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Nhà nước ban hành các sắc thuế để đánh vào các loại hàng hoá khác nhau,
thuế TTĐB đánh vào những mặt hàng xa xỉ nhằm định hướng sản xuất và tiêu dùng

8


trong xã hội. Nhà nước áp dụng chính sách thuế ưu đãi đối với danh mục hàng hoá
cần khuyến khích phát triển sản xuất, những vùng đặc biệt khó khăn như miền núi,
hải đảo, những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nhằm mục đích phát triển kinh
tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng của nhà nước. Trong lĩnh vực
thương mại quốc tế nhà nước sử dụng công cụ thuế như một phương tiện hữu hiệu
để điều tiết hoạt động kinh doanh XNK theo định hướng phát triển kinh tế xã hội.
Chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của thuế đã góp phần bảo đảm ổn định nền
kinh tế góp phần kiềm chế lạm phát và kiểm soát nạn thất nghiệp. Trong trường hợp
nền kinh tế phát triển quá nhanh, mất cân đối về cơ cấu hoặc nền kinh tế rơi vào
tình trạng khủng hoảng, suy thoái thì nhà nước sử dụng tổng hợp các biện pháp để
bình ổn nền kinh tế; trong các công cụ đó thì thuế là một trong những công cụ hữu
hiệu nhất. Vì vậy, chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng trong việc
định hướng nền kinh tế, phù hợp với lợi ích xã hội, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển nền kinh tế theo định hướng của nhà nước.
Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế không thể tách khỏi chức năng
phân phối và phân phối lại, chúng có sự quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Khi nhà
nước sử dụng công cụ thuế để tập trung một bộ phận GDP vào NSNN thì nhà nước
sử dụng công cụ thuế tác động đến các các yếu tố của quá trình sản xuất, lúc này
chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện và ngược lại những thay đổi của
nền kinh tế do tác động của chính sách thuế đều tác động trở lại đến thu NSNN

thông qua chức năng phân phối và phân phối lại.
Qua nghiên cứu lý luận cơ bản về thuế, đặc biệt là những tác động thông qua
các chức năng vốn có của thuế đối với nền kinh tế là cơ sở và nền tảng lý luận để đi
sâu nghiên cứu một hoặc một nhóm các sắc thuế cụ thể trong hệ thống thuế.
1.1.1.4. Phân loại thuế
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác nghiên cứu, quản lý, phân tích, đánh
giá tính hiệu lực của thuế và tổ chức thu thuế hiệu quả cần thiết phải phân loại thuế.
Việc phân loại thuế được thực hiện theo nhiều tiêu thức khác nhau [14, 17, 18, 19]
a. Phân loại thuế theo đối tượng nộp thuế
Theo đối tượng nộp thuế, các sắc thuế được chia thành 2 nhóm là thuế gián thu
và thuế trực thu.

9


- Thuế gián thu là loại thuế gián tiếp thu từ người tiêu dùng được ấn định dưới
hình thức một khoản phụ thu thêm trong giá của hàng hóa, dịch vụ luân chuyển trên thị
trường. Thuế gián thu là một yếu tố cấu thành giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ tiêu
thụ. Đối với thuế gián thu người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất. Thuế
gián thu có phạm vi thu rất rộng, do đó việc điều chỉnh thuế gián thu dễ dàng hơn thuế
trực thu. Thuế gián thu ở Việt Nam có: Thuế XNK , thuế GTGT…
- Thuế trực thu là loại thuế nhà nước thu trực tiếp từ các thể nhân và pháp
nhân có thu nhập hay tài sản chịu thuế theo luật định. Người nộp thuế cũng là người
chịu thuế. Thuế trực thu có tính điều tiết thu nhập cao hơn thuế gián thu. Xét về tính
công bằng, thuế trực thu thường đáp ứng được nguyên tắc: đánh thuế theo khả năng
chi trả. Tuy nhiên, thuế trực thu có tác động tâm lý nặng nề đối với người có thu
nhập, tài sản phải trả thuế trực tiếp cho nhà nước, nên họ cảm nhận gánh nặng về thuế
và có thể dẫn đến những phản ứng để giảm nhẹ gánh nặng này.
b. Phân loại thuế theo đối tượng chịu thuế
Theo đối tượng chịu thuế hay còn gọi là cơ sở đánh thuế, hệ thống thuế được

chia thành các nhóm: Thuế thu nhập, thuế tiêu dùng, thuế tài sản.
- Thuế thu nhập đánh vào thu nhập hình thành từ các nguồn như: Từ lao động
dưới dạng tiền công, từ hoạt động SXKD dưới dạng lợi nhuận, lợi tức. Thuế thu
nhập thường có các sắc thuế như: Thuế thu nhập công ty, thuế thu nhập cá nhân…
- Thuế tiêu dùng là loại thuế đánh vào hàng hóa tiêu thụ và dịch vụ cung ứng.
Thuế tiêu dùng thường có các sắc thuế như: Thuế XNK, thuế TTĐB, thuế GTGT…
Thuế tiêu dùng có tính chất hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng.
- Thuế tài sản là loại thuế đánh vào việc sở hữu, sử dụng hay chuyển nhượng
tài sản. Ở Việt Nam thuế tài sản gồm có: Thuế nhà đất, lệ phí trước bạ, thuế chuyển
quyền sử dụng đất, thuế tài nguyên…
c. Phân loại thuế theo mối tương quan giữa thuế phải nộp và thu nhập
Theo mối tương quan giữa thuế phải nộp và thu nhập, thuế được chia thành:
- Thuế lũy tiến là loại thuế mà tỷ lệ thuế so với thu nhập tăng lên khi thu nhập
của người chịu thuế tăng lên.
- Thuế lũy thoái là loại thuế mà tỷ lệ thuế so với thu nhập giảm đi khi thu nhập
của người chịu thuế tăng lên.

10


- Thuế tỷ lệ là loại thuế mà tỷ lệ chịu thuế so với thu nhập không đổi khi thu
nhập của người chịu thuế tăng lên [14, 17, 18, 19].
1.1.2. Khái quát về Thuế tài nguyên
1.1.2.1. Cơ sở hình thành thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là một khoản thu bắt buộc đối với các tổ chức và cá nhân có
hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên không phụ thuộc vào cách thức tổ chức
và hiệu qủa sản xuất kinh doanh của người khai thác.
Từ xa xưa, con người đã biết sử dụng tài nguyên phục vụ cho đời sống sinh
hoạt của mình, việc sử dụng là tự phát, con người không phải chi trả bất cứ khoản
chi phí nào cho việc sử dụng đó.

Về sau này, khi ý thức được tầm quan trọng của tài nguyên đối với đời sống
sinh hoạt và sản xuất của con người, nhận thức được hầu hết các tài nguyên là có hạn
và phải được quản lý sử dụng theo chính sách quản lý của Nhà nước, mới xuất hiện
việc đánh thuế trong hoạt động khai thác tài nguyên. Ở hầu hết các nước trên thế giới,
vai trò của thuế đánh vào hoạt động khai thác tài nguyên được đặc biệt coi trọng.
Ở Việt Nam, trước năm 1990 chưa áp dụng thuế tài nguyên nhưng đã áp
dụng một số hình thức thu mang tính chất của thuế tài nguyên. Như dưới thời phong
kiến có thuế thổ sản (thời Chúa Trịnh) đánh vào việc khai thác vàng, bạc, đồng,
kẽm, tre, gỗ, ; thuế sản vật, thuế gỗ, thuế mỏ (thời Chúa Nguyễn) đánh vào việc
khai thác cây gỗ và khai thác than Đến thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám, cũng có
một số loại thuế có liên quan tới tài nguyên khoáng sản nhưng không có quy định
pháp lý rõ ràng như chế độ thu tiền nuôi rừng, chế độ thu đối với vàng sa khoáng.
Năm 1990, những mục tiêu và yêu cầu quan trọng của công cuộc cải cách
thuế bước I, đòi hỏi hệ thống thuế phải bao quát đầy đủ các nguồn thu trong nước
và có tác động tích cực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh.
Pháp lệnh thuế tài nguyên đã được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1991. Đây là dấu mốc quan trọng trong việc xây dựng cơ sở pháp lý của thuế
tài nguyên.
Năm 1998, sau gần 8 năm thực hiện, Pháp lệnh thuế tài nguyên đã bộc lộ
một số nhược điểm về phạm vi và phương pháp xác định, Uỷ ban thường vụ Quốc

11


hội đã lấy ý kiến và thông qua Pháp lệnh thuế tài nguyên số 05/1998/PLUBTVQH10 ngày 16/4/1998 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/1998. Chính phủ
và Bộ Tài chính đã ra Nghị định và Thông tư hướng dẫn chi tiết Pháp lệnh thuế tài
nguyên sửa đổi.
Từ năm 1998 đến năm 2009, đã có nhiều Nghị định sửa đổi bổ sung và các
Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định sửa đổi bổ sung Pháp lệnh thuế tài nguyên.
Xuất phát từ việc có nhiều nội dung chưa được phù hợp với thực tế công tác quản lý

thuế tài nguyên, ngày 25 tháng 11 năm 2009, Quốc hội 12 đã ban hành Luật thuế tài
nguyên số 45/2009/QH12 nhằm đưa ra cơ sở pháp lý đầy đủ hơn cho việc thực hiện
quản lý thuế tài nguyên ở Việt Nam.
1.1.2.2. Đối tượng nộp thuế tài nguyên
Theo quy định tại Điều 3, Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25
tháng 11 năm 2009 thì người nộp thuế tài nguyên là tổ chức, cá nhân khai thác tài
nguyên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên bao gồm: Công ty Nhà nước, Công ty
cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, Hợp tác xã, Doanh nghiệp
tư nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay Bên nước ngoài tham gia hợp
đồng hợp tác kinh doanh, các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân khác, không phân biệt
ngành nghề, quy mô, hình thức hoạt động, có khai thác tài nguyên thiên nhiên theo
quy định của pháp luật Việt Nam là đối tượng nộp thuế tài nguyên.
1.1.2.3. Đối tượng chịu thuế
Theo quy định tại Điều 2, Luật Thuế tài nguyên số 45/2009/QH12 ngày 25
tháng 11 năm 2009 và Điều 2, Thông tư số 105/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính thì
đối tượng chịu thuế tài nguyên là các tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đất liền,
hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền
và quyền tài phán của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm:
+ Khoáng sản kim loại;
+ Khoáng sản không kim loại, kể cả khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông
thường và đất làm gạch, đất khai thác để san lấp, xây dựng công trình, đất khai thác
sử dụng cho các mục đích khác; đá, cát, sỏi, than, đá quý và tài nguyên không kim
loại khác; nước khoáng, nước nóng thiên nhiên thuộc đối tượng quy định tại Khoản
3, Điều 3 Luật Khoáng sản.

12


+ Dầu thô theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Dầu khí năm 1993;
+ Khí thiên nhiên theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Dầu khí năm 1993;

+ Khí than theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Dầu khí năm 2008;
+ Sản phẩm của rừng tự nhiên, bao gồm các loại thực vật và các loại sản
phẩm khác của rừng tự nhiên, trừ động vật và hồi, quế, sa nhân, thảo quả do người
nộp thuế trồng tại khu vực rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi, bảo vệ;
+ Hải sản tự nhiên, gồm động vật và thực vật biển;
+ Nước thiên nhiên, bao gồm nước mặt và nước dưới đất;
+ Yến sào thiên nhiên;
+ Tài nguyên thiên nhiên khác do Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan báo cáo Chính phủ để trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét,
quyết định.
1.1.2.4. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thuế tài nguyên đối với thu Ngân sách
Nhà nước
a. Khái niệm
Tuỳ theo các quan điểm quản lý, xác lập quyền sở hữu tài nguyên của quốc
gia mà có cách quản lý và điều tiết đối với hoạt động khai thác tài nguyên dưới hình
thức là một khoản thuế, hay là khoản thu trên quyền khai thác tài nguyên.
Ở nước ta, việc điều tiết đối với hoạt động khai thác tài nguyên được ban
hành dưới hình thức là một sắc thuế, áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân tiến hành
hoạt động khai thác tài nguyên.
Do vậy, thuế tài nguyên được định nghĩa như sau: Là khoản thu của ngân
sách nhà nước (NSNN) nhằm điều tiết một phần giá trị tài nguyên thiên nhiên khai
thác đối với tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên hợp pháp trên lãnh thổ, lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia, tạo nguồn thu NSNN, đảm bảo quản lý,
sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên.
b. Đặc điểm của thuế tài nguyên
- Thuế tài nguyên là một khoản thu của NSNN đối với người khai thác tài
nguyên thiên nhiên do Nhà nước quản lý. Cũng như các loại thuế khác, thuế tài

13



nguyên là một khoản thu của NSNN, mặc dù không phải là loại thuế đem lại nguồn
thu chủ yếu cho NSNN nhưng cũng đóng góp một phần không nhỏ, tăng thêm
nguồn thu cho Nhà nước. Khoản thu này đối với người khai thác tài nguyên thiên
nhiên do Nhà nước quản lý.
- Thuế tài nguyên được tính trên sản lượng và giá trị thương phẩm của tài
nguyên khai thác mà không phụ thuộc vào mục đích khai thác tài nguyên Để thu
thuế tài nguyên, Nhà nước tính thuế dựa trên sản lượng và giá bán sản phẩm tài
nguyên mà không phụ thuộc và mục đích khai thác tài nguyên.
- Thuế tài nguyên được cấu thành trong giá bán tài nguyên mà người tiêu dùng
tài nguyên hoặc sản phẩm được tạo ra từ tài nguyên thiên nhiên phải trả tiền thuế tài
nguyên. Thuế tài nguyên là loại thuế gián thu, Nhà nước thu tiền thuế từ người khai
thác tài nguyên, nhưng thực chất người tiêu dùng mới là người phải trả tiền thuế đó.
Người khai thác tài nguyên tính toán số thuế tài nguyên phải nộp trên mỗi đơn vị tài
nguyên khai thác, cấu thành trong giá bán sản phẩm tài nguyên cho người tiêu dùng.
Vì lẽ đó, người tiêu dùng cuối cùng là người phải trả tiền thuế tài nguyên.
- Đối tượng nộp thuế tài nguyên là: Mọi tổ chức, cá nhân khai thác tài
nguyên thiên nhiên, không phụ thuộc mục đích sử dụng tài nguyên. Mọi tổ chức, cá
nhân khai tác tài nguyên thiên nhiên, không phụ thuộc vào mục đích sử dụng tài
nguyên, đều phải nộp thuế tài nguyên để đảm bảo sự nhất quán, công bằng và tận
thu thuế tài nguyên đóng góp vào nguồn NSNN.
c. Vai trò của thuế tài nguyên
- Tạo nguồn thu quan trọng cho NSNN
Một nền tài chính lành mạnh phải dựa vào nguồn thu nội bộ từ nền kinh tế
quốc dân. Một ngân sách lành mạnh trước hết phải dựa vào nguồn thu ổn định trong
nước, trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu trong hệ thống đòn bẩy của cơ chế mới.
Nhờ có khoản đóng góp này, bộ máy Nhà nước mới tồn tại và hoạt động được.
Ngay từ buổi sơ khai, thuế đã được sử dụng với mục tiêu quan trọng là tập trung thu
nhập vào tay Nhà nước. Lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kỳ và ở

các nước cũng cho thấy: tỷ trọng thu bằng thuế thường chiếm phần lớn trong tổng
thu nhập của NSNN. Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện
cải cách hệ thống thuế, số thu bằng thuế, phí chiếm tới trên 90% tổng số thu NSNN.

14


Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế mới được áp dụng thống
nhất giữa các thành phần kinh tế. Thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động
sản xuất kinh doanh, các nguồn thu nhập của các doanh nghiệp và dân cư để đảm
bảo yêu cầu huy động được nhiều vốn, thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao
hơn trong giai đoạn hiện tại và phát triển lâu dài, góp phần kiềm chế và đẩy lùi lạm
phát, ổn định kinh tế xã hội.
Thuế tài nguyên trong hệ thống thuế nói chung, là khoản thu bắt buộc của
Nhà nước đối với cá nhân hoặc tổ chức khi phát sinh những hoạt động liên quan đến
khai thác tài nguyên. Thực tế nguồn thu từ thuế tài nguyên tăng cao qua các năm và
ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong tổng số thu NSNN. Cụ thể,
trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2013, số thu thuế tài nguyên của cả nước
(không kể thu từ dầu khí) đạt mức bình quân khoảng 7.232 tỷ đồng/năm; năm 2011
là 6.388 tỷ đồng; năm 2012 là 7.187 tỷ đồng; năm 2013 là 8.121 tỷ đồng.
- Góp phần tăng cường quản lý Nhà nước trong việc bảo vệ, sử dụng hiệu
quả nguồn tài nguyên quốc gia.
Thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính, thể hiện vai trò sở
hữu của Nhà nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên. Với công cụ của mình, Nhà
nước điều tiết việc sử dụng, khai thác nguồn tài nguyên, thể hiện ở việc áp dụng
mức thuế suất thuế tài nguyên cao hay thấp theo loại tài nguyên có giá trị cao hay ít
giá trị, trữ lượng tài nguyên hiện có nhiều hay ít, cần phải hạn chế sử dụng hay
không. Bên cạnh đó, nguồn thu từ thuế tài nguyên sẽ góp cùng nguồn thu từ các sắc
thuế khác vào NSNN để có nguồn kinh phí cho các chính sách phát triển kinh tế xã

hội nói chung và cho việc cải tạo môi trường sinh thái, nâng cao nhận thức xã hội
về vai trò nguồn tài nguyên quốc gia.
1.1.2.5. Quản lý nhà nước về thuế tài nguyên
Việc áp dụng thuế tài nguyên góp phần quan trọng vào việc thực hiện chính
sách quản lý, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết các hoạt động khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên của đất nước.

15


Ðồng thời việc thực hiện tốt thuế tài nguyên sẽ phát huy được các tác dụng
quan trọng của nó trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay.
Vấn đề đặt ra là phải thực hiện như thế nào để đạt được hiệu qủa cao nhất.
Ðây là yêu cầu cơ bản đặt ra cho công tác tổ chức, quản lý thuế tài nguyên.
Quản lý thuế tài nguyên được hiểu là việc tổ chức thực hiện những nội dung
công việc liên quan đến thuế tài nguyên của chủ thể quản lý (cơ quan quản lý thuế)
và đối tượng quản lý (các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng nộp thuế tài nguyên ) để
đạt được hiệu qủa cao nhất của việc áp dụng thuế tài nguyên.
a. Các nội dung chủ yếu của công tác quản lý thuế tài nguyên.
Quản lý đối tượng nộp thuế: Ðối tượng nộp thuế là người trực tiếp thực
hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Quản lý tốt các đối tượng nộp thuế là yếu
tố quan trọng đầu tiên dẫn đến sự thành công trong việc áp dụng pháp luật thuế. Ðể
thực hiện tốt các công tác này đòi hỏi cơ quan thuế phải quản lý đầy đủ các đối
tượng nộp thuế về số lượng, quy mô, cách thức tổ chức, phương tiện khai thác, địa
bàn khai thác và loại tài nguyên khai thác,... Công việc này được thực hiện thông
qua việc đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, cũng như kiểm tra tình hình thực tế
hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế.
Quản lý nội dung căn cứ tính thuế: Ðây là công tác quan trọng liên quan
đến việc xác định số thuế tài nguyên phải nộp của các đối tượng nộp thuế. Quản lý
nội dung căn cứ tính thuế bao gồm quản lý số lượng tài nguyên thương phẩm thực

tế khai thác trong kỳ tính thuế; quản lý, xác định đúng đắn giá tính thuế của từng
loại tài nguyên; áp dụng thuế suất cho từng loại tài nguyên đúng theo quy định của
biểu thuế hiện hành; ...Xác định chính xác số thuế tài nguyên phát sinh trong kỳ tính
thuế đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước cũng như quyền lợi và nghĩa vụ
của các đối tượng nộp thuế.
Quản lý công tác thu nộp thuế tài nguyên: Việc thu thuế tài nguyên được
đầy đủ, chính xác, kịp thời là yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý thu nộp thuế.
Công tác này đòi hỏi cơ quan thuế phải có những biện pháp hữu hiệu để các đối
tượng nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tài nguyên vào ngân sách Nhà nước đầy
đủ và kịp thời.

16


Ngoài ra, việc quản lý các trường hợp miễn, giảm thuế tài nguyên, thực hiện
công tác thanh tra, kiểm tra qúa trình chấp hành pháp lệnh thuế tài nguyên, ...là
những nội dung cần thiết của công tác quản lý thuế tài nguyên.
Ðế thực hiện tốt các nội dung công tác kể trên, đảm bảo thực hiện pháp lệnh
thuế tài nguyên đạt hiệu qủa cao nhất, yêu cầu cơ bản nhất là các cơ quan, tổ chức,
cá nhân phải thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng quy định
của pháp lệnh thuế tài nguyên.
b. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân hoạt động khai thác tài nguyên
- Ðăng ký hoạt động khai thác tài nguyên với cơ quan thuế chậm nhất là 10
ngày kể từ ngày được phép khai thác tài nguyên hoặc chậm nhất là 5 ngày trước khi
có sự sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản hay có sự thay đổi trong hoạt
động khai thác tài nguyên. Bảng đăng ký phải lập thành 02 bản, một bản gửi cho cơ
quan thuế trực tiếp quản lý thu thuế, một bản lưu giữ tại cơ sở khai thác tài nguyên.
- Chấp hành đúng chế độ lập chứng từ, hóa đơn, chế độ sổ sách kế toán theo
quy định hiện hành.
- Hàng tháng, trong thời hạn chậm nhất là 10 ngày đầu của tháng tiếp theo, tổ

chức, cá nhân khai thác tài nguyên phải kê khai thuế tài nguyên phải nộp của tháng
trước, kể cả trường hợp không phát sinh thuế tài nguyên vẫn phải kê khai và nộp tờ
khai thuế cho cơ quan thuế.
Tờ khai dược lập thành 02 bản, có xác nhận của cán bộ trực tiếp quản lý thu
thuế, một bản gửi cho cơ quan thu thuế, một bản lưu tại cơ sở.
Trường hợp khai thác khoáng sản không có điều kiện kê khai hàng tháng thì
thời gian kê khai có thể dài hơn, phù hợp với đặc thù hoạt động khai thác theo hướng
dẫn bằng văn bản của Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác thủ công, phân tán, hoạt động không
thường xuyên...được cơ quan thuế chấp thuận nộp thuế theo phương thức khoán thì
cơ quan thuế phải căn cứ vào tờ khai của cơ sở khai thác tài nguyên kết hợp với tài
liệu điều tra thực tế về nguồn tài nguyên, vốn, lao động, phương tiện khai thác, giá cả
tài nguyên để xác định đúng sản lượng tài nguyên khai thác thực tế và số thuế thi
công tài nguyên phải nộp. Việc ấn định mức khoán phải đảm bảo công khai, dân chủ,

17


đúng với khả năng hoạt động khai thác tài nguyên. Việc khoán thuế tài nguyên có thể
được tính toán để gắn liền với việc gắn liền với việc khoán thu các loại thuế khác.
- Cung cấp tài liệu, sổ sách kế toán, chứng từ, hóa đơn theo yêu cầu của cơ
quan thuế.
- Thuế tài nguyên phải nộp đúng thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan thuế,
nhưng chậm nhất không qúa ngày 25 của tháng tiếp theo phát sinh thuế tài nguyên.
Thuế tài nguyên là khoản thu của ngân sách Nhà nước được nộp vào Kho bạc
Nhà nước tại địa phương nơi khai thác tài nguyên. Trường hợp cơ sở khai thác nhỏ,
phân tán, số thuế tài nguyên nhỏ và ở nơi xa Kho bạc Nhà nước thì cơ quan thuế có
thể trực tiếp thu thuế để chuyển nộp vào kho bạc. Căn cứ vào tình hình thực tế, cơ
quan thuế phải quy định rõ lịch nộp tiền theo số ngày và số tiền thuế thu được.
Mọi tổ chức, cá nhân khi vận chuyển tài nguyên thiên nhiên đều phải có hóa

đơn bán hàng hoặc chứng từ chứng minh đã thực hiện chính sách thuế tài nguyên.
- Trong thời hạn 30 ngày sau khi kết thúc năm hoạt động hoặc hợp đồng khai
thác, tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên phải quyết toán việc nộp thuế tài nguyên
với cơ quan thuế. Trong thời hạn 10 ngày sau khi cơ quan thuế kiểm tra và thông
báo, tổ chưcù, cá nhân khai thác tài nguyên phải nộp đủ số thuế còn thiếu (nếu có)
vào ngân sách; số thuế nộp thừa sẽ được hoàn trả cũng trong thời gian quy định đó
hoặc tính trừ vào số thuế tài nguyên phải nộp của kỳ tiếp theo.
c. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thuế
- Hướng dẫn, đôn đốc cơ sở khai thác tài nguyên đăng ký, kê khai, nộp thuế
tài nguyên.
- Kiểm tra, thanh tra việc đăng ký, kê khai nộp thuế, quyết toán thuế của cơ
sở khai thác tài nguyên.
- Tính thuế hoặc tổ chức công tác điều tra, giám sát, ấn định mức khoán thuế,
lập và duyệt sổ bộ thuế; thông báo kịp thời số thuế tài nguyên phải nộp và thời hạn
nộp theo đúng quy định, cung cấp chứng từ thu thuế hợp pháp.
- Xử phạt vi phạm hành chính về thuế và giải quyết khiếu nại về thuế tài nguyên.
- Yêu cầu đối tượng nộp thuế cung cấp sổ kế toán, hóa đơn, chứng từ và hồ
sơ tài liệu khác có liên quan tới việc tính thuế, nộp thuế tài nguyên; yêu cầu các tổ

18


×