Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Ixrael- sự tạo lập các quốc gia đương đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.9 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
I. Sự tạo lập quốc gia Israel đương đại.........................................................2
II.Tình hình phát triển kinh tế xã hội từ ngày lập quốc đến nay...................4
1. Giai đoạn 1948 đến1972...............................................................................4
2. Giai đoạn1973đến cuối thập niên 80............................................................6
3. Giai đoạn1990 đến 2014...............................................................................8
III. Căn nguyên sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Israel......................10
IV. Kết luận.......................................................................................................18

1


Mở đầu
Từ ngày lập quốc đến nay,đất nước Israel đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh và
nhiều biến động về chính trị và kinh tế.Tuy nhiên nền kinh tế Israel vẫn là một nền
kinh tế phát triển.Trong khuôn khổ bài thuyết trình này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu
về tình hình kinh tế xã hội của Israel từ ngày lập quốc đến nay và căn nguyên để
nền kinh tế Israel đat được thành tựu như ngày nay.
Nội dung
I.Sự tạo lập quốc gia Israel đương đại
Lúc đầu danh xưng Palestin baogồm cả vùng lãnh thổ của cả Ixraelvà Jordani ngày
nay, thuộc quyền ủy trị của Anh theo hòa ước Xevrơ.
Làn sóng di cư cận đại đầu tiên của người Do Thái tới Israel, hay Aliyah (‫ )עלייה‬bắt
đầu năm 1881 khi họ trốn chạy khỏi sự ngược đãi, hay đi theo những tư tưởng xã
hội Zion của Moses Hess và những người khác về "sự cứu rỗi của đất đai". Những
người Do Thái mua đất đai từ người Ottoman và những chủ đất người Ả Rập khác.
Sau khi người Do Thái đã lập nên những khu định cư nông nghiệp, căng thẳng nảy
sinh giữa người Do Thái và người Ả Rập.
Theodor Herzl (1860–1904), một người Do Thái đến từ Áo, đã lập ra Phong trào
Zion. Năm 1896, ông xuất bản cuốn Der Judenstaat(Quốc gia Do Thái), trong đó
kêu gọi thành lập một nhà nước Do Thái. Năm sau đó, ông góp phần triệu tập Hội


nghị Zion quốc tếđầu tiên.
Sự thành lập chủ nghĩa phục quốc Do Thái dẫn tới Aliyah thứ hai (1904–1914) với
số người Do Thái lên tới khoảng 40.000 người. Năm 1917, Bộ trưởng ngoại giao
Anh Arthur J. Balfour đưa ra Tuyên bố Balfour "ủng hộ việc thành lập tại vùng đất
Do Thái cũ đã bị người Palestine chiếm một nhà nước quê hương cho những người
dân Do Thái". Năm 1920, vùng này được giao cho Hội Quốc Liên và được quản lý
bởi Anh.
Làn sóng di cư của người Do Thái lại tiếp tục lần thứ ba (1919–1923) và lần thứ
tư (1924–1929) sau Thế chiến thứ nhất. Những cuộc bạo động ở Palestine năm
1929 của người Ả Rập đã giết chết 133 người Do Thái, gồm 67 người ở Hebron.
Sự trỗi dậy của Chủ nghĩa Phát xít năm 1933 dẫn tới làn sóng Aliyah thứ năm.
Người Do Thái trong vùng tăng từ 11% của dân số năm 1922 lên tới 30% năm
2


1940. Việc tàn sát người Do Thái có tính chất diệt chủng ở châu Âu của Adolf
Hitler khiến người dân Do Thái ở mọi miền châu Âu trốn chạy tạo nên làn sóng tỵ
nạn mới. Tới cuối Thế chiến thứ hai, số lượng người Do Thái ở Palestine đã lên tới
xấp xỉ 600.000.
Năm 1939, Anh đưa ra Sách trắng năm 1939, hạn chế sự tỵ nạn của người Do Thái
trong thời gian diễn ra chiến tranh là 75.000 và hạn chế không cho người Do Thái
mua nhiều đất, có lẽ nguyên nhân do có cuộc Khởi nghĩa Ả Rập vĩ đại (19361939). Cuốn sách trắng này bị cộng đồng Do Thái và những người theo chủ nghĩa
phục quốc coi là phản bội, họ cho rằng nó trái ngược với Tuyên bố Balfour năm
1917. Người Ả Rập cũng không hoàn toàn hài lòng, họ muốn cuộc di cư của người
Do Thái phải dừng lại vĩnh viễn. Tuy nhiên, chính sách của Anh vẫn bám chặt vào
cuốn sách này cho tới tận cuối thời kỳ uỷ trị của họ.
Khi căng thẳng nổi lên giữa người Do Thái và người Ả Rập, và khi không có sự
ủng hộ rõ ràng của chính quyền cai trị Anh, cộng đồng Do Thái nhận ra rằng họ
phải tự lực để bảo vệ mình.
Sau những cuộc tấn công năm 1921 của người Ả Rập, Haganah được lập nên để

bảo vệ những người định cư Do Thái. Haganah nói chung chỉ có tính chất phòng
thủ, và đây là một trong những nguyên nhân khiến nhiều thành viên của nó ly khai
và lập ra Irgun (ban đầu được gọi là Hagana Beth) năm 1931. Irgun trung thành với
cách tiếp cận tích cực, gồm cả ám sát và khủng bố trong cách trả đũa những cuộc
tấn công và bắt đầu những hành động vũ trang chống lại người Anh, trong khi
Haganah thường tỏ ra ôn hoà hơn. Tính chất vũ trang của Irgun cũng được thể hiện
trong nhiều kế hoạch tấn công khủng bố chống lại người Ả Rập, gồm cả dân
thường. Một sự chia rẽ nữa lại diễn ra khi Avraham Stern rời Irgun để lập
nên Lehi. Không giống như Irgun, Lehi từ chối bất kỳ một hợp tác nào với người
Anh, thậm chí trong Thế chiến thứ hai, và những phương pháp hành động của
nhóm này tỏ ra cực đoan hơn.
Những nhóm đó có một ảnh hưởng lớn đến những sự kiện ở khoảng thời gian
trước chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, như Aliya Beth - cuộc di cư bí mật từ
châu Âu, sự thành lập Lực lượng Phòng thủ Israel và sự rút lui của người Anh,
cũng như việc thành lập những cơ chế nền tảng của các đảng chính trị vẫn còn tồn
tại ở Israel ngày nay.
3


Năm 1947 khi xung đột vũ trang ngày càng gia tăng với các nhóm quân sự Do Thái
và những nỗ lực hoà giải không thành công giữa người Do Thái và người Ả Rập,
chính phủ Anh quyết định rút khỏi lãnh thổ ủy trị Palestine của Hội Quốc Liên. Đại
hội đồng Liên hiệp quốc thông qua Kế hoạch phân chia năm 1947 của Liên hiệp
quốc chia lãnh thổ đó làm hai quốc gia, với vùng Do Thái khoảng 55% diện tích
5.500 dặm chủ yếu là sa mạc . Và vùng Ả Rập khoảng 45% diện tích với 4,500
dặm. Theo kế hoạch, Jerusalem sẽ trở thành một vùng do Liên hiệp quốc quản lý
để tránh xung đột về trạng thái của nó.
Ngay sau khi kế hoạch phân chia của Đại hội đồng Liên hiệp quốc được thông qua
ngày 29 tháng 10 năm 1947, David Ben-Gurion chưa dứt khoát chấp nhận nó,
trong khi Liên đoàn Ả Rập từ chối nó. Nhiều cuộc tấn công của người Ả Rập vào

dân cư Do Thái nhanh chóng biến thành xung đột khắp nơi giữa người Ả Rập và
người Do Thái, các xung đột này là giai đoạn đầu tiên của Chiến tranh giành độc
lập năm 1948.
Ngày 14 tháng 5 năm 1948, trước khi hết thời hạn uỷ trị của Anh tại Palestine vào
lúc nửa đêm ngày 15 tháng 5 năm 1948, nhà nước Israel được tuyên bố thành lập.
Hoa Kỳ, Liên Xô và nhiều nước khác đã công nhận sự độc lập của Israel.
II.Tình hình phát triển kinh tế xã hội từ ngày lập quốc đến nay
1.Giai đoạn 1948 đến1972
Sau khi dành độc lập, Israel phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh
tế nghiêm trọng. Vừa phải phục hồi từ hậu quả của cuộc chiến tranh Ả RậpIsrael năm 1948, vừa phải tiếp nhận hàng trăm ngàn người tị nạn Do Thái từ châu
Âu và thế giới Ả Rập. Israel thiếu hụt tài chính nghiêm trọng và đối mặt với một
cuộc khủng hoảng kinh tế sâu sắc, dẫn đến chính sách thắt lưng buộc bụng từ năm
1949 đến 1959. Tỷ lệ thất nghiệp cao, dự trữ ngoại tệ khan hiếm.Trong khoảng
thời gian này chính phủ Israel đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm khắc phục tình
trạng này
Sau khi dành độc lập, ưu tiên của chính phủ là thiết lập các ngành công nghiệp ở
những khu vực dự kiến phát triển, trong đó có Lachish, Ashkelon, Negev và
Galilee.
4


Năm 1950, chính phủ Israel phát hành trái phiếu Israel dành quyền mua cho người
Do Thái ở Mỹ và Canada.Năm 1951, kết quả tổng kết chương trình trái phiếu được
hơn 52 triệu đô-la Mỹ. Bên cạnh đó, nhiều người Mỹ gốc Do Thái tổ chức quyên
góp cho Israel, riêng trong năm 1956, số tiền quyên góp lên tới 100 triệu đô-la Mỹ.
Năm 1957, việc bán trái phiếu đóng góp đến 35% ngân sách phát triển đặc biệt của
Israel.
Năm 1952, Israel và Tây Đức đã ký thỏa thuận quy định Tây Đức phải bồi thường
cho Israel vì cuộc thảm sát người Do Thái cũng như bồi thường cho tài sản của
người Do Thái bị đánh cắp bởi Đức quốc xã. Trong 14 năm sau đó, Tây Đức bồi

thường cho Israel 3 tỷ đồng Mác. Khoảng bồi thường đã trở thành cứu cánh cho
nền kinh tế Israel, chiếm đến 87,5% thu nhập của Israel năm 1956.
Các nguồn tài chính kể trên được đầu tư vào các dự án công nghiệp và nông
nghiệp, tạo điều kiện cho Israel thoát khỏi sự phụ thuộc vào các nguồn bên ngoài.
Trong số các dự án được đầu tư từ tiền viện trợ có nhà máy năng lượng Hadera,
công ty Dead Sea Works, hệ thống Thủy lợi Quốc gia ở Haifa, Ashdod và Eilat,
nhà máy khử mặn cho nước, cùng với các dự án hạ tầng quốc gia khác.
Mặt khác,chính phủ hầu như không có nỗ lực nào để khuyến khích sự phát triển
của khối kinh tế tư nhân, thậm chí còn phản đối kịch liệt thói tư lợi. Chính phủ can
thiệp cứng rắn của vào nền kinh tế , điều đó đóng góp đáng kể cho hiệu quả chung.
Bất cứ nền kinh tế sơ khai, non trẻ nào cũng đều mở ra nhiều cơ hội thu lợi nhuận
khi đầu tư quy mô lớn: đường sá, hệ thống cấp thoát nước, cảng biển, nhà máy xí
nghiệp sản xuất, mạng lưới điện, xây dựng dân dụng…
Chính phủ Israel tổ chức các dự án lớn này, một điển hình thành công là chương
trình xây nhà cho các xã viên hợp tác xã nông nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát
triển của ngành công nghiệp xây dựng của quốc gia.
Nhờ các biện pháp của chính phủ,các yếu tố thuận lợi từ bên ngoài,sự quyết tâm
của người dân,nền kinh tế có bước phát triển đặc sắc, đời sống nhân dân được cải
thiện:
Trong hai thập niên đầu từ khi giành được độc lập, bằng lòng quyết tâm Israel đã
thúc đẩy tỷ lệ phát triển kinh tế lên hơn 10% mỗi năm.

5


Mức sống bình quân tăng nhanh, từ năm 1950 đến 1963 bình quân chi tiêu của
tầng lớp làm công ăn lương tăng 97%.Và tính cả giai đoạn nàyGDP bình quân đầu
người tăng gần 4 lần trong khi dân số tăng gấp 3.
Từ giữa thập niên 1960,nhà nước đã thực hiện việc chuyển đổi mô hình kinh tế, từ
quản lý tập trung sang kinh tế tư nhân.Và đó cũng là giai đoạn mà các công trình

hạ tầng cơ sở của đất nước đã được hoàn tất.
Không những thế, chính cuộc chiến 6 ngày, từ ngày 6-6-1967 đã giúp Israel chiếm
đóng được Bờ Tây, dải Gaza, bán đảo Sinai và cao nguyên Golan, tăng diện tích
đất nước lên hơn 3 lần so với trước. Đột nhiên, chính phủ Israel lại phải đối mặt
với thách thức một lần nữa: các dự án hạ tầng quy mô lớn. Chi phí cho quốc phòng
cũng tăng vọt theo tốc độ tăng diện tích đất nước, lại phải có một gói “kích thích
kinh tế” khổng lồ.
Và đúng vậy, trị giá đầu tư cho xây dựng hạ tầng cơ sở tại Israel tăng trưởng 725%
trong giai đoạn 1967–1968.
Trong giai đoạn này,Isarel phải đối mặt với một số cuộc chiến tranh,cũng như sự
chống đối của người Ả Rập:
1948, chiến tranh Ả Rập-Israel
Từ 1968 đến 1972 là giai đoạn được gọi là Chiến tranh tiêu hao, nhiều cuộc chiến
nhỏ xảy ra dọc biên giới giữa Israel và Siria, Ai Cập.
Không những thế,những năm đầu thập kỷ 1970 Israel phải đối mặt với làn sóng tấn
công mạnh mẽ nhất từ trước đến giờ của các nhóm vũ trang Palestine nhằm vào
Israel và các mục tiêu của người Do Thái ở các nước khác. Đỉnh điểm của làn sóng
này là vụ tấn công vào Thế vận hội Mùa hè 1972 tại München. Trong cuộc Thảm
sát tại München, các phần tử vũ trang Palestine đã bắt làm con tin và giết hại các
thành viên đoàn thể thao Israel. Israel trả đũa bằng chiến dịch sự giận dữ của Chúa
trời, trong đó các nhân viên Mossad đã ám sát hầu hết những người có tham gia
vào vụ thảm sát.
2.Giai đoạn1973đến cuối thập niên 80

6


Năm 1973 Israel lại phải chiến đấu với Ai Cập. Lần này, cuộc chiến đã không
mang lại sự bùng nổ kinh tế. Israel gánh chịu nhiều tổn thất về con người (hơn
3,000 người chết và số lượng bị thương còn lớn hơn nhiều).

Lực lượng quân dự bị được điều động và như vậy đội ngũ làm kinh tế cũng bị ảnh
hưởng đáng kể. Hoạt động kinh doanh bị đình trệ. Đối phó với tình hình này, chính
phủ Israel đã tiến hành các khoản vay nợ nước ngoài, ngắn hạn và lãi suất cao, để
bù đắp sự thâm hụt ngân sách.
Một đặc điểm không thể bỏ qua trong công tác quản lý kinh tế giai đoạn này: nhà
nước độc quyền trên thị trường vốn. Lãi suất cho vay và đi vay trong đất nước do
Ngân hàng Nhà nước Israel quy định, chứ không thả nổi như các thị trường tự do ở
nhiều quốc gia khác. Các ngân hàng thương mại buộc phải mua trái phiếu chính
phủ hoặc phải tài trợ các khoản vay dự án của tư nhân, với tỷ suất lợi nhuận do
chính phủ quy định.
Điều kiện hạ tầng của đất nước cũng khá lạc hậu trong thời gian này: sân bay nhỏ,
đường sá hẹp và không có đường cao tốc, một đài phát thanh truyền hình duy nhất
do nhà nước quản lý. Israel trong thập niên bị đánh cắp mang màu sắc chủ nghĩa
tập thể na ná như nhà nước Xô Viết. Không ai có điện thoại bàn ở nhà riêng cả.
Không có siêu thị. Xe hơi rất hiếm hoi … Tình hình nhìn chung thật bi đát. Các
nguyên thủ quốc gia, nhất là ghế Thủ tướng bị thay đổi liên tục vì không làm được
việc.
Năm 1974, sau khi Meir từ chức, Yitzhak Rabin trở thành thủ tướng thứ năm của
Israel. Sau đó, trong cuộc bầu cử Knesset(nghị viện của nhà nước Israel)
năm 1977, Ma'arach đảng cầm quyền từ năm 1948, đã tạo ra một cơn bão chính trị
khi rời khỏi chính phủ. Đảng Likudmới, do Menachem Begin lãnh đạo trở thành
đảng cầm quyền.
Những năm cuối thập kỷ 1980 là sự di chuyển quyền lực liên tục giữa cánh hữu do
Yitzhak Shamir lãnh đạo cho cánh tả của Shimon Peres. Ví dụ, Peres là thủ tướng
từ năm1984, nhưng đã trao lại chức vụ cho Shamir năm 1986. Sau đó Phong trào
Intifadah thứ nhất nổ ra năm 1987 kéo theo nhiều làn sóng bạo lực ở những vùng
lãnh thổ bị chiếm đóng. Sau khi cuộc bạo động bùng phát, Shamir một lần nữa lại
được bầu làm thủ tướng năm 1988.

7



Cuối thập niên 70,đầu thập niên 80 Israel trải qua cơn siêu lạm phát: 111% trong
năm 1979 và tỷ lệ này là 113% trong năm 1980. Sang năm 1984 thì mức lạm phát
là 445%.và được dự đoán là lên tới 1000% trong năm sau đó. Có câu chuyện vui
mà người ta vẫn kể: Nếu muốn đi từ Tel Aviv sang Jerusalem thì tốt hơn là bạn hãy
đi taxi, bởi vì đi xe bus nghĩa là phải trả tiền trước, còn đi taxi thì trả tiền sau và
trong thời gian đi đường thì giá trị đồng tiền đã giảm đi nhiều. Nguyên nhân lớn
của tình trạng siêu lạm phát này là: chính phủ vận dụng sai lầm một công cụ kìm
chế lạm phát, đó là chỉ số giá tiêu dùng CPI. Mọi thứ trong nền kinh tế – tiền
lương, giá cả, chi phí thuê …. Đều gắn liền với chỉ số CPI. Thoạt đầu chính phủ sử
dụng CPI để làm cho công chúng không cảm thấy sợ hãi lạm phát: lương tăng theo
giá cả thị trường. Nhưng cũng chính CPI đã dẫn đến vòng xoáy siêu lạm phát khi
sản xuất trong nước bị đình trệ.
Để vực dậy nền kinh tế, vào năm 1985 chính phủ Israel đã đề ra một kế hoạch khôi
phục kinh tế và đã bước đầu thành công.
Trong giai đoạn này,một hệ thống y tế quốc gia được đưa ra, dù các nhà cung cấp
dịch vụ chăm sóc y tế tư nhân vẫn tiếp tục tham gia vào trong hệ thống y tế quốc
gia. Các khoản chi phí xã hội, như trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp cho trẻ em, trợ cấp
cho người già và hỗ trợ thu nhập tối thiểu, được mở rộng liên tục.
3.Giai đoạn1990 đến 2014
Trong giai đoạn này,làn sóng người Do Thái hồi hương, chủ yếu là từ các nước
thuộc Liên Bang Sô-viết, mang hơn 1 triệu công dân mới tới Israel. Những người
nhập cư này, nhiều người trong số họ có học thức cao, ngày nay chiếm 16% trong
dân số 7,5 triệu của Israel.
Tiến trình hòa bình được bắt đầu ở hội nghị Madrid tháng 10 năm 1991, dẫn tới
việc ký kết thỏa thuận và sau đó là hiệp ước hòa bình giữa Israel và Jordan (1994).
Những năm đầu thập kỷ 2000,nền kinh tế Israel tụt dốc vì sự đổ vỡ của bong bóng
dot-com, nhiều công ty khởi nghiệp trong thời kỳ đỉnh cao của bong bóng dot-com
đã phải phá sản. Cùng với phong trào nổi dậy lần thứ hai của người

Palestine- Intifada, tiêu tốn của Israel hàng tỷ đô la cho chi phí an ninh, sự sụt giảm
của đầu tư và du lịch, đã khiến tỷ lệ thất nghiệp ở Israel lên tới 2 con số.

8


Trong năm 2002 nền kinh tế Israel suy giảm trong 1 quý khoảng 4%. Sau đó kinh
tế Israel đã có sự hồi phục đáng kể bằng cách mở các thị trường mới cho các nhà
xuất khẩu Israel như là các nước mới nổi ở Đông Á cũng như là sự hồi phục của
lĩnh vực công nghệ khi cuộc khủng hoảng dot-com chạm đáy và việc sử dụng
internet toàn cầu tăng tạo ra nhu cầu phần mềm, song song đó là nhu cầu các sản
phẩm an ninh quốc phòng kể từ sau vụ khủng bố 11 tháng 9. Tất cả các nhu cầu
này Israel đều sẵn sàng đáp ứng vì đã có sự đầu tư sớm trong các lĩnh vực này,
điều này giúp giảm dần tình trạng thất nghiệp trong nước.
Những năm gần đây một làn sóng chưa từng có các khoảng đầu tư nước ngoài đổ
vào Israel, các công ty trước đây xa lánh Israel nay thấy được tiềm năng đóng góp
của Israel vào các chiến lược toàn cầu của họ. Năm 2006, tổng đầu tư nước ngoài
vào Israel là 13 tỷ đô-la, theo số liệu của Hiệp hội Các Nhà sản xuất Israel. Thời
báo Tài chính (Financial Times) nhận xét "bom vẫn rơi, kinh tế Israel vẫn tăng
trưởng". Ngoài ra, trong khi tổng nợ nước ngoài của Israel là 95 tỷ USD, xấp xỉ
41,6% GDP, kể từ 2001 nước này đã trở thành một quốc gia cho vay ròng với
thặng dư tính ở thời điểm tháng 6 năm 2012 là 60 tỷ USD. Israel cũng duy trì thặng
dư tài khoản vãng lai bằng khoảng 3% tổng sản phẩm nội địa.
Khoa học và công nghệ là một trong những lĩnh vực phát triển cao và có mức độ
công nghiệp hóa mạnh nhất ở Israel. Phần trăm số lao động Israel tham gia vào
lĩnh vực khoa học và công nghệ, cũng như tỷ lệ số vốn bỏ vào nghiên cứu và phát
triển trong tổng sản phẩm quốc nội đứng hàng đầu thế giới. Israel đứng thứ 4 trên
thế giới về số công trình khoa học tính trên một triệu dân. Tỷ lệ phần trăm số bài
báo khoa học xuất phát từ Israel trên tổng số bài báo khoa học của thế giới gấp 10
lần tỷ lệ phần trăm của dân số Israel trong tổng dân số thế giới. Israel có tỷ lệ trung

bình số nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật và kỹ sư trên 10 ngàn lao động cao nhất
thế giới: 140 người. Tỷ lệ này ở Mỹ là 85 và ở Nhật là 83 người trên 10.000 lao
động.
Các nhà khoa học Israel đã đóng góp cho sự tiến bộ trong các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, khoa học nông nghiệp, khoa học máy tính, điện tử, nghiên cứu gen, y
dược, quang học, năng lượng mặt trời và nhiều lĩnh vực kỹ thuật khác. Israel có cơ
sở của nhiều công ty công nghệ cao hàng đầu và có một dân số hiểu biết nhiều về
kỹ thuật. Năm 1998, Tel Aviv được tạp chí Newsweek bình chọn là một trong 10
thành phố có ảnh hưởng mạnh nhất đến kĩ thuật của thế giới. Năm 2012, thành phố
9


được gọi là nơi tốt thứ nhì cho các doanh nghiệp công nghệ mới khởi nghiệp, đứng
sau Thung lũng Silicon ở Mỹ. Năm 2013, Tel Aviv một lần nữa được tạp chí
Boston Globe của Mỹ xếp thứ 2 trong số các thành phố tốt nhất cho doanh nghiệp
mới khởi nghiệp, sau Thung lũng Silicon. Israel vẫn tiếp tục là trung tâm lớn nhất
thế giới cho các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao với 200 doanh
nghiệp mới được thành lập hàng năm.
Tháng 5 năm 2007, Israel được mời tham dự các phiên thảo luận mở với
OECD. Tháng 5 năm 2010, các nước thành viên OECD đã biểu quyết nhất trí việc
mời Israel tham gia, bất chấp phản đối từ phía Palestine. Israel trở thành thành viên
chính thức từ ngày 7 tháng 9 năm 2010. OECD ca ngợi thành quả nghiên cứu khoa
học và công nghệ và mô tả Israel có một "thành tích vượt trội so với mặt bằng
chung của thế giới".
Năm 2012, Israel xếp thứ 26 trong Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn
Kinh tế Thế giới, thứ 16 trên 187 quốc gia trong Chỉ số Phát triển Con người của
Liên Hiệp Quốc, được xếp vào nhóm "phát triển rất cao". Nền kinh tế Israel cũng
đứng thứ 17 trong số các nước có nền kinh tế phát triển nhất theo xếp hạng trong
Niên giám Cạnh tranh Toàn cầu của IMD. Kinh tế Israel được xem là nền kinh tế
vững vàng nhất trong các cuộc khủng hoảng, và đứng đầu về tỉ lệ chi tiêu cho

nghiên cứu và phát triển
Năm 2014 chỉ số GDP là 286,840 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người là 35.833
USD/người
Như vậy hiện naynền kinh tế Israel là một nền kinh tế phát triển và năng động.Nếu
chúng ta tính từ khi mới lập quốc đến nay thì nền kinh tế Israel đã phát triển đến 60
lần.Đó quả là sự phát triển thần kì của nền kinh tế Israel.
III.Căn nguyên sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Israel
Thứ nhất, căn nguyên của sự phát triển thần kì của nền kinh tế Israel phải kể đến
từ trước đó rất lâu và gắn liền với những cái tên như Ben-Gurion,Moshe
Novomeysky.
Trong thập niên 1880, một nhóm dân Do Thái đi tìm đất định cư đã tìm đến một
thị trấn – tên là Petach Tikva, cách Tel Aviv ngày nay chỉ vài dặm. Họ đã sống
10


trong lều tạm, gieo trồng cây bạch đàn và rễ cây này đã hút nước trong những vùng
đầm lầy xung quanh, tạo nền đất vững chắc cho cuộc sống của cộng đồng sau đó.
Nhiều người Israel khác đã tìm đến khu vực này sinh sống. Trong số đó có một
luật sư gốc Do Thái, 20 tuổi, đến từ Ba Lan tên là David Gruen. Anh đến Tikva
năm 1906, và lấy tên Do Thái của mình là Ben-Gurion. Các hoạt động của Ben
Gurion giai đoạn này đã khiến anh trở thành một trong những người đầu tiên có
công xây dựng nên nhà nước Israel nói chung và cải tiến nền kinh tế Israel nói
riêng.
Ben-Gurion là người có tầm nhìn xa.Ôngtập trung các cộng đồng Do Thái tị nạn
quanh các thành phố lớn, như Jerusalem, Tiberias hay Safed chẳng hạn, vì ông biết
chắc đây mới là cách đúng để có thể hình thành một nhà nước Israel trong tương
lai.
Năm 1911 cuộc khảo sát Biển Chết lần đầu tiên, thực hiện bởi kỹ sư người Nga
gốc Do Thái Moshe Novomeysky, dẫn tới việc thành lập công ty trách nhiệm hữu
hạn Palestine Potash năm 1930, sau đó được đổi tên là Dead Sea Works. Năm

1923, Pinhas Rutenberg được cấp phép độc quyền sản xuất và phân phối điện. Ông
thành lập Công ty Điện lực Palestine, tiền thân của Tập đoàn Điện lực Israel. Giữa
các năm 1920 và 1924, một vài trong số các nhà máy lớn nhất nước được thành
lập, trong đó có công ty Shemen Oil, Societe des Grand Moulins, công ty Palestine
Silicate và công ty muối Palestine. Năm 1937, có 86 nhà máy kéo sợi và dệt trong
nước, tuyển dụng 1.500 lao động. Vốn và kĩ thuật được cung cấp bởi các chuyên
gia gốc Do Thái ở châu Âu. Nhà máy dệt may Ata ở Kryat Ata, sau này trở thành
biểu tượng của ngành dệt may Israel, được thành lập năm 1934. Ngành này phát
triển nhanh trong Thế chiến thứ 2, khi nguồn hàng từ châu Âu sụt giảm do các nhà
sản xuất phải phục vụ cho nhu cầu quân đội. Đến năm 1943, số lượng các nhà máy
tăng lên đến 250, với số nhân công 5.630, và số sản phẩm tăng gấp mười lần trước
đó. Từ năm 1924, các hội chợ thương mại được tổ chức tại Tel Aviv.
Những công ty này chính là nền tảng cho sự phát triển của kinh tế Israel sau này.
Thứ hai, sự phát triển của nền kinh tế không thể không kể đến chính sách nhập cư
của chính phủ,cũng như làn sóng nhập cư vào đất nước này.
Năm 1984, cậu bé Shlomo Molla mới 16 tuổi đã quyết định đi từ ngôi làng nhỏ của
mình ở phía bắc Ethiopia để sang Israel, cùng với 17 người bạn đồng trang lứa
11


khác. Ngôi làng của cậu đang ở là một làng hẻo lánh xa xôi, biệt lập với thế giới
hiện đại.
Cậu cũng là người gốc Do Thái, đã cùng gia đình tha hương đến làng này. Các
thiếu niên đi bộ theo hướng bắc, để tìm đến Jerusalem, sau khi vượt qua Sudan, Ai
Cập và sa mạc Sinai bằng chính đôi chân của họ. Vượt qua chặng đường dài hơn
500 dặm, họ đến biên giới Sudan, tại đây có một thiếu niên bị lính biên phòng
Sudan hạ sát khi vượt biên giới. Số còn lại đều bị bắt, giam giữ và tra tấn trong 91
ngày.
Sau đó 17 thiếu niên được giao sang 1 trại tị nạn trong lãnh thổ Sudan, nơi đây
Molla gặp một người da trắng. Ông ta nói “tôi biết các cậu là ai và muốn về đâu,

tôi đến để giúp các cậu.” Sau đó, các thiếu niên này cùng với hàng trăm người
Ethiopia khác được dồn vào một máy bay và bay sang Israel. Đây là một nỗ lực
trong chiến dịch Moses – mang hơn 8,000 người Ethiopia gốc Do Thái trở về tổ
quốc Israel. Tuổi trung bình của nhóm này là 14.
Sau chiến dịch Moses, Israel mở tiếp chiến dịch Solomon và đón về đất nước thêm
14,500 người Ethiopia gốc Do Thái nữa, cũng bằng đường hàng không. Một kỷ lục
bay đã được thiết lập trong 1 chuyến bay từ Ethiopia về Israel: trên chiếc El Al
747, có đến 1,122 hành khách (máy bay được thiết kế để chở tối đa 760 người)!
Tính đến cuối thập niên 90, tổng cộng khoảng 40 ngàn người Ethiopia gốc Do Thái
được nhập cư vào Israel. Cùng thời gian này, rất nhiều người Do Thái đang sống
tại những nước thuộc Liên bang Xô Viết (cũ)cũng quay về tổ quốc…
Những người nhập cư này đã đem lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế Israel.Như
Gidi Grinstein đã từng nói những người nhập cư là những người gánh chịu rủi ro.
Một quốc gia của những người nhập cư là một đất nước của các doanh nhân.Thật
vậy,dòng người nhập cư này không giàu có gì mấy, họ phải chấp nhận rủi ro và bắt
đầu lại cuộc sống từ đầu. Đó là lý do tại sao Israel xuất hiện rất nhiều doanh
nghiệp nhỏ, mới thành lập. Nguyên nhân là các động cơ mang tính kinh tế. Hãy
xem xét : các công dân Tây Âu, xuất thân trong những gia đình danh giá, có học và
sau khi học xong họ thường làm việc trong các cơ quan tổ chức đã có tên tuổi, chứ
không mạo hiểm tự tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của riêng mình. Cần gì
phải tạo dựng cái mới? Tại Israel thì khác.

12


Đây là nơi của những người nhập cư. Họ cần tạo dựng từ đầu. Những người nhập
cư phải nhận lãnh rủi ro, và đất nước của những người nhập cư luôn luôn là đất
nước của các doanh nghiệp mới thành lập, quy mô nhỏ.Và cũng chính vì vậy động
lực cho họ làm việc cũng lớn hơn nhiều so với người bình thường,và với động lực
đó sẽ làm cho nền kinh tế phát triển nhanh.

Mặt khác một bộ phận không nhỏ những người nhập cư vào Israel là những người
có tri thức cao, họ đóng góp rất nhiều cho nền kinh tế Israel.
Ngôi trường trung học Shevach-Mofet tại Tel Aviv một hôm trở nên nhộn nhịp: có
2 người Mỹ đến thăm trường. Họ đi vào bằng cửa sau của trường, bắt tay báo giới
và thông tin cho biết: họ chỉ dừng lại Israel tại 2 nơi: văn phòng Thủ tướng và
trường trung học này mà thôi.
Cả hội trường đầy ắp học sinh và thầy cô giáo đồng loạt reo hò, vỗ tay tán thưởng
khi nhận ra 2 người khách Hoa Kỳ này là Sergey Brin và Larry Page – 2 sáng lập
viên, chủ sở hữu của Google (trang web tìm kiếm lớn nhất thế giới hiện nay).
Sergey Brin, nói bằng tiếng Nga “các bạn biết không, tôi nhập cư vào nước Nga
khi 6 tuổi, cha tôi là một giáo sư môn Toán và tôi đến thăm ngôi trường của các
bạn vì vừa được biết tin có 7 học sinh ở đây năm trong số 10 em giỏi Toán nhất
nước Israel. Tôi biết, trường Shevach-Mofet là trường trung học danh tiếng, điều
kiện nhập học rất khắt khe, dành cho các học sinh người Nga, gốc Do Thái. Điều
mà tôi muốn hỏi là: vậy thì 3 em học sinh giỏi kia đến từ các trường nào khác?”
Sự thật là từ đầu thập niên 1990, khi Liên Xô tan rã, làn sóng nhập cư vào Israel từ
các nước cộng hòa thành viên cũ trở nên ồ ạt với số lượng lớn hơn bao giờ hết.
Ngôi trường này phát triển nhanh chất lượng giáo dục đào tạo là nhờ những người
nhập cư từ Nga, họ giỏi các môn khoa học như Toán, Vật Lý và truyền thụ kiến
thức cho học sinh một cách hiệu quả, luôn cả người lớn nếu sẵn lòng đi học các lớp
ban đêm.
Một người Nga gốc Do Thái giải thích “đối với những đứa con của Israel được ra
đời tại nước Nga, lớn lên bằng dòng sữa mẹ thì chúng tôi thấu hiểu rằng “cần phải
trở thành một ngoại lệ vượt trội trong bất cứ bộ môn nào: toán học, âm nhạc, cờ
hay y khoa …. bởi vì mình là người Do Thái. Đó là cách duy nhất để tự bảo vệ
mình. Người Do Thái ở Nga trong mọi tình huống, lĩnh vực đều chịu sự phân biệt
đối xử và phải chịu bất lợi trước dân gốc Nga.” Vậy nên ở nước Nga, dân gốc Do
13



Thái chỉ chiếm 2% tổng dân số nhưng 30% bác sĩ, 20% kỹ sư Nga là người gốc Do
Thái.
Giữa thập niên 1990, khi dòng người Nga gốc Do Thái nhập cư ồ ạt về cố quốc
cũng là lúc thế giới diễn ra sự bùng nổ trong lĩnh vực công nghệ cao, và khối kỹ
thuật tư nhân tại Israel đang khao khát các kỹ sư. Hiện nay giới kỹ sư của Israel
cũng có tỷ lệ người nói tiếng Nga rất cao.
Thứ ba,sự phát triển nền kinh tế Israel gắn liền với cộng đồng Do Thái ở nước
ngoài.Nói một cách chính xác hơn đó là chính sách luân chuyển chất xám thông
minh của chính phủ Israel.
Tại hội thảo CISCO 2004 (tập đoàn máy tính viễn thông hàng đầu thế giới), CEO
John Chambers phát biểu “chúng ta đã có những thành tựu nhảy vọt, từ khi thiết bị
router lần đầu tiên được giới thiệu cách đây 20 năm.” Router là một thiết bị trong
hệ thống máy tính, tương tự như modem, có công dụng liên kết các máy con vào
mạng lưới Internet. Nếu coi Internet là một dòng sông của các dữ liệu thông tin, thì
router là thiết bị ở các nhánh sông nhỏ, chúng quyết định lưu lượng thông tin chảy
vào từng hệ thống và các máy tính cá nhân.
Trên thế giới chỉ có vài doanh nghiệp có khả năng sản xuất chế tạo được router
chất lượng cao và CISCO là đơn vị đầu ngành – cũng như Microsoft dẫn đầu lĩnh
vực phần mềm và Intel bá chủ trong mảng chip vi xử lý. Chambers sau đó trình
bày về router mới nhất – CRS-1 với thời gian nghiên cứu là 4 năm và tổng kinh phí
là 500 triệu dollar, đạt dung lượng 92 tetrabit mỗi giây.
Khó có thể tin nổi! Như vậy nếu sử dụng router CRS-1 thì người ta có thể tải về
máy tính của mình (download) toàn bộ Thư viện của Quốc hội Mỹ chỉ trong vòng
4.6 giây đồng hồ. Trong khi nếu sử dụng modem cũ thì phải mất đến 82 năm trời.
Một trong các tác giả khởi xướng nên CRS-1 là Michael Laor – một người gốc Do
Thái. Anh từng làm việc cho CISCO 11 năm và trở thành Giám đốc Kỹ thuật và
Kiến trúc mạng. Năm 1997 anh quyết định quay về tổ quốc Israel. CISCO không
muốn anh ra đi, trong khi Michael sẵn sàng từ bỏ một vị trí quản lý hàng đầu trong
một tập đoàn hàng đầu thế giới. Vậy là CISCO tìm ra giải pháp: đồng ý để Michael
Laor được thành lập một trung tâm R&D của CISCO tại Israel – một trung tâm đầu

tiên của tập đoàn danh tiếng này nằm ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ.
14


Laor bắt đầu tranh luận về nhu cầu của một thiết bị router chất lượng cao, bất chấp
có nhiều ý kiến phản đối kiểu như “ai mà cần thứ thiết bị với dung lượng khủng
khiếp đến thế?” Nhưng Laor đã nhận ra nhu cầu lưu chuyển thông tin dung lượng
lớn trên Internet, khi người ta muốn tải nhiều hình ảnh, video và các trò chơi. Đến
năm 2004, tại hội thảo CISCO, khi anh trình bày router CRS-1 này thì quả thực
toàn tập đoàn phải công nhận anh và nhóm nghiên cứu Israel đã nâng tầm công
nghệ lên một trình độ mới. Giá bán của sản phẩm này là 2 triệu dollar, và khi tung
ra thị trường nó đang mang về doanh thu rất lớn cho CISCO.
Đến năm 2008, CISCO đã mua lại tổng cộng 9 doanh nghiệp nhỏ, mới thành lập tại
Israel – số lượng cao nhất mà tập đoàn này từng mua lại ở nước ngoài, đồng thời
bộ phận đầu tư của CISCO văn phòng chính cũng quyết định tăng tổng vốn đầu tư
cho nhóm Israel lên 150 triệu dollar. Điều này khiến CISCO tại Israel trở thành bộ
phận lớn nhất ở nước ngoài của tập đoàn, vượt xa CISCO Trung Quốc và CISCO
Ấn Độ. Phần lớn nguyên nhân đến từ quyết định “hồi hương” của Michael Laor
năm nào. Cũng như nhiều người Do Thái khác, Michael muốn hấp thu được tinh
hoa từ các kiến thức và trải nghiệm ở Hoa Kỳ, phục vụ cho tập đoàn đa quốc gia
CISCO và cũng muốn đóng góp cho nền kinh tế Israel.
Trong khi nhiều quốc gia khác trên thế giới phải khổ sở với hiện tượng “chảy máu
chất xám ra nước ngoài” thì Michael Laor đã minh chứng rằng “dòng chảy chất
xám, tri thức không phải là luôn luôn một chiều hướng ra nước ngoài, vẫn có
những dòng chảy về Tổ quốc.”
Thực ra nhiều nhà nghiên cứu vấn đề nhập cư quốc tế đang ngày càng chú ý hơn
đến hiện tượng mà họ gọi là “luân chuyển chất xám”: các nhân tài của quốc gia đi
ra nước ngoài định cư để sau đó quay về phục vụ Tổ quốc. Trung Quốc, Ấn Độ và
Israel đều thụ hưởng được các thành tựu từ phát triển vượt bậc về đầu tư và công
nghệ, do sự lãnh đạo của 3 quốc gia này với những chính sách dành cho công dân

ở nước ngoài, đặc biệt trong 2 thập niên vừa qua.
Israel đi đầu trong chiến lược này, quốc gia đã bắt đầu triển khai từ cuối thập niên
1980, trong khi Trung Quốc và Ấn Độ chỉ mới thực hiện khoảng đầu những năm
2000. Trong lĩnh vực công nghệ cao, thậm chí giới nghiên cứu còn đặt riêng một
cái tên “Argonauts” cho nhóm những người không phải gốc Hoa Kỳ, đi lại làm
việc giữa Thung lũng Silicon và tổ quốc của họ để chuyển giao những tri thức mới,
tiến bộ nhất thế giới về nước.
15


Chính sách “luân chuyển chất xám” là thành tố cực kỳ quan trọng trong hệ thống
cải tiến, liên kết giữa tổ quốc Israel và cộng đồng Do Thái ở nước ngoài. Tất nhiên,
cộng đồng Do Thái ở nước ngoài không chỉ đầu tư về tổ quốc hay mang chất xám
về phục vụ đất nước chỉ vì lòng yêu nước “thuần túy” hoặc sự cảm thông, họ chỉ
đơn giản là nhận ra: Israel đúng là nơi chốn có thể hoạt động kinh doanh, với hạ
tầng cơ sở và các yếu tố pháp lý thông thoáng, phát triển cao độ.
Ngoài ra, chính phủ Israel cũng phải sáng tạo khi tận dụng cộng đồng Do Thái ở
hải ngoại như chất xúc tác cho nhiều ngành nghề trong nền kinh tế nước nhà.
Một ví dụ điển hình là việc nhà nước Israel xây dựng ngành Không quân và Hàng
không Dân dụng non trẻ.
Chuyện được khơi nguồn từ tinh thần phục quốc của một công dân Hoa Kỳ gốc Do
Thái là Schwimmer, anh từng làm việc cho hãng hàng không Trans World Airline,
Mỹ giai đoạn thập niên 1940 và mơ ước tổ quốc mình cũng xây dựng được một
binh chủng Không quân Israel hùng mạnh như của Hoa Kỳ.
Khao khát của anh càng cháy bỏng hơn khi biết tin rất nhiều đồng bào đã gục ngã
sau Thế chiến II, phần lớn trong các trại tập trung của Đức Quốc xã. Ý tưởng của
anh trong thập niên 1950 là: thế giới lúc đó đang dư thừa nhiều máy bay chiến đấu,
bị hư hỏng sau khi tham chiến, cho nên Israel có thể mua lại số lượng lớn, với giá
rẻ, rồi sửa chữa lại. Không chỉ các máy bay chiến đấu, mà Israel còn có thể mua
các máy bay dân dụng chở hành khách và hàng hóa khác, cũng theo dạng này.

Trong dịp thủ tướng Ben-Gurion của Israel sang thăm Hoa Kỳ vào đầu thập niên
1960, Schwimmer tranh thủ gặp ông. Khi đó anh đã liên hệ trước với Peres và bí
mật trở thành thành viên trong Bộ quốc phòng Israel. Anh trình bày với Thủ tướng
về ý tưởng cải tiến máy bay, phục vụ cho binh chủng Không quân Israel ngay tại
California, Hoa Kỳ. Anh không biết Ben-Gurion đã có ý định này còn sớm hơn
anh, cho nên khi vừa ngỏ lời thì Ben đã chấp nhận để anh về Israel và tổ chức một
doanh nghiệp nhỏ, chuyên thu mua máy bay cũ, sau đó nâng cấp, sửa chữa, cải tiến
lại để thành lập binh chủng Không quân và hãng hàng không dân dụng Israel.
Chỉ 5 năm sau khi ra đời, công ty tư nhân của Schwimmer đã trở thành nhà tuyển
dụng lao động lớn nhất Israel, quy tụ nhiều kỹ sư hàng không gốc Do Thái quay về
Israel từ nhiều quốc gia khác nhau.
16


Thứ tư ,sự thông minh và sáng tạo của người Do Thái cũng là một nhân tố quan
trọng góp phần cho sự phát triển kinh tế của Israel.
Trong nông nghiệp,Dân Israel đào giếng để tìm nước tưới, họ đào sâu đến hơn nửa
dặm, nghĩa là gấp 10 lần chiều dài sân bóng đá để nhận ra là mạch nước ngầm bên
dưới vẫn nóng và nhiễm mặn. Không dùng để tưới được, họ lấy thứ nước này để
nuôi các loài cá nước ấm. “Không đơn giản chút nào để thuyết phục người ta rằng
vẫn có thể nuôi cá trong vùng sa mạc”, thế nhưng Israel làm được.
Người Israel đã phát minh ra hệ thống tưới nước “kiểu nhỏ giọt” và giải quyết
được triệt để vấn đề khô hạn cho đất nông nghiệp.
IV.Kết luận
Từ khi lập quốc đến nay , đất nước Israel dù trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nhiều
biến động về kinh tế và chính trị.Song nền kinh tế Israel vẫn có bước phát triển
vượt bậc.Khác với đa số các quốc gia trung cận đông khác:Giàu nhưng không phát
triển,nền kinh tế Israel hiện nay là một nền kinh tế phát triển toàn diện,cả về tổng
thu nhập quốc dân,chỉ số phát triển con người,chỉ số cạnh tranh
Với những chính sách kinh tế mang tính chiến lược,sự năng động và sáng tạo của

người dân; Israel hứa hẹn sẽ là một nền kinh tế phát triển hơn nữa trong tương lai.

17


18



×