Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO DỤC CÔNG DÂN 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.86 MB, 19 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ GIẢI PHÁP TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở KHỐI LỚP 7
TRƯỜNG THCS BẰNG LANG ”

- Họ và tên tác giả: BẾ VĂN HIẾU : Bí danh: Không; Giới tính : Nam.
- Ngày sinh:
- Dân tộc:

05/09/1986.
Tày.

Tôn giáo: Không.

- Quê quán: Yên Hà- Quang Bình- Hà Giang.
- Chỗ ở hiện nay: Hùng An- Bắc Quang- Hà Giang.
- Trình độ văn hóa : 12/12.
- Trình độ chuyên môn; Cao đẳng giáo dục công dân- KTGĐ.
- Ngày bắt đầu tham gia công tác : 01/08/2011.
- Vào đảng: 05/12/2014.- Chính thức: 05/12/2015.
- Chức vụ : Giáo viên.
- Đơn vị công tác: Trường THCS Bằng Lang - huyện Quang Bình – tỉnh Hà Giang

1


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
“Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn giáo dục công dân ở
khối lớp 7 trường THCS Bằng Lang- Quang Bình- Hà Giang”.
I. PHẦN MỞ ĐẦU.


1. Lý do chọn đề tài.
Môn Giáo dục công dân được đưa vào chương trình dạy học từ rất lâu. Có thể
khẳng định rằng môn học này có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách của học sinh.
Tầm quan trong đặc biệt của môn học này ở cấp Trung học cơ sở đó chính là nó
góp phần hình thành thế giới quan lành mạnh cho học sinh,giúp học sinh hiểu, biết
phân biệt phải trái, biết tôn trọng bản thân, tôn trọng người khác, biết sống trung
thực , khiêm tốn, dũng cảm, biết yêu thương và vị tha.
Hơn nữa môn Giáo dục công dân còn đóng vai trò chính trong việc tích hợp rất
nhiều vấn đề như: Giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình, bảo
vệ môi trường, giáo dục pháp luật, giáo dục về an toàn giao thông…..
Mặc dù vậy nhiều giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ vị trí, tầm quan trọng của
bộ môn này trong đào tạo nhân cách, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh nên chưa
có nhiều suy nghĩ để tạo ra những phương pháp giảng dạy hiệu quả. Ngoài ra phần
lớn giáo viên đảm nhiện dạy môn Giáo dục công dân ở Trung học cơ sở thường được
đào tạo và dạy cùng môn học khác như môn Văn với Giáo dục công dân, Môn Sử với
Giáo dục công dân hoặc chủ nhiệm kiêm dạy thêm môn Giáo dục công dân…Chính
vì vậy việc giảng dạy bộ môn này gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay môn Giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở đã được chú ý hơn
trước, giáo viên giảng dạy bộ môn này được đi tập huấn, được thi giáo viên dạy giỏi
các cấp. Đặc biệt hàng năm Phòng Giáo dục có thanh tra Sư phạm giáo viên bộ môn
này. Qua những đợt thi giáo viên dạy giỏi và thanh tra Sư phạm giáo viên được học
hỏi và cọ sát rất nhiều song như vậy chưa đủ mà giáo viên cần phải tìm tòi, sáng tạo
phương pháp dạy học mới để phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo đồng thời gợi
niềm say mê, háo hức của học sinh đối với bộ môn Giáo dục nhân cách này. Đó chính
là lí do tôi chọn sáng kiến: “Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học
môn giáo dục công dân ở khối lớp 7 trường THCS Bằng Lang- Quang Bình- Hà
Giang ”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của sáng kiến.
- Bước đầu tìm một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn giáo

dục công dân ở khối lớp 7 trường THCS Bằng Lang- Quang Bình- Hà Giang trên cơ
sở đó đề xuất một số giải pháp kịp thời có hiệu quả trong học tập và rèn luyện uốn nắn
các em trở thành người công dân tốt.
- Rút ra được bài học kinh nghiệm cho bản thân.
- Tìm hiểu những vấn đề về lý luận có liên quan đến sáng kiến.
- Tìm hiểu một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn giáo dục
công dân ở khối lớp 7 trường THCS Bằng Lang- Quang Bình- Hà Giang từ đó tìm ra
2


nguyên nhân đề xuất các biện pháp nhằm giáo dục các em nâng cao chất lượng giáo
dục học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu thái độ học tập và tư tưởng đạo đức của học sinh lớp 7 qua đó Một số
giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn giáo dục công dân ở khối lớp
7 trường THCS Bằng Lang- Quang Bình- Hà Giang.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
Sáng kiến được áp dụng và nghiên cứu đối với học sinh lớp 7 trường THCS Bằng
Lang- huyện Quang Bình - Hà Giang năm học 2015-2016.
5. Phương phấp nghiên cứu:
- Để đạt được mục đích nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã sử dụng các
phương pháp sau:
a. Phương pháp điều tra:
- Trao đổi với giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn về năng lực học tập của
học sinh thông qua học bạ, sổ điểm, sổ liên lạc.
- Điều tra một cách khách quan không lựa chọn, không bắt buộc để thu thập các
thông tin chính xác và sử dụng một số kết quả thu thập được sau khi điều tra.
b. Phương pháp quan sát:
- Quan sát các em trong giờ học, giờ ra chơi để biết thái độ học tập của các em,
cách ứng xử của các em với bạn bè, thầy cô.

c. Phương pháp đàm thoại:
- Trực tiếp trò chuyện với học sinh qua việc tiếp xúc, nói chuyện với các em, đặt ra
các câu hỏi có liên quan để tìm hiểu nhận thức của các em về học tập là gì? để cho
các em trả lời đúng với suy nghĩ của mình. Qua đó thu thập các thông tin về cách học
tập và thái độ của các em đối với bộ môn giáo dục công dân.
d. Trò chuyện với giáo viên chủ nhiệm:
- Nhằm tìm hiểu từng đối tượng học sinh để nắm bắt được tính cách, hành vi đạo
đức của các em.
đ. Phương pháp trắc nghiệm:
- Dùng phiếu có ghi các câu hỏi và đáp án trả lời, trong đó có nhiều cách trả lời
nhưng chỉ có một cách đúng nhất.
e. Phương pháp thực nghiệm:
- Theo dõi đánh giá xem học sinh có tiếp thu được bài không trong các tiết học.
- Tác động đến đối tượng học sinh bằng việc khống chế thời gian, không gian như
kiểm tra miệng kiểm tra 15 phút, 1 tiết.

3


II. PHẦN NỘI DUNG.
1. Cơ sở lý luận.
Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh nhằm giúp nâng cao hiệu quả trong
giảng dạy môn giáo dục công dân trong nhà trường THCS Bằng Lang- Quang BìnhHà Giang từ đó hạn chế các thói quen lười biếng, quay cóp trong học tập, lừa dối cha
mẹ, thầy cô, dọa nạt bạn bè, hay trốn học và lảng tránh các hoạt động học tập trong
bộ môn giáo dục công dân.
Bên cạnh đó vẫn còn có những học sinh có tính ỷ lại chưa chịu khó tìm tòi dựa
dẫm vào bạn còn hay ngủ gật, lười chép bài, học bài, nhưng lại tỏ ra khéo léo, nhanh
trí trong việc giở những trò tinh nghịch với thầy cô, với cha mẹ. Những em này hay
xem thường bộ môn giáo dục công dân và coi đó là môn phụ, Các em thường đánh
mất đi sự tự giác trong học tập và trở nên chai lì.

* Những nguyên tắc giáo dục:
Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục đạo đức cho học sinh từ đó hình
thành thoái quen trong học tập có sự sáng tạo trong môn học và thống nhất với phối
hợp giáo dục giữa nhà trường và xã hội.
* Các phương pháp giáo dục:
- Phương pháp thuyết phục: Là phương pháp tác động vào lý trí, tình cảm của học
sinh để từ đó xây dựng những niềm tin vào môn học.
- Phương pháp rèn luyện: Là phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn
luyện cho các em có được những thói quen học tập, thể hiện được nhận thức và tình
cảm thành hành động thực tế trong giờ học.
- Phương pháp thúc đẩy: Là dùng những tác động có tính chất " cưỡng bách đạo
đức bên ngoài " để điều chỉnh, khuyến khích những động cơ kích thích bên trong của
học sinh nhằm xây dựng thói quen và coi trọng môn học cho học sinh.
2. Thực trạng.
a. Khó khăn:
- Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn giáo dục công dân ở
khối lớp 7 trường THCS Bằng Lang- Quang Bình- Hà Giang hiện nay không chỉ có
những người làm công tác giáo dục mới quan tâm mà đây là vấn đề nóng bỏng, bức
xúc trong mọi trường học đang được cả xã hội quan tâm.
- Đặc điểm học sinh của trường với nhiều con em dân tộc sinh sống ở những khu
vực có điều kiện khó khăn về kinh tế cũng như nhận thức về pháp luật của bản thân
các em và gia đình.một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến con cái và sự phát
triển của con nên dẫn đến việc nhận thức của các em còn nhiều hạn chế dẫn đến việc
tảo hôn hay vi phạm pháp luật.
- Tình trạng học sinh xuống cấp về mặt đạo đức và có những biểu hiện không lành
mạnh xuất hiện ngày càng nhiều, như thường xuyên trốn học, bỏ học, quậy phá, đánh
bi da, chơi điện tử, coi thường thầy cô, bạn bè, pháp luật. Thực trạng học sinh chưa
ngoan ở trường THCS Bằng Lang- Quang Bình- Hà Giang xuất hiện ngày càng nhiều
và phức tạp do đặc trưng của sự phát triển về mặt sinh lý và tâm lý.
4



- Thời gian dành cho bộ môn này còn ít (1 tiết/tuần). Sách giáo khoa hiện nay nội
dung chưa phong phú nếu giáo viên thiếu sự đầu tư thì giờ học sẽ nhàm chán, học
sinh không thích học bộ môn này. Giáo viên giảng dạy bộ môn này thường kiêm
nghiệm hai phân môn như Văn- Giáo dục công dân, sử - Giáo dục công dân…Chính
vì vậy mà thời gian dành cho bộ môn này chưa đủ dẫn đến bài giảng khô khan, đơn
điệu, qua loa. Tuy nhiên cũng có cái khó là đồ dùng dạy học còn hạn chế, tranh ảnh
minh họa ít phần lớn giáo viên phải tự chuẩn bị tự làm việc, sưu tầm tư liệu có thể mất
khá nhiều thời gian.
- Ngoài ra còn có sự tác động ảnh hưởng đến nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến
sự tiếp thu không chọn lọc các nền văn hoá bên ngoài, sự xâm nhập của các loại văn
hoá phẩm độc hại. Vì vậy việc quản lý và giáo dục học sinh ở các trường THCS hiện
nay gặp rất nhiều khó khăn và nhiều vấn đề chưa có cách giải quyết một cách có hiệu
quả, thoả đáng.
b. Thuận lợi:
Nhà trường THCS Bằng Lang là nơi học tập, trau dồi kiến thức và là nơi tu dưỡng
đạo đức. Đây là nơi chiếm nhiều thời gian hoạt động của học sinh, là nơi các em vui
chơi giải trí, giao tiếp với nhau nhằm hoàn thiện nhân cách của mình. Nhà trường
THCS Bằng Lang có điều kiện thuận lợi là có giáo viên chuyên môn giảng dạy bộ
môn giáo dục công dân ở tất cả các khối lớp đủ số lượng giáo viên giảng và có điều
kiện cơ sở vật chất phục vụ cho việc học tập ngoại khóa của các em học sinh trong bộ
môn giáo dục công dân( Tra cứu thông tin trên mạng, học tập qua video..), được sự
quan tâm của BGH và chính quyền địa phương trong việc tạo điều kiện thuận lợi nhất
cho các em tham gia học tập và tu dưỡng đạo đức. Qua đó các em có thể tiếp thu kiến
thức môn học nhanh hơn và đạt hiệu quả hơn từ đó ngày một nâng cao hiệu quả giảng
dạy của bộ môn.
Trong những năm học vừa qua nhà trường đã tạo điều kiện và thời gian trong việc
học tập môn giáo dục công dân trong nhà trường qua đó tạo điều kiện cho các em
tham gia vào các kì thi chọn học sinh giỏi từ cấp trường cho đến cấp tỉnh và đã đạt

được những kết quả cao trong các kì thi( Giải nhất cấp huyện, giải ba, khuyến khích
cấp tỉnh...) . Để đạt được những kết quả cao đó thì những giáo viên trực tiếp giảng
dạy đã biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học để tăng thêm sự hấp dẫn hứng thú
cho học sinh chẳng hạn như lấy tấm gương tiêu biểu ngoài cuộc sống và trong nhà
trường, học sinh đã tham gia kể chuyện, đóng vai, hoạt động nhóm… đã tạo được ấn
tượng, sự hứng thú cho học sinh trong giờ học. đối với tượng học sinh trường Trung
học Cơ sở Bằng Lang chúng tôi đa số các em đều ngoan và đã chú trọng việc học tập
của mình.Tuy nhiện còn một số học sinh chưa chủ động, tự giác học tập vẫn còn phải
nhắc nhở trong vấn đề tiếp nhận tri thức .Chính vì vậy tạo hứng thú cho học sinh
trong bài dạy là điều vô cùng quan trọng.
3. Giải pháp, biện pháp.
a, Giải pháp:
Môn Giáo dục công dân có vị trí tầm quan trọng, nó kết hợp với các môn học khác
có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức của học sinh. Song môn học này giáo dục với
tính chất cụ thể nhất. Nội dung các bài học đã trực tiếp xây dựng nên nền tảng tư
5


tưởng, tình cảm đạo đức, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân đối với gia đình, học
đường và cộng đồng xã hội. Vì thế giáo viên dạy bộ môn này cần phải thấy rõ và
đánh giá đúng được vị trí, tầm quan trọng của môn học.
Để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học là vấn đề mà bất kì giáo viên nào khi
lên lớp cũng đều mong muốn mình có thể làm tốt, song thực tế không phải ai cũng
thành công. Bằng chứng cho thấy có những giáo viên khi lên lớp học sinh rất thích
học nhưng cũng có những giáo viên khi lên lớp học sinh không có hứng thú với giờ
học, môn học gây ra mất trật tự. Theo tôi để tạo hứng thú trong giờ học Giáo dục
công dân giáo viên phải có những giải pháp cụ thể sau:
- Thứ nhất là giáo viên phải hiểu được yêu cầu và nội dung của công tác giáo
dục tư tưởng, chính trị đạo đức cho học sinh( Nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa
trước khi dạy).

Ở đây, giáo dục tư tưởng đạo đức và ý thức chính trị cho học sinh phải trên cơ sở
của chương trình, kiến thức của môn học. Mức độ giáo dục học sinh Trung học Cơ sở
là phải phù hợp với trình độ, lứa tuổi. Yêu cầu cụ thể như sau:
+. Công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, chính trị phải phù hợp với trình độ kiến
thức của chương trình học.
Đặc điểm kiến thức của lớp 7 về đạo đức là rất giản đơn như khái niệm về khoan
dung, lễ độ, trung thực… những kiến thức này thường phải gắn với thực tế để minh
họa, giảng giải và mức độ xây dựng tình cảm cho học sinh nhẹ nhàng, tự nhiên trên
cơ sở của việc giảng giải.
+. Công tác giáo dục phải phù hợp với đối tượng lứa tuổi
Hầu hết học sinh Trung học Cơ sở còn nhỏ tuổi. Việc hiểu các khái niệm còn trực
tiếp, cảm tính cho nên đòi hỏi giáo viên có phương pháp giáo dục thích hợp. Việc
giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh phải trên cơ sở ý nghĩa rút ra của mỗi khái
niệm và kiến thức bài giảng. Từ đó để học sinh cảm nhận và tự nâng lên thành nhận
thức và ý thức của bản thân. Tránh những lý thuyết chung chung, tránh những lời hô
hào phải thế này, thế kia.
+. Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh phải thiết thực, phù hợp
với yêu cầu thực tiễn của xã hội hiện nay
- Những yêu cầu về lối sống hiện nay
- Những ứng xử hàng ngày của học sinh (trong gia đình, nhà trường, xã hội).
- Những vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái
- Những vấn đề về kỷ luật trong học tập, lao động
- Thứ hai là nguyên tắc của công tác giáo dục tư tưởng đạo đức:
Giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh thông qua môn học Giáo dục công dân,
đó là việc làm rất khó nhưng bắt buộc. Ở đây, phải xuất phát từ khái niệm đạo đức
học của pháp luật. Chính vì vậy đòi hỏi các nguyên tắc sau:
+ Phải cho học sinh hiểu rõ khái niệm rồi mới rút ra ý nghĩa, cách vận dụng,
hình thành tư tưởng, tình cảm của học sinh.
+ Tính thực tiễn trong công tác giáo dục tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn
cuộc sống để giáo dục.

+ Giáo dục tư tưởng đạo đức đáp ứng với yêu cầu thiết thực của gia đìnhvà
toàn xã hội.
6


+ Giáo dục tư tưởng phải phù hợp với đối tượng, phù hợp với chương trình
học.
Tất cả các nguyên tắc trên là sự kết hợp hài hòa và gắn liền hữu cơ với nhau,
không thể coi nặng cái này mà coi nhẹ cái kia. Một bài giảng gây hứng thú cho học
sinh trước hết phải là một bài giảng có tính giáo dục tốt và phải biết vận dụng kết hợp
các nguyên tắc trên.
b, Biện pháp thực hiện:
Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh qua môn học Giáo dục công
dân muốn thực hiện được tốt, theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất.
Thầy là người gợi mở cho học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề đưa
kiến thức và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động. Giờ học
học sinh phải được " phát ngôn " theo sự hiểu biết của mình gắn với bài học giúp học
sinh say mê với môn học. Giáo viên như một người bạn, người tâm giao, có vướng
mắc là các em hỏi ngay mà không ngại.
Với sách giáo khoa giáo viên dựa vào khung sườn từ đó có cách gợi mở với mỗi
bài học để học sinh chủ động. Từ kiến thức nền đó, giáo viên " biến hóa " để học sinh
hiểu bài, biết thế nào là tốt - xấu, việc làm nào nên làm- việc làm nào cần tránh… Thực
tế nếu dập khuôn theo sách giáo khoa thì môn Giáo dục công dân là khô cứng, giáo
điều học sinh rất khó hiểu. Đối với chương trình giáo dục công dân có một số bài
khó, nhiều bài liên quan đến chính trị, tư tưởng như kiến thức đưa vào thì giáo viên
phải dạy và học sinh đều phải học tuy nhiên để minh họa rõ cho bài học thì khá khó
khăn. Từ thực tế giảng dạy tôi nhận thấy để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học
Giáo dục công dân lớp 7 trường THCS Bằng Lang thì bản thân tôi đã sử dụng một số
biện pháp sau:
* Thứ nhất là Biện pháp đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng, làm cho

bài giảng phong phú, sinh động và có sự kết hợp học đi đôi với hành từ đó học
sinh dễ hiểu và có ấn tượng sâu về bài học.
- Những tư liệu này phải phong phú cập nhật những vấn đề mang tính thời sự mà
học sinh quan tâm. Muốn vậy đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên theo dõi
những vấn đề của xã hội đặc biệt khi đọc các thông tin trên báo, mạng internet,
truyền hình… giáo viên phải lưu lại những vấn đề có thể phục vụ cho bài giảng.
* Thứ hai là Biện pháp nêu gương.
- Mỗi khái niệm đạo đức, pháp luật mỗi chủ đề cần đưa gương tốt về người thật,
việc thật. Đồng thời cả gương xấu nếu có để học sinh tránh. Những tấm gương nêu ra
phải được học sinh biết, đặc biệt là những tấm gương ở lớp, ở trường, ở gia đình, ở
địa phương mình.
* Thứ ba là Biện pháp đóng tiểu phẩm - sắm vai.
- Biện pháp này học sinh phải được chuẩn bị dưới sự hướng của giáo viên.
- Học sinh được thể hiện mình và thấy hứng thú hơn trong bài dạy.
* Thứ tư là Biện pháp cho học sinh kể chuyện liên quan đến bài học.
- Nhằm để học sinh tìm hiểu kỹ, sâu hơn về bài học. Đồng thời tự tin trước đám đông
và muốn thể hiện mình.
* Thứ năm là Biện pháp viết báo tường, hát các bài có chủ đề về đạo đức, pháp
luật, người tốt - việc tốt liên quan đến bài học.
7


- Biện pháp này giáo viên có thể kết hợp với đoàn thoại - giáo viên chủ nhiệm lớp
để học sinh được tập duyệt trong giờ sinh hoạt. Đồng thời những chủ đề lớn như "An
toàn giao thông", "Phòng chống tệ nạn xã hội", “Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên
nhiên” cần tổ chức trong các buổi chào cờ đầu tuần, hoạt động ngoại khóa, rất thiết thực
đối với mỗi học sinh.
Từ những biện pháp nêu trên bản thân tôi đã ứng dụng cụ thể trong nội dung bài dạy
trong chương trình giáo dục công dân lớp 7 như sau:
c, Ứng dụng trong bài dạy cụ thể môn giáo dục công dân lớp 7.


Tiết 15, 16: Thực hành ngoại khóa các vấn đề địa phương và nội dung
đã học
* Các biện pháp sử dụng trong tiến trình bài dạy kết hợp phương pháp tạo
hứng thú cho học sinh đối với nội dung bài này như sau:
Đối với bài này tôi thấy rằng đây là một bài khó cần tổng hợp lại các kiến thức đã
học, học sinh vận dụng những kiến thức đó vào thực tế thông qua các tình huống,
sắm vai, kể chuyện…là điều làm tôi luôn trăn trở và suy ngẫm để gây được sự hứng
thú, ấn tượng cho học sinh tôi đã vận dụng các biện pháp tích cực trong giờ dạy của
mình.
Để cho học sinh thêm hào hứng, vui vẻ, thoải mái khi vào bài học mới, tôi yêu cầu
học sinh hát tập thể bài hát “ Lớp chúng mình”.
Đầu tiên tôi cho học sinh ôn lại “phần lí thuyết” tổng hợp lại kiến thức một số bài
đã học. tôi đưa lên máy chiếu những hình ảnh liên quan để học sinh nhớ lại nội dung
mình đã được học.
Ví dụ như:

Sau đó tôi đặt câu hỏi, các con đã dược học những đức tính tốt đẹp nào?
Tôi đưa bản đồ tư duy chưa hoàn thiện lên bản( Bằng giấy Ao), yêu cầu học sinh dán
phần còn thiếu bằng trò chơi tiếp sức.

8


Thông qua phần này học sinh dễ dàng khắc sâu kiến thức đồng thời tạo được húng
thú, góp phần giảm sự mệt mỏi, căng thẳng.
Sau đó, tôi đặt câu hỏi liên quan đến các đức tính tốt đẹp đó như:
Truyền thống “Tôn sư trọng đạo” được tổ chức vào thời gian nào?
Đọc câu ca dao,tục ngữ nói về đức tính trên?
Lấy ví dụ về tinh thần “ Đoàn kết tương trợ”?

Tiếp theo tôi cho học sinh kể những câu chuyên liên quan đến các đức tính đó.
Học sinh đã chuẩn bị ở nhà, kể chuyện cùng với các hình ảnh liên quan đến câu
chuyện.
Chẳng hạn như câu chuyện “Đôi dép Bác Hồ”:

9


Sau đó tôi đặt câu hỏi xoay quanh câu chuyện như:
Em học được đức tính tốt đẹp nào ở Bác?
Ngoài đức tính Giản dị, em cong thuộc lời dạy nào của Bác?
Em thích chi tiết nào,chi tiết đó nói lên điều gì?
Ở phần này giúp các em tiếp thu bài học có hiêu quả tránh khô khan. Bài học rút ra từ
câu chuyện tác động mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của học sinh.
Để học sinh thấy rõ hơn ý nghĩa của đức tính giản dị, tôi chiếu hình ảnh học sinh
trường Trung học Cơ sở mặc đồng phục của trường:

Đồng phục giản dị mà đẹp phù hợp với học sinh. Đó chính là nét đẹp của học sinh
thanh lịch, văn minh.
Để kết thúc phần kể chuyện giáo viên cho học sinh múa bài “ Đôi dép Bác Hồ”
trên nền nhạc. Nhằm tạo sự thích thú,phấn khởi cho học sinh.
Tiếp theo học sinh đóng tiểu phẩm “Tôn sư trọng đạo”. Thông qua tiểu phẩm này,
học sinh khắc sâu thêm kiến thức, liên hệ thực tế hiệu quả. Đồng thời tạo được sự
hứng thú, chú ý cho người học. Ngoài ra còn rèn cho học sinh tính mạnh dạn, tự tin
trước đông người. đối với nội dung tiết 14- bài 11: “ Tự tin” giáo dục công dân 7 bản
thân tôi kết hợp các phương pháp sau:
Đối với bài này tôi thấy rằng đây không phải là bài dễ làm thế nào để cho học
sinh chiếm lĩnh được tri thức đồng thời biết vận dụng nó vào thực tế cuộc sống là
điều luôn làm cho tôi trăn trở và suy ngẫm. Để gây được sự hứng thú, ấn tượng cho
học sinh tôi đã vận dụng các biện pháp tích cực trong giờ dạy của mình. Tuy nhiên

yếu tố không thể thiếu làm cho tiết dạy thành công đó chính là sử dụng công nghệ
thông tin hiệu quả.
Để "Đặt vấn đề" tôi lấy câu chuyện "Trịnh Hải Hà và chuyến du học Singapo".
Tôi gọi 1 học sinh liên kể câu chuyện này cùng với các hình ảnh liên quan:

Trịnh Hải Hà và chuyến du học Xin-Ga- Po.
10


Sau khi học sinh kể chuyện xong, tôi cho học sinh tìm hiểu về câu chuyện, những câu
hỏi đó logic và được chiếu lên máy.
? Chuyện nói về việc gì?
? Bạn Hải Hà có điều kiện hoàn cảnh như thế nào?
? Vậy, Bạn đã học tiếng Anh như thế nào? và kết quả mà bạn đạt được là gì?
? Do đâu Hải Hà đạt được thành tích cao như vậy? Qua đó em có nhận xét gì
về bạn Hải Hà?
Từ đó học sinh thấy được Hải Hà là tấm gương về sự tự tin trong cuộc sống, con
người tự tin thì sẽ thành công trong cuộc sống.
Kết thúc câu chuyện, tôi cho học sinh rút ra khái niệm về sự tự tin qua tấm gương
Trịnh Hải Hà.=> Đó chính là nội dung bài học.
Để học sinh hiểu rõ hơn về tự tin là gì? Tôi cho học sinh đóng tiểu phẩm
"Chuyện nhỏ" thông qua câu chuyện học sinh phân biệt được tự tin với tự cao, tự đại
và tự ti.
11


Tự cao, tự đại
- Luôn coi mình là nhất,
là đúng.
- Không cần sự giúp đỡ,

hợp tác của ai.

Tự tin

Tự ti

- Tin vào khả năng bản thân.
- Rụt rè.
- Dám tự quyết định và hành- Nhút nhát.
động một cách chắc chắn
- Hoang mang dao
- Chủ động trong mọi việc.
động

Thông qua phần này giúp học sinh tự tin hơn trước đám đông, đồng thời có tinh
thần đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động nhóm, phát huy được khả năng của học
sinh.
Hơn nữa, học sinh còn rèn được khả năng về ngôn ngữ, mạnh dạn trình bày ý kiến
của mình và của cá nhân. Ngoài ra học sinh còn được nhận xét về phần trình bày của
các nhóm khác. Từ đó tạo được sự say mê, hứng thú của học sinh trong bài dạy.
Sau đó giáo viên đặt câu hỏi:
? Trong hoàn cảnh nào con người cần có tính tự tin? (trong mọi hoàn cảnh đặc biệt
là hoàn cảnh khó khăn).
Để từ đó học sinh rút ra được biểu hiện của đức tính tự tin. Đó chính là hành động
cương quyết, dám nghĩ dám làm; chủ động trong mọi việc.
Tiếp theo tôi đưa hình ảnh Nguyễn Ái Quốc và con tàu Đô đốc Latutes ở bến cảng
Nhà Rồng, Sau đó tôi đặt câu hỏi: Hình ảnh trên gắn liền với câu chuyện cảm động
nào về Bác. Em hãy kể lại câu chuyện đó? Thông qua phần này học sinh nhớ lại câu
chuyện và được đứng trước lớp thể hiện mình, đồng thời rèn luyện được đức tính tự
tin cho bản thân.


Sau đó tôi hỏi: Thông qua câu chuyện em học tập được đức tính gì của Bác? Sau
đó tôi chốt lại vấn đề.
Tôi lại đưa hình ảnh tiếp theo về thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí, tôi đặt câu hỏi: "Em
biết gì về thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí" hãy kể lại câu chuyện.

Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký “Nhà giáo ưu tú”
12


Sau đó giáo viên nhận xét giọng kể và đặt câu hỏi: Thông qua câu chuyện cùng với
những hình ảnh xúc động này, em học tập được gì ở thầy giáo? Học sinh bày tỏ suy
nghĩ, giáo viên chốt vấn đề.
Đây chính là biện pháp noi gương trong thực tế để học sinh biết được ý nghĩa của
sự tự tin trong cuộc sống hàng ngày.
Ở mục cách rèn luyện tôi đưa những hình ảnh học sinh trường Trung học Cơ sở
THCS tham gia vào các hoạt động tập thể. Tôi cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa của
những hoạt động đó? Sau đó hỏi: "Trong hoạt động trên, em đã tham gia vào những
hoạt động nào? Khi tham gia vào những hoạt động đó, em thấy mình như thế nào?".

Học sinh trình bày ý kiến, giáo viên tích hợp lại kiến thức sau đó tôi đặt câu hỏi:
Em thấy lớp mình những bạn nào đã có đức tính tự tin? Các bạn rèn luyện đức tính
đó như thế nào?
Thông qua phần này giúp những học sinh đã tự tin rồi phát huy hơn nữa, còn những
bạn chưa tự tin sẽ mạnh dạn hơn, dám thể hiện mình, tin vào khả năng của bản thân
mình.
Để tạo được sự hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học, phần kiến thức học sinh
chưa hiểu biết và có thái độ muốn tìm hiểu, muốn vậy kiến thức mà tôi truyền tới cho
học sinh "Nửa kín, nửa hở" tạo sự thú vị cho học sinh.
Tôi đưa ra bản đồ tư duy về nội dung bài học, một số nội dung còn thiếu yêu cầu

học sinh điền vào đó.

Thông qua phần này học sinh có thể khái quát lại toàn bộ nội dung bài đã học và có
dịp ghi nhớ lại nội dung đó. Sau đó học sinh lên bảng trình bày phần nội dung còn
thiếu và chốt lại nội dung bài học.
13


Ở mục luyện tập tôi đã cho học sinh xử lý tình huống liên quan đến bài học, chẳng
hạn như: "Trong giờ kiểm tra toán, cả lớp đang chăm chúc làm bài. Hân làm bài
xong nhìn sang bên trái thấy bài của Hoàng không giống bài của mình, Hân bèn xóa
đáp án cũ thay vào đó là đáp án mới giống của Hoàng. Hân nhìn sang phải, thấy
Tuấn làm khác với mình. Đáp án vừa mới ghi Hân vội xóa đi và ghi lại thì trống báo
hiệu hết giờ, cô giáo đã đi thu bài".
Sau đó tôi đặt câu hỏi "Em có nhận xét gì về hành vi của Hân?" và tôi chốt, nhấn
mạnh: Cần phải tin vào khả năng của bản thân, không được hoang mang dao động.
Tiếp theo tôi cho HS kể về những tấm gương thể hiện tốt đức tính tự tin trong học
tập của học sinh Trường THCS Bằng Lang.
Thông qua những hình ảnh và những tấm gương thiết thực đó. Học sinh sẽ học
tập và làm theo tấm gương thể hiện đức tính tự tin và đạt được nhiều kết quả tốt
trong học tập và rèn luyện.
Để làm cho bài giảng thêm phong phú tôi đưa hình ảnh cùng câu hỏi gợi mở để
học sinh tìm câu ca dao tục ngữ liên quan.
Ví dụ như:

4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm thực tế:
Với những giải pháp tôi vận dụng vào bài dạy của mình học sinh hiểu và nắm được
nội dung của bài, đồng thời các em đã biết vận dụng thực tế cuộc sống. Thông qua
tiết dạy như vậy nhiều em biết vận dụng kiến thức vào thực tế của của cuộc sống.
Hình thành những nhân cách tốt và có hứng thú học tập môn giáo dục công dân từ đó

nâng cao chất lương môn học. Không những nâng cao chất lương giáo dục mà còn
hình thành thói quen tham gia đóng tiểu phẩm, kể chuyện như vậy giúp các em nói
tốt, diễn tốt, một số em đã thâm gia dẫn chương trình của trường như em;
Một số em nhút nhát trở nên tự tin hơn, các em đã mạnh dạn, chủ động tham gia
vào các hoạt động tập thể của trường, của lớp.
Ngoài ra giúp các em mở mang được trí tuệ, học sử nhanh, học văn hứng khởi, các
em thích học các môn tin học, nhạc họa hơn. Hơn nữa các em có hứng thú trong giờ
học môn Giáo dục công dân, các em thấy được đây là môn học thực sự bổ ích, hình
thành trong các em tư tưởng đạo đức, có mục đích, tự tin hơn, thể hiện tài năng đóng
góp cho sự phát triển của đất nước.
Kết quả khi áp dụng giải pháp tạo hứng thu trong bộ môn giáo dục công dân học
năm học 2015- 2016 so với kết quả dạy theo truyền thống và phương pháp cũ năm
14


học 2014-2015 thể hiện rõ sự tiến bộ của các em. Tỉ lệ học sinh xếp loại đạt khá, giỏi
tăng, tỉ lệ học sinh đạt kết quả cao trong các kì thi chọn học sinh giỏi các cấp tăng:
Năm học/
Tổng
Yếu %
Tbình %
Khá %
Giỏi %
Lớp 7
số hs
2014- 2015
71
05-7,0 %
35- 49,3 % 25- 35,2%
06- 8,5 %

10- 18,2 %
2015- 2016
55
0%
13- 23,6 %
32- 58,2 %
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận
Trên đây là những suy nghĩ và việc làm của cá nhân tôi trong quá trình giảng dạy
môn Giáo dục công dân tại trường Trung học Cơ sở Bằng Lang. Đó là những ý kiến,
việc làm rất nhỏ góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học cũng như nâng cao
chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân.. học đi đôi với hành, rất phù hợp với đặc
trưng bộ môn. Để có những giờ học đạt hiệu quả cao, học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ nội
dung là một việc làm khó và đó cũng là những suy nghĩ và một số ý kiến đề xuất về
biện pháp giáo dục trong quá trình giảng dạy môn giáo dục công dân cho học sinh ở
trường THCS. Những giải pháp này có thành công hay không đòi hỏi phải có lòng
nhiệt tình, tận tuỵ với tinh thần trách nhiệm cao của những người làm công tác giáo
dục. để định hướng cho các em đi đúng mục đích giáo dục, trở thành những người
công dân có ích cho xã hội với đủ cả đức lẫn tài, đòi hỏi các nhà giáo dục phải có
những biện pháp thích hợp. Như Bác Hồ đã nói: “Có tài mà không có đức là người vô
dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Vì vậy, là một người giáo
viên tôi hiểu và ý thức được rằng việc truyền đạt kiến thức và giáo dục đạo đức cho
học sinh là một công việc khó, đang được toàn xã hội quan tâm.
Tôi mong muốn và hy vọng rằng bản thân mình sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào
sự nghiệp trồng người của nước nhà, uốn nắn, đào tạo thế hệ trẻ năng động, sáng tạo
hội tụ đầy đủ cả đức lẫn tài để đáp ứng đủ nhu cầu của thời đại công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đúng với câu: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Bên cạnh đó bản thân không ngừng trau dồi kiến thức lẫn tu dưỡng đạo đức, là
tấm gương sáng cho tất cả học sinh noi theo.
2. Một số đề xuất, kiến nghị:

- Thứ nhất đối với chính quyền địa phương: Không ngừng tạo ra các sân chơi bổ
ích lành mạnh tạo môi trường trong sạch và lành mạnh. Đề nghị chính quyền địa
phương cần rút giấy phép kinh doanh đối với các hàng quán trước cổng trường, các
quán net cách trường với bán kính 200m. Kiên quyết xử lý các hành vi phạm pháp
trên địa bàn.
- Thứ hai đối với Hội phụ huynh: Đẩy mạnh hơn nữa sự phối kết hợp giữa gia
đình-nhà trường –xã hội.
- Thứ ba đối với mỗi thầy cô giáo: Cần nâng cao uy tín của mình trước học sinh,
phải luôn là tấm gương sáng cho các em noi theo: “thầy phải ra thầy thì trò mới ra
trò”.
15


- Thứ tư đối với Ban giám hiệu nhà trường: Cần đẩy mạnh và có hiệu quả phong
trào: “ xây dựng trường học thân thiện và học sinh tích cực”. Phải có sự phối hợp
đồng bộ trong các tổ chức của nhà trường trong việc giáo dục học sinh. Trong quá
trình giảng dạy tôi mạnh dạn nêu ra một số giải pháp trong giảng dạy môn giáo dục
công dân khối lớp 7 ở trường THCS Bằng Lang- Quang Bình- Hà Giang, rất mong
được sự trao đổi, đóng góp chung của đồng nghiệp để chất lượng dạy học môn Giáo
dục công dân ngày càng được nâng cao, để học sinh hào hứng hơn với môn học này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Bằng Lang, ngày

tháng 09 năm 2016.

Người viết sáng kiến
(Ký tên)

Bế Văn Hiếu


16


Nhận xét của tổ khối chuyên môn
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.............................................................................................................
Tổ trưởng

Phê duyệt của thủ trưởng đơn vị
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
Thủ trưởng đơn vị

17


MỤC LỤC

A. NỘI DUNG………………………………………………..............Trang
- LỜI CẢM ƠN……………………………………………………………......3

I/ PHẦN MỞ ĐẦU: ………………………………………………..………....3
1/ Lý do chọn đề tài……………….....................................................................3
2/ Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài….…………………………………………....3
3/ Đối tượng nghiên cứu….……………………… ………………………...…4
4/ Giới hạn phạm vi nghiên cứu. ….…………………………………………...4
5/ Phương pháp nghiên cứu….…………………………………………………4
II/ PHẦN NỘI DUNG: ….…………………………………………………....5
1 / Cơ sở lý luận: ….………………………………………………….…...5
2/ Thực trạng: ……………………………………………………………..5
3 / Giải pháp và biên pháp:……………………………………………………..7
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:..........................................................16
1/ Kết luận.........................................................................................................16
2/ Kiến nghị ………………………………………………………………17
B) TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thiết kế bài giảng GDCD 7
2. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS.
3. Phương pháp lấy người học làm trung tâm Nguyễn Kỳ. Nhà xuất bản giáo
dục.

18


19



×