Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tiểu luận thể dục lợi ích của việc học môn giáo dục thể chất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.51 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống này, không có gì quan trọng cho bạn bằng chính con
người bạn, một thân thể không bệnh tật, một tâm hồn không loạn đó là chân hạnh
phúc của con người. Có câu nói: “Người có sức khỏe có một trăm ước muốn,
người không có sức khỏe chỉ có 1 ước muốn duy nhất: đó là sức khỏe”. Quả
đúng như vậy, bệnh tật không trừ một ai bất kể bạn là người giàu hay người
nghèo, người có địa vị cao hay thấp. Nếu bạn may mắn được sở hữu một sức
khỏe tốt thì đồng nghĩa với việc bạn đang cận kề với thành công về mọi lĩnh vực.
Ngày nay, do nhận thức xã hội về ảnh hưởng của môi trường, tình trạng
bệnh tật… mà thái độ của mọi người với sức khỏe đã được thay đổi. Không phải
chỉ có người già, người đau yếu mới coi trọng giá trị của sức khỏe, mà những
người trẻ, đang mạnh khỏe cũng đã nhận thức đúng về giá trị của sức khỏe.
Mọi người tham gia rèn luyện thể dục thể thao hàng ngày và dần dần trở
thành thói quen. Đặc biệt hơn nữa giáo dục thể chất là một bộ môn bắt buộc
trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Giáo dục và phát triển giáo dục trong Nhà
trường có ý nghĩa to lớn trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người.
Đồng thời góp phần nâng cao thể lực giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành
mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa và phát huy tinh thần dân tộc của con
người Việt Nam.
Để đạt được mục đích cuối cùng tốt đẹp nhất của việc luyện tập thể dục,
thể thao không những cần rèn luyện tích cực thường xuyên mà còn phải áp dụng
nguyên tắc toàn diện vào hệ thống trong một buổi tập thể dục thể thao của mình.
Mục tiêu của bài luận này là nhằm trình bày nguyên tắc toàn diện trong môn giáo
dục thể chất để áp dụng lý thuyết vào trong thực hành của mỗi buổi học.
2



KIẾN THỨC CƠ BẢN
I.

Khái niệm về văn hoá
Muốn hiểu được TDTT (còn gọi là văn hoá thể chất), trước tiên cần hiểu

đúng khái niệm văn hoá, một hệ thống tập hợp lớn hơn, bao gồm cả TDTT,
mới có thể tạo cơ sở mở đầu chung về phương pháp luận để đi sâu vào
TDTT, tìm ra những cái chung và riêng (ở mức cần thiết) so với các bộ phận
văn hoá khác.
Nói khái quát hơn, thuật ngữ này dùng chỉ đặc trưng vật chất và tinh thần
của một thời đại (ví dụ như văn hoá cổ đại), của một dân tộc (như văn hoá
Việt Nam), của một phạm vi hoạt động sinh sống hoặc sáng tạo (văn hoá lao
động, văn hoá nghệ thuật, văn hoá thể chất - TDTT...).
Văn hoá bao gồm những thành tựu vật chất của hoạt động con người (máy
móc, công trình xây dựng, nhà thi đấu...), kết quả của nhận thức (tác phẩm
nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức, những luật lệ ngày càng chính xác, công
bằng trong thi đấu thể thao...), những khả năng được hiện thực hoá trong đời
sống (sự hiểu biết, tổ chức xã hội, phong tục, tập quán, trình độ thưởng thức,
thành tích thể thao
Trong điều kiện xã hội có giai cấp, song song với văn hoá của giai cấp
thống trị, còn có văn hoá của những người lao động bị trị, mang những yếu tố
dân chủ và nhân đạo. Ở Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay, chúng
ta đang từng bước xây dựng nền văn hoá mới, có nội dung XHCN và tính
chất dân tộc. Tiếc rằng lâu nay, chúng ta thường chỉ chú ý nhiều đến văn hoá
tinh thần (khoa học, nghệ thuật...) mà còn coi nhẹ văn hoá thể chất.

3



II.Nguồn gốc của TDTT
Có thể hiểu rõ thêm bản chất xã hội, tính chất văn hoá - giáo dục của
TDTT thông qua tìm hiểu cội nguồn và lịch sử phát triển của nó. TDTT ra đời
phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người.
Lao động sản xuất là nguồn gốc cơ bản của TDTT. Thật đúng như Ănghen
đã nói trong tác phẩm "Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ
vượn thành người": "Lao động là điều kiện thứ nhất của toàn bộ đời sống con
người, thậm chí đến mức, trên một số ý nghĩa nào đó, không thể không nói
rằng: Lao động sáng tạo ra bản thân con người".
Trong quá trình sản xuất lâu dài, loài người thời nguyên thuỷ đã chế tạo ra
và sử dụng các công cụ lao động. Ngay trong quá trình giải quyết những vấn
đề thiết thân về ăn, ở, mặc, con người đã đồng thời nâng cao trí lực và thể lực
của mình. Thời đó, điều kiện lao động rất gian khổ, nguy hiểm, hoàn cảnh
khắc nghiệt, công cụ rất thô sơ, lao động thể lực cực kỳ nặng nhọc. Thực tế
đấu tranh khốc liệt để sinh tồn đó buộc con người phải biết chạy, nhảy, leo
trèo, ném, bơi, mang vác nặng và chịu đựng được trong điều kiện sống khắc
nghiệt. Bởi vậy, những năng lực hoạt động đó cùng với kinh nghiệm đã trở
thành tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá trình độ, uy tín của con người lúc bấy
giờ. Mầm mống của TDTT đã nẩy sinh chính từ thực tế của những hoạt động
ấy và kết hợp tự nhiên ngay trong quá trình lao độngNgoài ra còn có các trò
chơi vui thích trong lúc nhàn rỗi, giải trí và về sau còn thêm dần một số hoạt
động rèn luyện thân thể khác để phòng chữa một số bệnh. Tất cả những điều
này đã góp phần quan trọng để phát triển TDTT. Sau này, do trình độ sản
xuất, mức sống, khoa học kỹ thuật, nhu cầu đào tạo và giáo dục ngày càng
cao nên TDTT dần trở thành một lĩnh vực tương đối độc lập, có một hệ thống
khoa học cho riêng mình.
III. Tính lịch sử, tính giai cấp và tính dân tộc của TDTT

4



Điều kiện sống thô sơ, nghèo nàn và đời sống tinh thần và vật chất rất
thấp của con người trong xã hội cổ sơ (chưa phân chia giai cấp) hạn chế rất
nhiều khả năng phát triển TDTT. Tuy vậy, so với điều kiện lịch sử thời ấy, nó
cũng có ý nghĩa tiến bộ nhất định vì mọi thành viên trong xã hội đều được
hưởng thụ bình đẳng. Về sau, sự phân chia giai cấp xuất hiện đã làm mất đi
sự bình đẳng đó.
Tuy vậy, những cuộc xung đột, chiến tranh hầu như liên miên giữa các bộ
lạc, lãnh chúa, quốc gia cũng thúc đẩy TDTT phát triển nhanh để phục vụ cho
quân sự. Trong xã hội có bóc lột, chỉ một số ít thuộc giai cấp thống trị được
hưởng thụ những giá trị đó. Trong một chế độ áp bức, bóc lột, dù có thực hiện
phần nào việc giáo dục thể chất cho một số người lao động, nhưng nếu không
có tự do, bình đẳng thì thực chất vẫn không thể đảm bảo tính nhân đạo thật sự
Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã phân tích sâu sắc mâu
thuẫn giữa quy luật phát triển của các lực lượng sản xuất đòi hỏi phát triển
cân đối những người lao động và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm
cản trở sự phát triển này. Muốn loại bỏ mâu thuẫn đó tạo điều kiện cho TDTT
phát triển một cách thật sự triệt để, cơ bản thì phải gắn với quá trình phát triển
và hoàn thiện xã hội, từng bước xây dựng nên một xã hội tự do, bình đẳng và
ngày càng hạnh phúc hơn. Mục đích cao nhất là củng cố chế độ chính trị hiện
có, thu được lợi nhuận càng nhiều.
Ngoài ra, cũng không thể coi nhẹ áp lực của cuộc đấu tranh của những
người lao động đòi cải thiện điều kiện sống, trong đó có TDTT. Tính dân tộc
thể hiện rất rõ trong lối sống, nếp nghĩ, tập tục, truyền thống và văn hoá nói
chung (trong đó có TDTT) của từng dân tộc. Nó được hình thành và phát
triển trong quá trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh trong tự nhiên và xã
hội, trong phát triển TDTT của từng dân tộc ở từng điều kiện cụ thể. Tính dân
tộc của TDTT Việt Nam như thượng võ, mang đậm tính chất nhân văn, liên
kết cộng đồng...

5


Tuy vậy, cũng không nên nghĩ một đặc trưng dân tộc trong nền TDTT của
nước nào đó không thể có trong các dân tộc khác. Trong quá trình phát triển,
các dân tộc (đặc biệt là các dân tộc sống gần và có điều kiện tương tự) luôn
tiếp thu cái hay, cái đẹp của các dân tôïc khác và giữa họ ngày càng có nhiều
điểm giao hoà. Bởi vậy, không nên tách biệt tính dân tộc với tính hiện đại
(quốc tế) hoặc lệch về một vế nào.
Chúng ta trân trọng truyền thống nhưng không nệ cổ, đóng cửa, giữ gìn
nguyên xi những di sản của quá khứ. Cần kế thừa những tinh hoa từ xưa để
lại rồi từ đó sáng tạo nên những tinh hoa mới. Xét cho cùng, xưa nay, tính
lịch sử, giai cấp (trong xã hội có giai cấp) và dân tộc luôn gắn với nhau.

6


KIẾN THỨC VẬN DỤNG
I.Khái niệm nguyên tắc toàn diện:
Nguyên tắc tập luyện thể dục thể thao là những nguyên tắc chuẩn mà mọi
người tham gia tập luyện thể dục thể thao đều phải tuân thủ trong quá trình tập
luyện. Nghĩa là những khái quát và những tổng kết kinh nghiệm tập luyện thể
dục thể thao trong thời gian dài, nó cũng phản ánh quy luật khách quan của tập
luyện thể dục thể thao. Thực tế tập luyện thể dục thể thao đã cho chúng ta thấy
bất kể một hành vi tập luyện thể dục thể thao có hiệu quả sớm thường là kết quả
của việc tự giác hay không tự giác tuân theo một số nguyên tắc tập luyện. Việc
tập luyện thể dục thể thao không thể tách rời những nguyên tắc tập luyện đúng
đắn, bắt buộc phải hiểu và nắm bắt cũng như tuân theo những nguyên tắc tập
luyện thể dục thể thao.
Nguyên tắc tập luyện toàn diện là chỉ thông qua tập luyện thể dục thể thao

làm cho hình thái cơ thể, chức năng, tố chất cơ thể và tố chất tâm lý đều được
phát triển toàn diện, hài hoà. Cơ thể là một thể thống nhất hữu cơ, chức năng của
các cơ quan, hệ thống trong cơ thể có sự liên quan và ảnh hưởng tương hỗ với
nhau. Nội dung và phương pháp bài tập được lựa chọn trong tập luyện thể dục
thể thao nên cố gắng có sự toàn diện đối với cơ thể, khiến cho các tố chất cơ thể
và chức năng của các cơ quan, hệ thống trong cơ thể được phát triển toàn diện,
do vậy lựa chọn nội dung và biện pháp thực hiện không được quá đơn điệu bởi vì
mọi loại nội dung hay biện pháp thực hiện đều có ảnh hưởng mang tính cục bộ
đối với cơ thể. Nội dung và biện pháp tập luyện nên phong phú đa dạng, nên
tránh tập luyện những bài tập chỉ phát triển một loại tố chất nào đó. Trong mỗi
lần tập luyện thể dục thể thao có thể dùng một môn nào đó làm chính, số còn lại
là những nội dung tập luyện phụ.
7


VD: Những người yêu thích tập luyện thể dục thẩm mỹ nên tiến hành đồng
thời việc tập luyện phát triển sức mạnh cơ bắp với việc tập luyện phát triển sức
bền ưa khí và tố chất mềm dẻo, làm cho cơ thể có được sự rèn luyện toàn diện.
II.Áp dụng nguyên tắc toàn diện thể dục vào thể dục thể thao:
II.1 Lượng vận động:
Lượng vận động của các bài tập thể dục là mức độ tác động của chúng đến cơ
thể của người tập. Lượng vận động bao gồm khối lượng và cường độ
Các buổi tập có khối lượng lớn chỉ có thể được thực hiện với cường độ trung
bình hoặc thấp. Những buổi tập có cường đô lớn chỉ có thể được thực hiên với
khối lượng nhỏ hoặc trung bình.
Thực nghiêm đã chứng minh rằng nếu đảm bảo vào những điều kiện cần thiết
trong đó lượng vận động không vượt quá giới hạn gây nên mệt mỏi quá sức thì
khối lượng càng lớn bao nhiêu thì những biến đổi thích nghi càng đáng kể và
vững chắc bấy nhiêu.
II.2 Giáo dục thái độ tự giác và hứng thú với môn học:

Phải làm cho người tập nhận thức được nhiệm vụ, mục đích các buổi tập, hiểu
được ý nghĩa cụ thể của các nhiệm vụ cần thực hiên, hiểu được tính tất yếu, cơ
sở khoa học của nhiệm vụ.
Tạo hứng thú cho người tập bằng nhiều hình thức.
Kết nối những nhiệm vụ, yêu cầu hoạt động với thỏa mã nhu cầu cá nhân
trong hoạt động
II.3 Kích thích tư duy, tính tự lập và thái độ sáng tạo của người tập:
Tự phân tích, cảm nhận, tự đánh giá sau mỗi lần thực hiện động tác
Tự phát hiên và sửa chữa nhưng sai lệch về kĩ thuật
8


Khuyến khích, tạo điều kiện để người tập tự lập giải quyết các nhiệm vụ tình
huống cũng như vận dụng tri thức sáng tạo đã được tiếp thu vào trong thức tế
giáo dục thể chất.
Đánh giá cao và khuyến khích làm việc tập thể
Tôn trọng đặc điểm cá nhân trong tập luyện và trong việc hình thành kỹ năng,
kỹ xảo nếu những đặ điểm đó không ảnh hưởng đến tập thể cũng như nguyên lý
của động tác.
II.4 Kiên trì thường xuyên tập luyện:
Muốn đạt được mục đích tập luyện, bắt buộc phải thường xuyên tham gia tập
luyện thể dục thể thao. . Tập luyện thể dục thể thao là có tính liên tục và tính hệ
thống của nó, chỉ có thường xuyên tham gia tập luyện thể dục thể thao, sắp xếp
hợp lý những môn vận động mà bản thân yêu thích và hứng thú, lập ra một kế
hoạch rèn luyện cơ thể một cách khoa học mới có thể không ngừng tăng cường
thể chất có hiệu quả.
Các thực nghiệm khoa học đã chứng minh những người không thường xuyên
tham gia tập luyện thể dục thể thao hoặc những người tập luyện thể dục thể thao
bỏ dở giữa chừng đều làm cho chức năng, tố chất cơ thể và kỹ thuật vận động
sẵn có của bản thân giảm sút rõ rệt. Rèn luyện thân thể mà bỏ giữa chừng, thời

gian càng dài thì sự mất đi càng rõ rệt hơn.
Do vậy, rèn luyện cơ thể trong thời gian ngắn sẽ không thể có được hiệu quả
rõ rệt, càng không thể hy vọng “một ngày làm, ngàn năm hưởng”, mà chỉ có
thường xuyên tham gia tập luyện thể dục thể thao mới có thể nâng cao hiệu quả
tập luyện thể dục thể thao

9


II.5 Kế hoạch hợp lý, tuần tự nâng dần:
là chỉ khi sắp xếp nội dung, độ khó, thời gian và lượng vận động tập luyện
cần căn cứ vào quy luật phát triển của cơ thể và nguyên lý của lượng vận động
hợp mức, có kế hoạch, có tiến trình để từng bước nâng cao yêu cầu làm cho cơ
thể không ngừng thích nghi, thể chất từng bước được nâng cao.Đầu tiên tăng dần
lượng vận động. Tiến hành quá trình rèn luyện thể dục thể thao tuần tự là quá
trình có thể thích ứng đối với sự biến hoá của hoàn cảnh bên trong và bên ngoài,
là một quá trình biến đổi từ từ, từ lượng sang chất. Khi tăng lượng vận động cần
tăng từ nhỏ tới lớn, tăng dần từng bước.
Trong từng buổi tập riêng lẻ và trong chu kỳ tuần, các bài tập phát triển tố
chất thế lực thường được sắp xếp theo trật tự sau: các bài tập sức nhanh- các bài
tập sức manh- các bài tập sức bền
Quán triệt các quy tắc: “ Từ biết đến chưa biết” , “Từ dễ đến khó” , “Từ đơn
giản đến phức tạp” , “ Từ đơn lẻ đến tổng hợp”.
II.6 Tính liên tục và sự luân phiên hợp lý giữa tập luyện và nghỉ ngơi:
Dưới sự ảnh hưởng của tập luyện trong cơ thể diễn ra những biến đổi thích
nghi về hình thái và chức năng đồng thời hình thành những đường liên hệ thích
nghi về hình thái và chức năng đồng thời hình thành những đường liên hệ thần
kinh tạm thời. Đó là cơ sở của việc nâng cao năng lực vận động. Tuy nhiên, để
nâng cao được năng lực vận động cần phải có “ hiệu quả tích lũy” của những
biến đổi này.

Liên tục, thường xuyên không có nghĩa là luyện tập không có quãng nghỉ.
Ngược lại, quãng nghỉ là một thành phần của vận động. Chính sự luân phiên hợp
lý giữa tập luyện và nghỉ ngơi là điều kiên để đảm bảo tính liên tục.
III.Ảnh hưởng của việc áp dụng nguyên tắc toàn diện vào bài tập thể dục
thể thao:

10


Cải thiện tâm trạng: Thường xuyên rèn luyện thể chất giúp tăng năng
lượng và giúp bạn tránh rơi vào tình trạng căng thẳng, trầm cảm. Vận
động giúp sản sinh các hoócmôn đem lại cảm giác thư thái, vui vẻ.
Cải thiện trí nhớ: Nhiều nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa tập thể
dục và trí nhớ tốt hơn. Tập thể dục giúp bạn trì hoãn tình trạng mất trí nhớ
do tuổi tác.
Bảo vệ chức năng nhận thức: Hoạt động thể chất thường xuyên có thể giúp
duy trì sắc bén các kỹ năng lập luận, suy nghĩ và học tập, thậm chí khi bạn
có tuổi, theo nhiều chuyên gia sức khỏe. Một số nghiên cứu khoa học chỉ
ra rằng tập thể dục là một cách để cải thiện trí nhớ và sức khỏe trí não ở
người có tuổi.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng hoạt động thể chất có thể giúp trì hoãn
bệnh Alzheimer (một dạng bệnh mất trí nhớ) ở người lớn tuổi và không
bao giờ là quá muộn để bắt đầu tập thể dục.
Giữ trí não sắc bén: Mỗi khi chưa tìm được giải pháp cho vấn đề nào đó
hoặc gặp khó khăn để đưa ra quyết định, hãy thực hiện một số bài tập thể
dục.
Nhiều nghiên cứu cho thấy tập thể dục cải thiện chức năng não gần như
ngay lập tức và về lâu về dài tạo ra những tác động tích cực. Theo nghiên
cứu của Trường Y Harvard (Mỹ), tập thể dục là giải pháp ưu tiên hàng đầu
giúp đưa ra quyết định, lập kế hoạch đúng đắn cũng như tiếp nhận thông

tin mới.

11


Kết luận
Mục đích của giáo dục thể chất được xây dựng trên cơ sở nhu cầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với mục đích giáo dục chung. Một trong những
nhân tố khách quan cơ bản để xây dựng mục đích giáo dục thể chất là những yêu
cầu của nền sản xuất xã hội đòi hỏi con người phát triển toàn diện về thể chất và
tinh thần.
Mục đích của nền thể dục thể thao Việt Nam là tăng cường thể chất nhân
dân nâng cao trình độ thể thao, góp phần làm phong phú đời sống văn hóa và
giáo dục con người để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sự hoàn thiện về thể hình và tư thế thân thể làm ngoại hình thêm đẹp phần
nào cũng phản ánh mức hoàn thiện về chức năng. Ngày nay người ta mà đặc biệt
là tầng lớp sinh viên đông đảo coi đó cũng thể hiện một phần bộ mặt tinh thần,
văn minh của một dân tộc.
Nâng cao trình độ thể thao của đất nước, từng bước vươn lên những đỉnh
cao quốc tế, trước hết là khu vực. Trình độ thể thao từng nước thể hiện qua các
cuộc thi đấu quốc tế không chỉ phản ánh trình đội thể dục thể thao mà còn trên
một số ý nghĩa nào đó còn phản ánh sự phát triển về chính trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục và bộ mặt tinh thần của dân tộc. Do vậy, trong khu thực hiện các nhiệm
vụ thể dục thể thao trên, từng bộ phận, từng người cần nắm rõ chuyên môn cụ
thể của chính mình, không thiếu, lẫn lộn, thay thế hoặc bỏ qua
Áp dụng linh hoạt nguyên tắc toàn diện vào bài tập thể dục thể thao của
mình để đem lại lại hiệu quả cao nhất trong các hoạt động vui chơi giải trí, lao
động chân tay, lao động trí óc đặc biệt là trong quá trình học tập

12



13



×