Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Hiệu quả giáo dục học sinh khuyết tật hòa nhập trong nhà trường Tiểu học Nghi Phú 2 Tp Vinh – Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.46 KB, 31 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô Lê Thị Bích
Ngọc : Giảng viên môn Giáo dục đại cương đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá
trình viết tiểu luận. Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể cán bộ , giáo
viên trường Tiểu học Nghi Phú 2 – Tp Vinh – Nghệ An đặc biệt là bốn giáo viên
Nguyễn Thị Tâm, Nguyễn Thị Đông, Nguyên Thị Hồng, Lưu Thị Xuân, Nguyễn
Thị Minh Anh đã giúp đỡ tôi trong quá trình vừa qua.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Người thực hiện

Nguyễn Thị Thái Hà

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trẻ khuyết tật là đối tượng thiệt thòi nhất trong số những trẻ thiệt thòi. Dưới góc
độ giáo dục thì trẻ em khuyết tật là do những tổn thương về cơ thể hoặc suy giảm
những chức năng nhất định, gây khó khăn trong các hoạt động cá nhân, tập thể, xã
hội, trong học tập, vui chơi và lao động. Trước đây, có quan điểm cho rằng trẻ bị
khuyết tật là gánh nặng cho gia đình và xã hội. Nhưng ngày nay, trẻ khuyết tật
được hiểu là trẻ chậm phát triển, mà trẻ chậm phát triển không có nghĩa là các em
đã mất hết khả năng hồi phục và phát triển của bản thân. Nếu có cơ hội học tập
hay tham gia các hoạt động tập thể, các em có thể phát triển tốt khả năng, năng lực
và các sở trường của mình. Do đó, Giáo dục hòa nhập là một xu thế, là một sự tất
yếu của thời đại và Giáo dục hòa nhập được bộ Giáo dục và Đào tạo xác định là
hướng đi đúng đắn nhất nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng cho trẻ khuyết
tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục, trong đó trẻ khuyết tật cùng học với
trẻ em bình thường trong trường phổ thông ngay tại nơi trẻ sinh sống. Hòa nhập


không có nghĩa là chỉ xếp chỗ cho trẻ khuyết tật ở trong lớp và cũng không phải tất
cả mọi trẻ em trong một lớp học đều phải đạt trình độ hoàn toàn như nhau trong
mục tiêu giáo dục. Giáo dục hòa nhập là hỗ trợ cho trẻ khuyết tật cơ hội bình đẳng,
tiếp nhận sự giáo dục với những hỗ trợ cần thiết trong lớp học, phù hợp với đặc
điểm của trẻ. Thông qua giáo dục hòa nhập các em có được sự thay đổi về tình
trạng bệnh tật của mình, cũng như phục hồi những chức năng đang bị thiếu hụt,
chuẩn bị điều kiện cần có để trở thành những thành viên đầy đủ của xã hội. Sự hỗ
trợ cần thiết đó được thể hiện trong việc điều chỉnh nội dung, chương trình, đồ
dùng dạy học, các phương tiện hỗ trợ khác và các kĩ năng giảng dạy.
Mỗi nhà trường có trung bình từ 3 đến 5 em học sinh khuyết tật . Tuy nhiên,
mỗi em lại có những biểu hiện riêng về bệnh tình, những điểm hạn chế khác nhau,
song tất cả đều có cùng một điểm chung là ít nói, tự ti, mặc cảm và ngại giao tiếp
với mọi người xung quanh, nhất là đối với người lạ. Mặc dù, có nhiều trẻ khuyết
tật rất muốn được phát triển về tất cả mọi mặt, thèm muốn được hoạt động vui
2


chơi, học tập như các bạn cùng trang lứa. Các em rất cần có người gần gũi để chia
sẻ, hỗ trợ đặc biệt và dần dần xóa đi những tự ti, mặc cảm giúp các em rút ngắn
khoảng cách với các bạn bình thường khác trong lớp học, trong nhà trường và nơi
cư trú.
Vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: “ Hiệu quả giáo dục học sinh khuyết tật hòa
nhập trong nhà trường Tiểu học Nghi Phú 2- Tp Vinh – Nghệ An”
2. Mục đích nghiên cứu
Tôi chọn đề tài : “ Giáo dục học sinh khuyết tật hòa nhập trong nhà trường tiểu
học Nghi Phú 2 – Tp Vinh – Nghệ An ”để nghiên cứu, đánh giá hiểu quả giáo dục
hòa nhập tại trường Tiểu học Nghi phú 2. Bên cạnh đó, mục tiêu quan trọng hơn là
đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và giảng dạy học sinh
khuyết tật.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu
Hiệu quả công tác giáo dục hòa nhập ở trường Tiểu học Nghi Phú 2.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả công tác giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật ở trường Tiểu học
Nghi Phú 2.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Phân tích, tổng hợp, nghiên cứu hóa, hệ
thống hóa, khái quát hóa các nguồn tài liệu và thực tiễn về giáo dục trẻ khuyết tật
hòa nhập
4.2. Phương pháp quan sát: Tham gia một số các tiêt học của lớp có học sinh
khuyết tật nhằm tìm hiểu công tác tổ chức lớp học , phương pháp dạy của giáo viên
và trực tiếp quan sát khả năng học tập của các em khuyết tật.
4.3. Phương pháp phỏng vấn : Phỏng vấn, trao đổi trực tiếp với các cán bộ quản lí,
giáo viên nhà trường và tham khảo các y kiến chuyên gia với mục đích đưa ra các
3


kết luận khách quan, chính xác về ông tác giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật ở
trường Tiểu học Nghi Phú 2 – Tp Vinh.
4.4. Phương pháp tổng kết thực tiễn : Sử dụng phương pháp này để khẳng định tính
khả thi và sự cần thiết của các biện pháp giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập ở trường
Tiểu học Nghi phú 2- Tp Vinh.

4


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Giáo dục trẻ khuyết tật hòa nhập ở môi trường tiểu học là một vấn đề đang được
các nhà giáo dục trên thế giới nói chung và các nhà giáo dục ở Việt Nam nói riêng

quan tâm, chú trọng. Điều đó thể hiện nhiều trong các báo, tạp chí giáo dục và
nhiều tài liệu nghiên cứu của nhiều nhà khoa học: Tác giả Lê Văn Tạc trong cuốn
“Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật” đã xem xét hiệu quả của công tác giáo dục hòa
nhập trong việc điều chỉnh chương trình dạy học phù hợp với khả năng và nhu cầu
của trẻ khuyết tật. Theo tác giả, trên cơ sở những đặc điểm khác nhau về khả năng,
nhu cầu, sở thích của trẻ cũng như căn cứ vào nội dung của môn học, bài học,
trong lớp học hòa nhập có thể áp dụng một trong các cách điều chỉnh sau: Phương
pháp đồng loạt, phương pháp đa trình độ, phương pháp thay thế. Việc điều chỉnh
cần dựa vào khả năng của từng trẻ và cũng không có một phương pháp nào có thể
áp dụng cho mọi trẻ khuyết tật.
Cũng trong cuốn “Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam” , nhóm tác
giả Lê Văn Tạc, Trần Văn Đích và một số tác giả đã viết: “Cần nhìn nhận trẻ
khuyết tật như mọi trẻ em khác, những em này cũng có năng lực nhất định… các
em phải được tham gia một cách bình đẳng trong mọi công việc của cộng đồng để
thực hiện lí tưởng một xã hội cho mọi người” [25, tr. 89]. Các tác giả đã chỉ ra cụ
thể từng bước đi và cách làm đối với công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật
ở Việt Nam.
Nhóm tác giả Trịnh Đức Huy, Phạm Toán, Dương Thận trong cuốn “Dạy học
hòa nhập cho trẻ khuyết tật” đề cập đến nhiều hình thức giáo dục cho trẻ khuyết
tật, trong đó khẳng định giáo dục hòa nhập là mô hình giáo dục toàn diện và hiệu
quả nhất. Các tác giả Trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật, NXB Chính trị Quốc gia
(1995) cho rằng: Việc áp dụng lí luận dạy học hiện đại – dạy học lấy trẻ làm trung
tâm – là nền tảng để dạy học hòa nhập cho trẻ khuyết tật. Cần phải dựa trên năng
lực và nhu cầu của trẻ để áp dụng biện pháp giáo dục cho phù hợp. Một số kỹ năng

5


cơ bản dạy các loại tật của trẻ trong hòa nhập cũng được các tác giả chỉ ra một
cách chi tiết.

1.2. Một số vấn đề về trẻ khuyết tật
1.2.1. Khái niệm về trẻ khuyết tật
Trẻ khuyết tật là những đứa trẻ bị tổn thương về cơ thể hoặc rối loạn các chức
năng nhất định gây nên những khó khăn đặc thù trong các hoạt động học tập, vui
chơi và lao động.
Trẻ khuyết tật có thể tham gia các hoạt động như mọi thành viên khác trong
cộng đồng. Tuy nhiên, trẻ có được tham gia các hoạt động đó để thể hiện và phát
triển các tiềm năng của bản thân hay không còn tùy thuộc phần lớn vào sự tạo điều
kiện của cộng đồng và toàn xã hội. Để tồn tại và phát triển, trẻ khuyết tật có những
nhu cầu như mọi trẻ em khác, gồm: nhu cầu về thể chất (ăn, mặc, ở); nhu cầu được
an toàn (được che chở); nhu cầu xã hội (được giao lưu, tiếp xúc với những người
xung quanh); nhu cầu được quan tâm và tôn trọng; nhu cầu phát triển nhân cách.
Do những khó khăn đặc thù, trẻ khuyết tật có những nhu cầu đặc thù để có thể
tham gia vào các loại hình hoạt động khác nhau.
1.2.2. Phân loại trẻ khuyết tật
Ở tiểu học, các trẻ khuyết tật được chia thành bảy loại sau đây:
a) Khuyết tật tứ chi, khuyết tật vận động: là những trẻ bị khuyết tật tay chân, khó
khăn trong việc đi đứng, làm việc như người bình thường.
b) Suy giảm các giác quan
- Khiếm thị: là những trẻ mắc vấn đề về thị lực, tình trạng thị lực khác nhau ở mỗi
trẻ, từ lòa đến mù. Cho nên khiếm thị không phải trẻ đó bị mù hoàn toàn, vẫn có
em nhìn thấy được.
- Khiếm thính: là những trẻ mắc vấn đề về thính giác, thường thì chứng này luôn đi
kèm "câm - điếc". Trẻ khiếm thính không phải là không nghe thấy âm thanh, xin
6


nói rõ, các em vẫn nghe được âm thanh, nhưng âm thanh tiếng nói với cường độ
nhỏ nên không thể nghe thấy. Các em vẫn nghe được tiếng đánh trống.
c) Khuyết tật ngôn ngữ: là những em bị mắc chứng nói ngọng, nói lắp. Cần sự giúp

đỡ và rèn luyện nhiều, hiện tại đang có dự án phát triển kỹ năng sư phạm cho các
giáo viên tiểu học để giúp đỡ cho các em này được tốt hơn trong việc rèn luyện kỹ
năng ngôn ngữ. Các vấn đề dị tật khác các em hoàn toàn bình thường như mọi
người, trừ một số trường hợp mắc nhiều chứng dị tật
d) Đa tật: là những trẻ ngoài bị khiếm thị còn mắc chứng chậm phát triển trí não
hay là sự kết hợp của nhiều chứng khác nhau. Ở mái ấm khiếm thị Nhật Hồng đang
nuôi dạy một số em mắc chứng đa tật dạng này. Các em sinh hoạt khó khăn và
người phụ trách phải thực sự kiên nhẫn.
e) Thiểu năng hay còn gọi là chậm trí, tăng động, tự kỷ : các em mắc chứng này
thường có cách cư xử trẻ con, hoặc không có khả năng điều tiết suy nghĩ và hành
vi bản thân. Tùy theo từng trường hợp mà có biểu hiện khác nhau, như có em
thường yên lặng, có em lại nghịch ngợm....
f) Bệnh đao, não nước,...: Các em như thế này thì hoàn toàn phụ thuộc vào sự
chăm sóc của người khác, khả năng nhận biết sự vật bên ngoài gần như không có...
cuộc sống của các em chỉ dần tiến từng ngày, có lúc giống như đời sống thực vật,
chỉ khác là các em vẫn cử động và quờ quạng được...
Trong bài tiểu luận của mình, tôi nghiên cứu về 3 loại trường hợp khuyết tật
xuất hiện trong trường Tiểu học Nghi Phú 2- Thành phố Vinh- Nghệ An là: Tăng
động, tự kỷ và thiểu năng.
1.2.3. Khả năng phát triển của trẻ khuyết tật
Theo quan điểm của Tật học hiện đại của trẻ khuyết tật không phải ít phát
triển hơn so với trẻ bình thường mà chúng phát triển theo một chiều hướng khác.
Mọi trẻ em sinh ra và lớn lên trong xã hội loài người đều có những nhu cầu cơ bản
về cơ thể, sự an toàn và những khả năng nhất. Trẻ khuyết tật cũng có những nhu
cầu cơ bản và khả năng nhất định tuy ở những mức độ khác nhau so với trẻ em
7


bình thường.Đầu tiên có thể kể đến những nhu cầu cơ bản: nhu cầu cơ thể (ăn,
uống, ngủ…), nhu cầu cảm giác an toàn, nhu cầu cảm giác tiếp xúc, nhu cầu về đồ

vật… được thể hiện bằng tiếng khóc, tiếng bập bẹ, tiếng cười, ánh mắt, cử động
của cơ thể…
Với những hình thức, tốc độ và mức độ khác nhau, tất cả trẻ khuyết tật đều có
khả năng nhận thức. Hầu hết trẻ khuyết tật đều có những phản ứng với âm thanh,
tiếng động, lời nói, khả năng định hướng đối với nguồn âm thanh phát ra. Trẻ điếc
có thể hiểu được những gì đang diễn ra xung quanh thông qua sự chuyển động của
sự vật; sự biểu đạt của bản thân và người khác qua nét mặt, cử chỉ điệu bộ, đọc
hình miệng… Trẻ mù có thể nhận biết và hiểu được thế giới bên ngoài và lời nói
thông qua khả năng nghe, cảm giác xúc giác. Trẻ khó khăn về học sẽ trở nên biết
cách cư xử hơn khi chúng có được sự yêu thương, cảm giác về sự an toàn, che chở
của những người xung quanh…
Mặc dù khuyết tật gây ra những trở ngại nhất định cho trẻ trong hoạt động
nhận thức học tập cũng như giao tiếp, song cũng chính điều này lại là yếu tố kích
thích con người vươn lên phía trước, làm xuất hiện xu hướng mong muốn và sức
mạnh vượt qua trở ngại khuyết tật: “ Đứa trẻ sẽ muốn nhìn tất cả nếu như nó bị cận
thị; muốn nghe tất cả nếu như tai nó bị khiếm khuyết; muốn nói nếu như nó gặp
khó khăn trong việc thể hiện ngôn ngữ hay bị nói lắp” – A.Adler, Bác sỹ tâm thần
người Áo.Một số nghiên cứu cho rằng, đây chính là qui luật bù trừ trong quá trình
phát triển cá thể. Nếu như một trong những chức năng nào đó của cơ thể bị phá
hủy thì dẫn đến sự phát triển cao hơn của các chức năng khác bù đắp lại phần bị
khiếm khuyết. Tuy nhiên, để phát triển được các chức năng khác thì không ngoài
việc trẻ phải được giáo dục và rèn luyện thường xuyên trong một môi trường ít hạn
chế nhất. Như nhà triết học, tâm lý học người Đức, V.Stern, ngay từ năm 1921 đã
chỉ rõ: “ Đối với người khiếm thị, khả năng phân biệt nhờ khứu giác nhờ tăng mức
độ nhạy cảm của hệ thần kinh không nằm ngoài sự luyện tập, đánh giá và suy
ngẫm cá biệt”.Hơn nữa, mỗi trẻ là một bức tranh hết sức đa dạng, phong phú về
nhân cách. Chúng có khả năng, nhu cầu và sở thích riêng, có cách thể hiện riêng.
Được tham gia vào các họat động trong môi trường hòa nhập tại cộng đồng, xã hội,
8



nhà trường và gia đình thì trẻ khuyết tật mới có cơ hội được bộc lộ, thể hiện một
cách đầy đủ và rõ nét nhất khả năng và nhu cầu của mình. Đồng thời, đó cũng
chính là cách giảm thiểu được những ảnh hưởng bất lợi của khuyết tật đối với các
chức năng hoạt động cơ thể khác và không làm xuất hiện “khuyết tật thứ hai” của
trẻ: không được tương tác với môi trường, không thích nghi được với môi trường
như những trẻ khác, và tất yếu là sự kìm hãm quá trình phát triển của trẻ bởi những
tác nhân kích thích từ môi trường.
Có thể nhận thấy rằng, mỗi trẻ là một bức tranh điển hình hết sức đa dạng,
phong phú về nhận thức, tình cảm, hành vi trong nhân cách. Chúng có khả năng,
nhu cầu và sở thích riêng, có cách học tập và cách thể hiện hành vi riêng. Được
tham gia vào các hoạt động trong môi trường lớp học, nhà trường cũng như các
hoạt động tại cộng đồng, xã hội và gia đình thì trẻ khuyết tật mới có cơ hội được
học tập, được lĩnh hội kiến thức để có thêt bộc lộ, thể hiện một cách đầy đủ và rõ
nét nhất khả năng, nhu cầu của mình. Đông thời, đó cũng chính là cách giảm thiểu
được những ảnh hưởng bất lợi của khuyết tật đối với các chức năng hoạt động cơ
thể khác và không làm xuất hiện “khuyết tật thứ hai” hay “ khuyết tật thứ phát”.
Nguyên nhân xuất hiện khuyết tật thứ phát là do trẻ thiếu cơ hội được tương tác
với môi trường, làm cho trẻ khó thích nghi với môi trường, và tất yếu trẻ bị kìm
hãm quá trình phát triển từ chính các yếu tố của môi trường.
Từ phân tích trên đây về đặc điểm của trẻ khuyết tật liên quan đến qúa trình
dạy học, người giáo viên cần chú ý đến những vấn đề sau:
- Mọi trẻ đều có thể học đọc được, tất cả mọi trẻ khuyết tật cũng đều có thể đọc
được. Trẻ khuyết tật, do những hạn chế khuyết tật gây nên có thể sẽ mất nhiều thời
gian trong việc lĩnh hội một đơn vị kiến thức, số lượng đơn vị kiến thức ít hơn và
mức độ khó của kiến thức sẽ thấp hơn so với trẻ bình thường, nhưng vẫn có thể
học được.
- Bên cạnh việc học các kiến thức thì trẻ khuyết tật cũng cần phải học tất cả các kỹ
năng xã hội khác mà trẻ bình thường học và sử dụng đặc biệt là những kỹ năng tự
phục vụ, kĩ năng giao tiếp ứng xử, kĩ năng nghề nghiệp,…Điều này nhăm giúp trẻ

9


đạt được mức độ cao nhất của sự độc lập trong hoạt động cá thể, cộng đồng và là
thành viên tích cực của xã hội sau này.
- Quá trình nhận thức của trẻ khuyết tật cũng tuân theo qui luật nhận thức chung
của con người. Vì vậy, ngay sau khi trẻ được phát hiện có khuyết tật, cầc tiến hành
ngay công tác lập kế hoạch hỗ trợ dạy học và hỗ trợ giáo dục đặc biệt nhằm hạn
chế đến mức tối đa những ảnh hưởng tiêu cực do khuyết tật gây nên và phát huy
điểm tích cực trong các lĩnh vực phát triển của trẻ. Công việc này càng được tiến
hành sớm càng tốt.
- Việc dạy học cho trẻ khuyết tật không chỉ đơn thuần là công việc của người giáo
viên với các giờ học ở nhà trường, trong lớp học. Dạy học cho trẻ khuyết tật còn do
những “thày giáo” quan trọng khác thực hiện ở những môi trường khác nhau như
cha mẹ hay những người trực tiếp chăm sóc trẻ tại gia đình, bạn bè trẻ tại khu vực
cộng đồng nơi trẻ khuyết tật sống…
- Mỗi trẻ khuyết tật là khác nhau về tất cả các lĩnh vực phát triển nhận thức, tâm lí
- tình cảm, ngôn ngữ - giao tiếp, hành vi…Dạy học và giáo dục trẻ khuyết tật phải
luôn luôn gắn liền và thống nhất với nhau. Việc dạy học cần phải dựa vào chương
trình giáo dục cá nhân. Chương trình này cần được xây dựng trên cơ sở nhu cầu,
khả năng của trẻ, phù hợp với ý kiến về giáo dục của cha mẹ trẻ, nhu cầu và khả
năng của gia đình trẻ. Kế hoạch dạy học cho từng trẻ khuyết tật được xây dựng và
thực hiện dựa trên chương trình giáo dục cá nhân này.
1.3. Khái quát về Trường Tiểu học Nghi Phú 2- TP Vinh – Nghệ An.
Nghi Phú là một xã thuộc ngoại thành thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Toàn
xã có 14 000 người và 1/3 là giáo dân. Trên địa bàn có 4 trường Mầm non, Tiểu
học và Trung học cơ sở. Trường Tiểu học Nghi Phú 2 được thành lập năm 1981
được tách ra từ trường Cấp 1 Nghi Phú.

10



1.3.1. Cơ cấu tổ chức
Tổng số cán bộ, giáo viên, nhân viên là 36 người.
Trong đó: Cán bộ quản lý: 02
Giáo viên: 28 người ( Nữ: 27 người; Nam: 01 người)
Nhân viên: 8 người
Trình độ chuyên môn : Đạt trên chuẩn 100%
Đảng viên: 21/ 32
Các bộ máy hành chính hoạt động nhịp nhàng và khá vững vàng về chuyên
môn, nghiệp vụ.
1.3.2. Tình hình về dạy và học
Trường có 17 lớp/ 598 học sinh. Trong tổng số học sinh của trường có
khoảng 15 % là con em cán bộ công chức, 25 % là con em gia đình buôn bán nhỏ
và các hoạt động phi nông nghiệp, còn lại là con em gia đình nông nghiệp.
Tỉ lệ con em hộ nghèo: 8%
Tôn giáo: 27,6 %
1.3.3. Thành tích đạt được:
a) Về nhà trường
- Trường đã đạt trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 năm 2007 và đạt
trường chuẩn Quốc gia mức độ 2 năm 2011. Năm học 2015- 2016 được sở Giáo
dục và ĐàoTạo Nghệ An về kiểm tra công nhận lại sau 5 năm, kết quả là vẫn giữ
được danh hiệu trường chuẩn Quốc gia mức độ 2.
- Nhiều năm đạt trường tiên tiến xuất sắc cấp Thành phố và 3 năm đạt trường tiên
tiến xuất sắc cấp Tỉnh. Được sở GD&ĐT Nghệ An đánh giá cao về chất lượng
giáo dục.
b)Về độ ngũ giáo viên:
- Tổng số Giáo viên: 28 người.
- Trình độ chuyên môn đạt 100% là đại học, Giáo viên đa số nhiệt tình, tâm huyết
với nghề, có ý thức tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ nên đã xây


11


dựng được thương hiệu về chất lượng so với Tiểu học Nghi Phú 1 và cuốn hút
được học sinh trong địa bàn xã về học.
Kết quả cụ thể: Năm học 2014-2015:
Giáo viên dạy giỏi cấp thành phố: 6 người.
Giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp thành phố: 1 người.
Giáo viê ndạy giỏi cấp tỉnh: 2 người.
Giáo viên đạt danh hiệu: GV chủ nhiệm giỏi cấp trường: 9/16 ; Tỉ lệ : 56,3%.
Giáo viên đạt danh hiệu: Lao động tiên tiến: 28/ 28. Tỉ lệ: 100%.
Giáo viên đạt danh hiệu : CSTĐ : 6 người
c) Về học sinh
Đa số học sinh của trường đi học chuyên cần không có hiện tượng học sinh bỏ
học giữa chừng. Các em có ý thức chăm học, có sự nỗ lực phấn đấu trong học tập
cũng như trong các hoạt động. Đặc biệt là các em được giáo dục nhiều về kĩ năng
sống, về tình người đó là hòa đồng, thân thiện, biết tương thân tương ái, đùm bọc
những người bạn cùng trang lứa bị thiệt thòi.
Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, đây là yếu tố để khẳng định
thương hiệu của nhà trường. Cụ thể chất lượng đánh giá HS theo thông tư 30/TTBGD&ĐT:
Năm học

TSHS

HS XS toàn diện
SL
%

2013-2014

2014-2015

525
567

102
142

19,6
25,0

HS XS môn
SL
%
167
199

31,8
35,1

HS lên lớp
SL
%
519
567

98,8
100,0

Các cuộc thi

Cấp thành
5 em đạt môn TA
12 em đạt môn TA

Ngoài ra, với sự nỗ lực của thầy và trò thì chất lượng của các em khuyết tật hòa
nhập cũng tiến bộ đáng kể. Qua tìm hiểu thì các em từ lớp 2 đến lớp 4( 5 em), năm
học 2014-2015 có 2 em đã tiếp thu được một phần nào kiến thức, nên cũng được
đánh giá kết quả học tập theo thông tư 30/TT- BGD&ĐT như học sinh bình thường
12


nhưng có giảm nhẹ mức độ đánh giá. Đây là một bước tiến rõ rệt của nhà trường.
Năm học 2015 – 2016 nhà trường sẽ tiến hành khảo sát và đánh giá một em có
thể theo học như HS bình thường.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC HÒA NHẬP Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGHI PHÚ – TP VINH – NGHỆ AN
2.1. Nhận thức về công tác giáo dục hòa nhập của giáo viên trong trường Tiểu
học Nghi Phú 2 – Tp Vinh – Nghệ An
Nhận thức có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhận thức là kim chỉ nam cho hành
động, soi đường cho hành động, nhận thức đúng thì hoạt động mới đúng và hiệu
quả. Ý nghĩa của vấn đề nhận thức càng trở nên quan trọng trong thực hiện giáo
dục hòa nhập vì hiện nay đây là công việc thực hiện liên quan đến nhiều người, đòi
hỏi sự kiên trì nỗ lực và thiếu về các điều kiện hỗ trợ, thực hiện chủ yếu bằng sự tự
giác, tinh thần tương thân tương ái, nhân đạo. Do vậy, cần làm cho mọi người nhận
thức đúng về nhu cầu và khả năng của trẻ khuyết tật, trẻ khuyết tật cần được cộng
đồng chấp nhận, có tâm lý tự tin vào khả năng của mình và cần điều kiện để rèn
luyện cũng như có cơ hội thể hiện khả năng của mình, về tính ưu việt và khả thi
của giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong trường phổ thông nói chung và trường
13



tiểu học nói riêng. Với mỗi cấp, ngành đơn vị và cá nhân xác định ý nghĩa vai trò,
vị trí của mình trong công tác này.
Hiện nay, Đảng và nhà nước hết sức quan tâm đến đối tượng trẻ em khuyết
tật. Tất cả sự quan tâm đó, được quy định rất rõ trong một số văn bản quy phạm
pháp luật như: Luật phổ cập GDTH; Luật giáo dục và chăm sóc trẻ em; Pháp lệnh
về người tàn tật … Bộ GD&ĐT đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo như: Quyết
định 23/2006/ QĐ - BGD&ĐT, ngày 22/5/1006 quy định về giáo dục hòa nhập cho
người tàn tật, khuyết tật, Thông tư 39/2009/ TT- BGD&ĐT, ngày 29 tháng 12 năm
2009 thông tư ban hành quy định Giáo dục hòa nhập cho trẻ có hoàn cảnh khó
khăn .… Các cấp, các ngành, phụ huynh, cộng đồng ngày càng nhận thức đúng đắn
và quan tâm hơn đến công tác GD cho học sinh khuyết tật.Đối với trường Tiểu học
Nghi Phú 2, theo điểu tra và khảo sát của mình tôi đã có được kết quả sau: Có đến
21 giáo viên ( 75%) cho rằng giáo dục hòa nhập là phương thức giáo dục trong đó
trẻ khuyết tật học chung lớp với trẻ bình thường trong trường tiểu học bằng chương
trình chung, chỉ có 7 giáo viên ( 25%) cho rằng giáo dục hòa nhập là phương thức
giáo dục trong đó trẻ khuyết tật học chung với lớp trẻ bình thường bằng chương
trình riêng. Như vậy, qua số liệu đã điều tra trên, tôi nhận thấy được các giáo viên
ở trường Tiểu học Nghi Phú 2 hầu hết đã nhận thức được giáo dục hòa nhập là gì,
chỉ có một phần nhỏ là đang còn suy nghĩ lệch lạc về giáo dục hòa nhập.
Bên cạnh đó, để kiểm tra thêm về sự nhận thức của giáo viên trường Tiểu học
Nghi Phú 2 tôi đã thực hiện một bảng khảo sát và có kết quả như sau:
STT
1

2

3


Câu hỏi
Trẻ khuyết tật cần được tránh
khỏi sự kỳ thị của các bạn trong
lớp không?
Vậy, giáo viên có tự tin để làm
các học sinh trong lớp không
trêu chọc, ký thị học sinh khuyết
tật không?
Việc học tập của các học sinh
khuyết tật có bị ảnh hưởng bởi
học chung chương trình chung
với học sinh bình thường thường
không?
Khi tổ chức các hoạt động vui
chơi, thể thao thì học sinh
khuyết tật có được tham gia như
các học sinh bình thường không?
Điều đó có gây khó khăn cho

Có
100%

Phân vân
0%

Không
0%

42,9%


57,1%

0%

20%

56%

24%

100%

0%

0%

100%

0%

0%

14


quá trình quản lý học sinh của
giáo viên không?

Như bảng số liệu đã trình bày ở trên chúng ta thấy được mức độ nhận thức của
giáo viên là khác nhau. Ở ý kiến thứ nhất, cả 28 giáo viên trong trường cho rằng trẻ

khuyết tật cần được ránh khỏi sự ký thị của các bạn trong lớp. Tuy nhiên, hơn một
nửa số họ lại không dám tự tin khẳng định được bản thân có thể làm được điều đó.
Đến với ý kiến thứ hai và thứ ba, tất cả giáo viên đều muốn cho trẻ khuyết tật tham
gia hoạt động vui chơi, thể thao như các học sinh bình thường khác nhưng đồng
nghĩa với việc gây khó khăn cho họ trong việc quản lý các em học sinh khác.
2.2. Kết quả giáo dụ ctrẻ khuyết tật hòa nhập ở trường Tiểu học Nghi Phú 2Tp Vinh-Nghệ An
2.1.1. Vài nét về trẻ khuyết tật ở Trường Tiểu học Nghi Phú 2-Tp Vinh- Nghệ An
Trong năm học 2015 – 2016, trường Tiểu học Nghi Phú có tổng cộng 5 học
sinh khuyết tật hòa nhập: 5 em / 598; Tỉ lệ: 1,6% , được học ở các lớp với các độ
tuổi như: 6 tuổi: 2 em; 7 tuổi: 1 em; 8 tuổi: 1 em; 9 tuổi: 1 em Với các dạng khuyết
tật : Tự kỉ, trí não.
Danh sách giáo viên dạy lớp có học sinh khuyết tật hòa nhập:
TT
1.
2.
3.
4.
5.

Họ và Tên GV dạy
Nguyễn Thi Tâm
Nguyễn Thị Đông
Nguyễn Thị Hồng
Lưu Thị Xuân
Nguyễn Thị Ngọc Anh

Lớp
1B
1D
2D

3B
4C

Họ và Tên HS hòa nhập
Trần Huy Hoàng
Nguyễn Thị Hà Vy
Võ Lê Thùy Duyên
Cao Thị Hoài Như
Lê Minh Giang

Mỗi em có một đặc điểm, có những biểu hiện riêng về bệnh tình, những
điểm hạn chế khác nhau, song tất cả đều có cùng một điểm chung là ít nói, tự ti,
mặc cảm và ngại giao tiếp với mọi người xung quanh, nhất là đối với người lạ.
Mặc dù, có nhiều trẻ khuyết tật rất muốn được phát triển về tất cả mọi mặt, thèm
muốn được hoạt động vui chơi, học tập như các bạn cùng trang lứa. Các em rất cần
có người gần gũi để chia sẻ, hỗ trợ đặc biệt và dần dần xóa đi những tự ti, mặc cảm
giúp các em rút ngắn khoảng cách với các bạn bình thường khác trong lớp học,

15


trong nhà trường và nơi cư trú. Nên nhà trường có những quan tâm đặc biệt đối
với những em này.
Em thứ nhất là Cao Thị Hoài Như học sinh lớp3B do cô giáo Lưu Thị Xuân
chủ nhiệm: Bản thân em bị ảnh hưởng về trí não, tiếp thu bài học kém, rất mau
quên, giao tiếp hạn chế, vốn từ nghèo nàn, đến trường rất thường xuyên nhưng
không thích học, ham chơi. Khả năng điều tiết hành vi và suy nghĩ của bản thân
chưa có. Các giờ ăn cơm bán trú ở trường thích thì ăn không thích thì thôi. Đặc
biệt là em không chịu ngủ trưa. Tuy nhiên em lại có ưu điểm là hiểu lời giáo viên
nói, hiểu yêu cầu cô giáo đặt ra đối với mình, thích được khuyến khích, khen ngợi,

rất muốn được gần gũi giáo viên.
Em thứ hai là Võ Lê Thùy Duyên học sinh lớp 2D do cô giáo Nguyễn Thị
Hồng chủ nhiệm : Đối với em Duyên bị bệnh quá nặng, thường la hét thất thanh,
hoạt động không có định hướng, không biết gì đến giao tiếp với mọi người xung
quanh, các hoạt động tự phục vụ phụ thuộc hoàn toàn vào sự chăm sóc của người
khác như: Dắt vào chỗ ngồi, cất cặp, cởi áo khoác, lấy nước cho uống …, khả
năng nhận biết sự vật xung quanh rất hạn chế. Tự chơi một mình, thường xuyên bỏ
chỗ ngồi và chạy tự do trong lớp hoặc chạy ra ngoài sân trường, làm những gì
mình thích.
Tiếp đến là hai em Trần Huy Hoàng học lớp 1B do cô giáo Nguyễn Thị Tâm
chủ nhiệm và Nguyễn Thị Hà Vy học lớp 1D do cô giáo Nguyễn Thị Đông chủ
nhiệm : Hai em đều có đặc điểm chung là lúc nào cũng yên lăng, không nói chuyện
và không muốn gần gũi với ai, khả năng giao tiếp của các em rất hạn chế. Bên cạnh
đó hai em có sức học khá kém và khó tiếp thu bài học trên lớp.
Cuối cùng là em Nguyễn Thị Minh Anh học lớp 4C do cô giáo Nguyễn Thị
Minh Anh chủ nhiệm: Em bị chứng tự kỷ có biểu hiện y hệt hai em Trần Huy
Hoàng và Nguyễn Thị Hà Vy đã nói ở trên.
2.2.2. Kết quả giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở trường Tiểu học Nghi Phú 2Tp Vinh-Nghệ An
Qua quá trình nghiên cứu hồ sơ giáo dục, qua phỏng vấn giáo viên trực tiếp
giảng dạy học sinh khuyết tật, qua quan sát,… chúng tôi thu được một số kết quả
về công tác giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật ở trường Tiểu học Nghi Phú 2.
16


a) Quan tâm giáo dục kĩ năng sống và làm ổn định tâm lý
Đối với em bị thiểu năng trí tuệ , bản thân giáo viên chủ nhiệm của em luôn gần
gũi, nói chuyện, hỏi thăm về gia đình, bố mẹ và những người thân mục đích để em
được bộc bạch, tâm sự và giải tỏa được những vấn đề ảnh hưởng đến tâm lý của
em. Bên cạnh đó là tìm hiểu về nguyện vọng của em cần gì, muốn gì? Trước mỗi
buổi học, giáo viên thường đến lớp sớm để nhắc nhở học sinh trong lớp mình luôn

thể hiện sự yêu thương đói với bạn bằng cách gần gũi, giúp đỡ, chia sẻ với bạn.
Không được trêu chọc, chế giễu hoặc coi thường bạn… khi bạn làm sai và phê
bình ngay khi có những học sinh chưa quan tâm đến bạn hoặc có những hành vi,
cử chỉ, lời nói làm tổn thương bạn như: Bạn ấy không biết đọc, bạn ấy không biết
tính, bạn ấy là học sinh khuyết tật….
Cứ đến giờ ra chơi giáo viên lại tạo điều kiện để gần gũi, tiếp xúc với em, gợi ý
để em nói chuyện, chia sẻ những mong muốn, nhu cầu mình cần . Từ đó, em sẽ
cảm thấy cô giáo là chỗ dựa vững chắc về mặt tâm lý cho em, là nơi tin cậy nhất
luôn hiểu và đáp ứng những nhu cầu chính đáng của em. Mỗi lần em giận hờn,
khóc lóc khi các bạn có hành động làm em phật ý, thậm chí là lăn ra đất làm vạ.
Giáo viên lại phải sử dụng những động tác và lời nói nghiêm nghị nhưng nhẹ
nhàng dạy bảo như với con cái của mình, để em thấy được hành động vừa rồi
không đúng, rất sai, không được làm như thế, cô không đồng ý và sẽ không bao
giờ ủng hộ, hay dung túng. Qua đó cô giáo theo dõi và thấy em đã biết sợ, không
dám hờn dỗi nữa.
Khi em ăn cơm, ngủ tại trường cô giáo tạo cho em sự gần gũi đặc biệt như: cho
em ngồi ăn bên cạnh giáo viên, gắp thức ăn cho em, động viên, khuyến khích em
ăn thêm tí nữa để cho khỏe mạnh, chóng lớn, học giỏi hơn…. Trưa em không ngủ,
mà nằm chơi một mình, nhiều hôm cô chủ động gọi em đến nằm ngủ cạnh tôi, vỗ
về em ngủ để tập cho em có thói quen về giấc ngủ trưa.
Trong một tuần cô giáo đề nghị gia đình em cho đến nhà 3 lần vào buổi tối để
vừa hướng dẫn em cách đọc viết, tính toán lại vừa tạo cho em một sự gần gũi đặc
17


biệt , nhằm tăng thêm cho em sự tự tin trong giao tiếp với mọi người xung quanh.
Điều này đã mang lại cho cô một kết quả rất đáng mừng đó là gia đình em luôn
đồng tình, ủng hộ, bản thân em phấn khởi, tích cực và nhất là tâm lý của em thay
đổi rất rõ rệt: Mỗi khi đến trường em phải được nhìn thấy cô của mình, nắm lấy
tay cô một cái như thay cho lời chào, rồi mới đi chơi với bạn. Giờ ra chơi, em

thường cứ quanh quẩn bên tôi để nói chuyện, em ít hờn dỗi hơn, biết tự lấy đồ
dùng ra học tập khi cô giáo yêu cầu, đôi khi em đã mạnh dạn xung phong trả lời
những câu hỏi đơn giản trong bài học và không còn tình trạng xa lánh bạn bè, chỉ
chơi một mình…
Đối với những em bị tự kỷ và tăng động, bản thân các em rất khó tiếp xúc với
bạn bè và những người xung quanh. Vì em không chịu nói chuyện hoặc là nói một
mình, không hề có cuộc trao đổi qua lại như những em khác. Do đó, sau khi nhận
lớp, giáo viên chỉ biết tiếp xúc với em bằng cách ngồi bên cạnh em làm những
động tác, cử chỉ thân thiện nhẹ nhàng như: xoa đầu, nắm tay,…để em cảm thấy an
tâm, ra về mang cặp, đội mũ cho em, chỉ dơ tay vẫy như chào để em làm theo …
Sau đó giáo viên bắt đầu giới thiệu về mình cho em nghe, nói cho em biết tên của
em, tên lớp, tên một số bạn ngồi gần ( Trong bàn hoặc trong nhóm học tập) và cho
em lần lượt nhắc lại theo thứ tự.
VD: Tên em là Duyên, đây là bạn Mai, Đây là bạn Minh, …
Để làm giảm sự la hét bất thường của em trong lớp và hành vi bỏ chỗ ngồi chạy
lung tung, ra khỏi lớp không định hướng. Giáo viên chuẩn bị cho em một số vở
dành cho học sinh ở lứa tuổi Mầm non có nhiều hình vẽ, hướng dẫn em cách tô
màu. Cô tranh thủ tham gia cùng tô màu, cùng vẽ với em trong thời gian các học
sinh khác đang làm bài tập để em thực hiện theo với mục đích lôi kéo em vào một
hoạt động mới, tập cho em thói quen tập trung làm việc mà quên những cơn cuồng
ở trong em. Những lúc giảng bài đi qua lại chỗ em ngồi tôi lại xoa đầu, nắm tay em
để em thấy mình được cô giáo quan tâm, gần gũi vỗ về khiến em cảm thấy có chút
tình cảm của cô dành cho mình.
18


Tập cho em bước đầu biết giao tiếp đơn giản bằng cách: Mỗi lần em đến lớp và
ra về, giáo viên yêu cầu vài bạn học sinh khác làm động tác chào cô để em làm
theo và kết quả là hết học kì I em đã có thói quen nói lời “chào cô” khi đến lớp và
lúc ra về. Hàng ngày, cô vừa giảng giải cho em nghe vừa làm động tác để em hiểu

được rằng trong giờ học phải nghiêm túc, cần có kỉ luật, nề nếp, không được chạy
ra ngoài chơi. Mỗi lần thấy em đứng dậy để chuẩn bị đi ra, cô ngăn em lại và yêu
cầu ngồi xuống, đồng thời đưa sách hoặc bảng con đặt lên bàn, rồi hướng dẫn em
vẽ hình hoa lá đơn giản, tô màu cho các hình vừa vẽ hoặc tập cho em viết các số có
một chữ số. Sau nhiều lần như thế tôi đã tạo được cho em một thói quen tốt là biết
giữ trật tự trong giờ học, không quậy phá, đi lại tự do vô kỉ luật như trước. Em đã
biết vâng lời giáo viên và biết thực hiện những yêu cầu đơn giản, vừa sức với
mình.
b) Đưa học sinh vào tham gia hoạt động hợp tác nhóm.
Các em học sinh khuyết tật đều có điểm chung là ham muốn được tham gia hoạt
động cùng các bạn ( Mặc dù các em cũng rất mau chán vì bị ràng buộc vào khuôn
khổ, không được tự do làm những điều mình thích). Giáo viên đã nhanh chóng vận
dụng đặc điểm này để giúp các em hòa đồng hơn và tích cực, tự giác khi tham gia
các hoạt động tập thể với nhóm, luôn chú ý động viên, khuyến khích và tuyên
dương kịp thời những tiến bộ hay một hoạt động nhỏ mà các em thực hiện đúng.
Ví dụ: Các giờ học có hoạt động nhóm, giáo viên luôn yêu cầu các bạn khác dẫn
dắt và cho em cùng hòa vào hoạt động, tuy nhiên kết quả thu được về kiến thức thì
chỉ em Hoài Như là có thể được phần nào còn em đối với em Thùy Duyên thì chỉ
tăng thêm sự thích thú, khơi dậy một chút sự ham thích trong em và để em tự tin
hơn, gần gũi, hòa đồng hơn với bạn bè trong nhóm, trong lớp hơn.Qua những hoạt
động này, em có hứng thú hẳn lên. Em đã nhận biết được những bạn cùng nhóm
mình là ai và gọi tên của từng bạn trong quá trình hoạt động. Nói theo những câu
nói mà các bạn vừa nêu, vui cười với bạn. Đây là một kết quả thật đáng mừng.

19


Với các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, cô giáo không bao giờ để các em đứng
ngoài lề hoạt động của lớp học mà phân công các bạn trong nhóm hướng dẫn, hỗ
trợ để các em được tham gia cùng nhóm của mình. Từ đó, giáo dục cho các em kĩ

năng hợp tác, tinh thần đoàn kết, vì tập thể. Các giờ sinh hoạt 15 phút đầu giờ giáo
viên cùng nhóm bạn học tập hướng dẫn cho em hát, vỗ tay, cỗ vũ em nhiều hơn
khi em thực hiện tương đối được một hoạt động nào đó.
Qua hoạt động tập thể kết quả cho thấy một số chức năng của các em được phục
hồi như: Hòa đồng cùng bạn bè, bớt tự ti, ham thích đến trường, kĩ năng giao tiếp
được phát triển, rút ngắn phần nào khoảng cách giữa các em với bạn bè trong lớp
góp phần nâng cao chất lượng tiếp thu kiến thức.
c) Phương pháp giảng dạy.
c1) Làm đồ dùng dạy học
Bằng kinh nghiệm của bản thân, các giáo viên trường Tiểu học Nghi Phú 2
nhận thấy đối với học sinh Tiểu học thì đồ dùng dạy học là yếu tố góp phần không
nhỏ để nâng cao chất lượng giáo dục. Nó tạo cho học sinh khă năng tiếp cận nội
dung bài học đồng thời giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức, hình thành kĩ năng.
Đặc biệt đối với trẻ khuyết tật thì đồ dùng dạy học là con đường giúp trẻ khắc phục
những đặc điểm khó khăn để tham gia vào hoạt động học tập. Vì thế các giáo viên
đã tự nghiên cứu và làm đồ dùng dạy học kích thích khă năng nhận thức của trẻ.
Cụ thể như là:
Môn toán là môn học đòi hỏi học sinh khả năng tư duy, tính toán nhưng đối với
các em khuyết tật thì việc nhớ kiến thức đối với em rất khó khăn nên phải cho em
nhận thức từ trực quan. Đồ dùng được làm từ phế liệu để tạo thành các hình ngôi
sao, hoa, viên bi,…
Ví dụ: Khi dạy về các phép cộng: 5,6,7,8,9 cộng một số, 11,12,13,14,15,16,17
trừ một số thì đồ dùng giúp em thực hiện để nắm được kiến thức là que tính và các
chấm tròn ( Làm nhiều màu để gây hứng thú cho học sinh tránh nhàm chán).Với
20


đồ dùng này đã theo em thường xuyên và xuyên suốt trong chương trình toán học
kì I, kết quả là em đã thành thạo trong tính toán ở học kì II.
c2) Học tập trong nhóm nhỏ

Bên cạnh việc sử dụng hiệu quả các đồ dùng dạy học thì hoạt động nhóm nhỏ
trong từng môn học cũng là môi trường em được tiếp thu qua các bạn cùng nhóm.
Hàng ngày các bạn trong nhóm đóng vai trò là cô giáo nhỏ có nhiệm vụ đưa bạn
vào hoat động giúp đỡ và hướng dẫn bạn tiếp thu kiến thức bài học, đồng thời em
cũng được xem là một thành viên của nhóm, được đại diện báo cáo trước lớp về
nội dung thảo luận đơn giản. Tuy nhiên qua quá trình quan sát của mình khi tham
dự một số tiết học thì phương pháp này không áp dụng được với các em tự kỷ bởi
các quá thụ động, không chịu giáo tiếp với các bạn.
c3) Dạy phụ đạo ngoài giờ
Ngoài các hình thức, giải pháp dạy học trên lớp, tôi còn kèm em học thêm ở
nhà vào mỗi buổi tối, dạy miễn phí. Tôi tranh thủ vừa soạn bài vừa kèm em học
bên cạnh như con của mình. Vừa dạy đọc, tính toán và bù những kiến thức còn
thiếu của chương trình lớp 1, vừa dạy kĩ năng giao tiếp. Bên cạnh đó là sự chia sẻ,
đồng cảm và khi nào mình cũng là chỗ dựa tin cậy nhất về tinh thần cho em. Từ đó
em đã tự tin hơn trong học tập cũng như tham gia các hoạt động của lớp, của
trường.
Vấn đề này được phụ huynh hết sức ủng hộ và đưa em đến học thường xuyên.
Kết quả học tập của em tiến bộ rõ rệt.

2.2.3. Một số khó khăn trong quá trình giáo dục học sinh khuyết tật hòa nhập ở
trường Tiểu học Nghi phú 2 – Tp Vinh – Nghệ an
Sự phối hợp giữa nhà trường – địa phương – gia đình ở một số đơn vị chưa
được tiến hành thường xuyên và hiệu quả chưa cao, điều này đã và đang xảy ra

21


không chỉ trong công tác giáo dục hòa nhập mà còn với cả các hoạt động khác của
nhà trường.
Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của một số cán bộ và giáo viên còn hạn

chế, nhiều lúc tỏ ra cứng nhắc, máy móc mà thiếu đi sự năng động, sáng tạo dám
nghĩ dám làm trong quản lý và dạy hoà nhập. Một số giáo viên không “sẵn sàng”
dạy lớp hoà nhập, nhận nhiệm vụ một cách miễn cưỡng ... Dẫn đến thiếu nhiệt tình
trách nhiệm, làm cho qua việc. Giáo viên còn lúng túng và khó khăn trong việc tổ
chức và vận dụng các phương pháp đặc thù trong dạy hoà nhập. Bên cạnh đó,
mạng lưới giáo viên cốt cán về giáo dục hòa nhập chưa đủ mạnh và đồng để làm
nòng cốt cho việc thực hiện công tác chuyên môn. Các tổ chuyên môn về giáo dục
hòa nhập ở nhà trường chưa tổ chức được những hoạt động có tính chất chuyên sâu
về giáo dục hòa nhập mà còn mang tính chung chung, hình thức, thiếu tính thuyết
phục . Việc phát hiện và khắc phục những hạn chế, thiếu sót sai phạm trong giáo
dục hòa nhập thiếu kịp thời, chưa động viên, khích lệ được những người làm tốt,
phê bình xử lý những người vi phạm và thiếu trách nhiệm, hiệu quả công việc
thấp…
Cơ sở vật chất nhà trường thiếu đồng bộ, đặc biệt là đồ dùng dành riêng cho
GDHN quá thiếu đã gây rất nhiều khó khăn hạn, chế cho dạy hoà nhập. Chất lượng
dạy học hoà nhập học sinh khuyết tật nặng và ở các khối lớp 4 - 5 còn khá thấp dẫn
đến tâm lý chán nản của học sinh khuyết tật, gia đình và cả giáo viên trực tiếp dạy.
2.3. Nguyên nhân thực trạng
2.3.1. Nguyên nhân thành công
Để có được những thành công nhất định trong công tác giáo dục hòa nhập
trẻ khuyết tật như đã nêu ở trên trước hết đây là công việc có ý nghĩa nhân đạo sâu
sắc; phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục
phù hợp với điều kiện và đặc điểm của địa phương nên được các cấp, ngành và
nhân dân đồng tình ủng hộ. Đồng thời đã có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp lãnh
đạo trong ngành. Bên cạnh đó là nhờ có tấm lòng yêu thương học sinh của các giáo
viên trong trường Tiểu học Nghi Phú 2, với mong muốn đưa các em đến một môi
trường tốt nhất, các giáo viên đã tận lòng, tận tâm chăm sóc, hướng dẫn các em
bằng tất cả những gì bản thân có thể làm.
22



2.3.2. Nguyên nhân của hạn chế
Việc nhận thức về vai trò, vị trí của giáo dục hòa nhập của một bộ phận cán
bộ, giáo viên chưa tốt. Bên cạnh đó nhà trường chưa tích cực tham mưu, chưa có
cách tuyên truyền cho họ hiểu qua đó lôi cuốn họ hỗ trợ cho công việc của mình.
Dẫn đến có tình trạng địa phương – gia đình “khoán trắng” cho nhà trường coi đó
là công việc riêng của giáo dục, của nhà trường.
Tập huấn về giáo dục hòa nhập chưa đủ cả số lượng và chất lượng, chưa
cung cấp đủ kiến thức và kỹ năng thực hiện giáo dục hòa nhập cho cán bộ quản lý ,
giáo viên. Đồng thời cũng còn thiếu các hình thức trao đổi, giao lưu chia sẻ và học
tập kinh nghiệm trong quản lý, giảng dạy trong trường, giữa các trường với nhau ...
dẫn đến chưa phát huy được nhân tố tích cực điển hình, cũng như giúp khắc phục
kịp thời những khó khăn vướng mắc gặp phải trong công tác giáo dục hòa nhập.
Ý thức vượt khó vươn lên, tích cực tham gia vào học tập và hoạt động của
học sinh khuyết tật đôi lúc còn chưa tốt. Còn có tình trạng gia đình và học sinh
khuyết tật ỷ lại, phó mặc, thậm chí là bất hợp tác với nhà trường và giáo viên.
2.4. Biện pháp nâng cao hiệu quả
2.4.1. Nghiên cứu nội dung dạy học phù hợp với các học sinh khuyết tật
Căn cứ vào chuẩn kiến thức – kĩ năng cần đạt của mỗi học sinh, các cán bộ
và giáo viên nên nghiên cứu nội dung giảng dạy dành cho học sinh học hòa nhập.
Tuy nhiên không thể tham vọng nhiều hơn mà chỉ lựa chọn nội dung phù hợp với
khả năng tiếp nhận của các em. Do đó cầm xác định rõ mục tiêu chung, mức độ
cần đạt, kĩ năng cần có trong chương trình, Mỗi giáo án, xác định mục tiêu riêng
cần đạt trong từng bài học cho những học sinh này để có hướng khắc phục cho các
em.
Ví dụ: Trong bài tập đọc yêu cầu em đọc được 1 đoạn ngắn, đọc đúng,
tương đối trôi chảy. Hay trong bài chính tả, em chỉ cần viết được vài câu đúng
chính tả, chữ viết rõ ràng hoặc là trong môn toán các kiến thức cần đạt và theo em
suốt cuộc đời là các phép tính cộng, trừ, nhân, chia … nên điều cần nhất là giúp em
biết tính toán

23


2.4.2. Đánh giá sự tiến bộ của học sinh
Đánh giá sự tiến bộ của học sinh chính là thước đo chất lượng giáo dục và
sự phát triển về thể chất cũng như về tinh thần và kết quả học tập của các em. Để
thực hiện việc này, giáo viên có thể sử dụng các bảng ưới đây:
PHIẾU ĐÁNH GIÁ VỀ KHẢ NĂNG HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA
HỌC SINH KHUYẾT TẬT
Họ tên:………………. Lớp:…….. Dạng tật:………………………….
Khả năng hòa nhập

Dễ dàng

Khó khăn

Hầu như không
thực hiện được

Biện pháp khắc
phục

Tham gia phát biểu ý kiến
trong giờ học
Tham gia các trò chơi trong
giờ ra chơi
Tham gia lao động với lớp
Chủ động giao tiếp với bạn
Tham gia vào hoạt động văn
nghệ , thể thao


PHIẾU THEO DÕI KHẢ NĂNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH KHUYẾT TẬT
QUA CÁC KỲ
Hoạt động

Dễ dàng

Khó khăn

Hầu như không thực
hiện được

Nhu cầu cần trợ
giúp

Khả năng chú ý nghe
giảng
Ghi nhớ
Tập đọc
Chính tả
Khả năng giải toán
Mỹ thuật
Đạo đức
Tự nhiên và xã hội
Thể dục

Ngoài ra giáo viên có thể lập chỉ tiêu cụ thể cho từng môn
BẢNG KHẢO SÁT SỰ TIẾN BỘ CỦA HỌC SINH KHUYẾT TẬT
Tên học sinh


Khả năng nhận biết

Khả năng giao tiếp

24

Tiếp thu kiến thức


Sau mỗi học kỳ phải có sự điều chỉnh và kết quả đánh giá qua từng năm học
được tiếp nối lên các năm học trên. Có thể bổ sung thêm nhận xét của phụ huynh
về quá trình học ở nhà để giáo viên tham khảo.
Nói chung, người giáo viên dạy hòa nhập đóng một vai trò rất quan trọng trong
việc lĩnh hội kiến thức của học sinh khuyết tật học hòa nhập ở trên lớp học
2.4.3. Phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn
Giáo viên chủ nhiệm nên trao đổi trực tiếp với các giáo viên bộ môn về mặt
mạnh, mặt hạn chế của từng em, để giáo viên bộ môn quan tâm, chú ý đến các em
trong từng bài học, tiếp tục phát huy những điểm mạnh, hạn chế, khắc phục những
điểm yếu.
Ví dụ: Giáo viên dạy Mĩ thuật, dạy âm nhạc cũng tiếp tục đưa các em vào
tham gia hoạt động. Vẫn cho các em vẽ hoặc hát múa và chop hoạt động theo bạn.
Không kể kết quả có đạt như mong muốn hay không thì cũng không nên để cho
các em đứng ngoài lề lớp học mà các em phải thực hiện các hoạt động nối tiếp theo
khuôn khổ. Có như thế thì quá trình giáo dục các em mới liên tục, mới có hệ thống
và mới có tác dụng lớn trong sự phát triển đối với các em học hòa nhập.
2.4.4. Phối, kết hợp với gia đình và Ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp
Mỗi tuần học giáo viên nên trao đổi cụ thể tình hình của em ở lớp, những
tiến bộ cũng như điểm hạn chế và mong muốn gia đình thực hiện nối tiếp các hoạt
động ở nhà để củng cố và phục hồi chức năng cho em.Trao đổi, chia sẻ với ban đại
diện cha mẹ học sinh của lớp để nhận được sự đồng cảm, giúp đỡ về vật chất cũng

như tinh thần.
2.4.5. Xây dựng vòng tay bạn bè
Khi mới vào lớp, giáo viên có thể chủ động phân công các học sinh ngồi
cạnh và giúp đỡ học sinh khuyết tật nhưng sau một học kỳ, để cho trẻ khuyết tật
được tự chọn bạn mà trẻ cho là thích nhất và có thể giúp trẻ học tốt nhất. Giáo viên
phân chia học sinh trong lớp theo ba mức tiếp cận với trẻ khuyết tật:
1. Mức 1 (nhóm 1): từ 1 đến 3 học sinh có học lực khá trở lên, có khả năng
giúp bạn và được trẻ khuyết tật thân thiện nhất.
2. Mức 2 (nhóm 2) là nhóm bạn cùng tham gia giúp trẻ khuyết tật thực hiện
nhiệm vụ học tập, cùng chơi, cùng sinh hoạt, giúp đỡ trong các vấn đề cá nhân.
25


×