Một số kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát
xét xử sơ thẩm các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Ths. Lê Đức Xuân
Viện trưởng VKSND tỉnh Bình Phước
MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản có sự gia tăng
đáng kể về số lượng tội phạm và người phạm tội với thủ đoạn phạm tội ngày càng
tinh vi và táo bạo hơn, tài sản bị chiếm đoạt trong nhiều trường hợp lên đến hàng
ngàn tỷ đồng, gây thiệt hại nghiêm trọng cho các cá nhân, tổ chức.
Với vị trí là cơ quan kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong tất cả các giai
đoạn tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bảo đảm pháp luật
được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất, không để lọt người, lọt tội và không
làm oan người vô tội. Hiệu quả của công tác này phụ thuộc phần lớn vào kỹ năng
của Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn của Kiểm
sát viên khi tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm
sát xét xử sơ thẩm các vụ án nói chung và các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói
riêng trong nhiều trường hợp còn hạn chế như: không tiến hành kiểm sát thường
xuyên các biện pháp điều tra, không kịp thời phát hiện những thiếu sót trong quá
trình thu thập tài liệu, chứng cứ… dẫn đến một số trường hợp không đủ căn cứ để
khởi tố vụ án, khởi tố bị can hay không đủ cơ sở để truy tố, xét xử, yêu cầu điều tra
không đảm bảo… Những hạn chế, yếu kém đó đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền tự do dân chủ của công dân và ảnh hưởng nhiều đến uy tín của các cơ
quan tiến hành tố tụng. Do đó, để hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung và các vụ án
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng đạt hiệu quả cao, Kiểm sát viên nhất định
phải nắm chắc các kỹ năng cần thiết cả về chuyên môn và nghiệp vụ khi thực hiện
hoạt động hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử
sơ thẩm.
Từ những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu chuyên đề “Mộ t số kỹ năng thự c
hành quyề n công tố và kiể m sát điề u tra, kiể m sát xét xử sơ thẩ m các vụ án Lừ a
đả o chiế m đoạ t tài sả n” là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao
Trang 1
chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này trong tình hình
hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của chuyên đề là làm rõ một số kỹ năng của kiểm sát
viên khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các
vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như: Kỹ năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, kỹ năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án và khởi tố bị can, kỹ năng kiểm sát việc lấy
lời khai, hỏi cung, kỹ năng đề ra yêu cầu điều tra, kỹ năng lập cáo trạng, hoạt động
trước khi mở phiên tòa, kỹ năng tham xét hỏi, kỹ năng tranh luận, sau khi kết thúc
phiên tòa xét xử sơ thẩm, đồng thời đúc kết một số kinh nghiệm cho Kiểm sát viên
khi tiến hành các hoạt động này thông qua một số vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên thực tiễn có sai sót trong quá trình giải quyết.
3. Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề nghiên cứu những kỹ năng của kiểm sát viên khi thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
chủ yếu dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật tố tụng hình sự , Quy chế về Thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra các vụ án
hình sự (ban hành kèm theo quyết định số 07/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao) và kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình giải quyết
các vụ án về loại tội này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin về duy vật biện chứng, chính sách Hình sự của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra,
người viết còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp các quy định của pháp
luật có liên quan đến kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm
sát xét xử sơ thẩm án hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ đó, làm sáng tỏ
vấn đề nghiên cứu.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
đề tài được chia làm 2 chương:
Chương 1: Một số kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trang 2
Chương 2: Kinh nghiệm từ một số vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong
quá trình giải quyết có sai sót.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ KỸ NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA, KIỂM SÁT XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN
1.1. Một số kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Với vị trí là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát việc chấp hành
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(LĐCĐTS) nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bảo đảm pháp luật
được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất, không để lọt người, lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội. Căn cứ pháp luật, quy trình, nội dung, biện pháp thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn này của VKSND được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm
1992, Điều 112, 113 BLTTHS, Điều 1, 3, 12, 13, 14 Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 2002, Quy chế về Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong điều tra các vụ án hình sự (ban hành kèm theo quyết định số
07/QĐ-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao), viết tắt là
Quy chế 07.
Hiệu quả của việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên của VKSND phụ
thuộc phần lớn vào hoạt động thực thi công vụ của Kiểm sát viên được phân công
từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm đến khi kết thúc điều tra. Do đó, để hiệu quả
của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đạt hiệu quả cao, Kiểm
sát viên nhất định phải nắm chắc các kỹ năng cần thiết khi thực hiện hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Để góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự nói
chung cũng như các vụ án Lừa đảo chiếm đọat tài sản nói riêng, trong phạm vi của
chuyên đề, chúng tôi sẽ phân tích làm rõ một số kỹ năng của Kiểm sát viên khi
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1.1.1. Kỹ năng kiể m sát việ c tiế p nhậ n, giả i quyế t tố giác, tin báo về tộ i
phạ m Lừ a đả o chiế m đoạ t tài sả n
Trang 3
Trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản nói riêg, không được chủ quan, xem nhẹ việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm bởi đây là một trong những căn cứ xác định có hay không
có dấu hiệu tội phạm. Thông qua công tác kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội
phạm, Cơ quan điều tra xác định một hành vi nào đó có là tội phạm hay không từ đó
ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Để quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm bảo đảm tính khách
quan, toàn diện và triệt để, khoản 4 Điều 103 BLTTHS qui định: “Viện kiểm sát có
trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố”. Theo Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTPBNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02-8-2013 hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS
về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,trách nhiệm
chính của Viện kiểm sát là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác tiến hành một số hoạt
động điều tra ban đầu (sau đây gọi chung là Cơ quan điều tra). Như vậy, kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là một thẩm quyền của Viện kiểm sát
nhân dân trong đó đối tượng kiểmsát chính là hoạt động của Cơ quan điều tra
trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Để
thực hiện thẩm quyền này, Kiểm sát viên được phân công phải kiểm tra, giám sát
các hoạt động của Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao thực hiện một sốhoạt
động điều tra trong việc tiếp nhận, xác minh thông tin về tội phạm phục vụ cho
việc quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự nhằm đảm bảo các hoạt
động này luôn tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Hoạt động này có sự
gắn kết chặt chẽ và hỗ trợ đắc lực cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra, kiểm sát xét xử sau này của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án.
Khác với các tố giác, tin báo về tội phạm của các loại tội phạm khác, việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, có
những đặc thù riêng ở chỗ: Các tố giác, tin báo về tội phạm này chủ yếu là do
người bị hại (cá nhân, tổ chức) cung cấp cho Cơ quan điều tra; người bị hại sau khi
bị chiếm đoạt tài sản thường không phát hiện được do hành vi lừa đảo gây ra mà
phải qua một thời gian nhất định mới phát sinh nghi ngờ và mới tố cáo với cơ quan
điều tra. Để phát hiện hành vi phạm tội, người phạm tội, Cơ quan điều tra không
chỉ sử dụng các biện pháp tố tụng mà phải sử dụng các biện pháp nghiệp vụ và
phải trải qua một thời gian nhất định mới có thể thực hiện được. Chính vì vậy, để
Trang 4
kiểm sát việc tiếp nhận, tố giác, tin báo về tội phạm này có hiệu quả, kiểm sát viên
được phân công phải tập trung những vấn đề sau đây:
Quan hệ chặt chẽ với Cơ quan điều tra để quản lý được tình hình tiếp nhận
và xử lý ban đầu về tố giác, tin báo tội phạm này (Số lượng và nội dung tố giác, tin
báo).
Yêu cầu Cơ quan điều tra lấy lời khai người bị hại để làm rõ số người bị hại,
giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị tài sản bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
họ tên, địa chỉ người bị hại,thời gian, phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm...
Yêu cầu cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp tố tụng và nghiệp vụ để tiến
hành thẩm tra, xác minh phát hiện tội phạm và người phạm tội.
1.1.2. Kỹ năng thự c hành quyề n công tố và kiể m sát việ c khở i tố vụ án,
khở i tố bị can trong các vụ án Lừ a đả o chiế m đoạ t tài sả n
1.1.2.1. Kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố vụ án Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
Để bảo đảm thực hiện chứng năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
khởi tố vụ án có hiệu quả khi nhận được quyết định khởi tố hoặc quyết định không
khởi tố vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản kèm theo tài liệu, chứng cứ dùng làm căn
cứ cho việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, Kiểm sát viên được phân công phải
kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của các quyết định này cụ thể như:
- Kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi
tố vụ án. Yêu cầu kiểm sát viên phải làm rõ bốn dấu hiệu của tội phạm này bao
gồm: có hay không có hành vi chiếm đoạt tài sản, thiệt hại về tài sản, hành vi
chiếm đoạt tài sản đó có phải được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối hay không;
hành vi đó có nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
hay chưa, lỗi của người thực hiện hành vi đó?
Để làm rõ các vấn đề đó, kiểm sát viên phải nghiên cứu, kiểm tra các tài
liệu, chứng cứ sau đây:
+ Đơn tố cáo hoặc tin báo về hành vi chiếm đoạt tài sản, mục đích để nắm
được nội dung tin báo là gì? có thủ đoạn gian dối hay không? là thủ đoạn gì? Có
hành vi chiếm đoạt tài sản hay không, giá trị tài sản bị chiếm đoạt là bao nhiêu?
+ Các thông tin ban đầu về người phạm tội, phương thức, thủ đoạn thực hiện
tội phạm, động cơ mục đích phạm tội…;
+ Biên bản lấy lời khai của người bị hại và người làm chứng (nếu có) để làm
rõ hơn nội dung tố giác;
Trang 5
+ Các tài liệu, đồ vật thể hiện việc đối tượng có thủ đoạn gian dối;
+ Các tài liệu, biên bản thể hiện việc đối tượng có ý thức chiếm đoạt tài sản
tài sản (nếu được), giá trị tài sản mà đối tượng mong muốn chiếm đoạt; Biên bản
định giá tài sản.
+ Các tài liệu, biên bản thể hiện việc thỏa thuận, nội dung thỏa thuận; các tài
liệu thể hiện việc giao – nhận tài sản giữa người bị hại và người phạm tội (phiếu
chuyển tiền qua ngân hàng, biên nhận giao tiền/giao hàng, hợp đồng…).
+ Các tài liệu, biên bản thể hiện việc đối tượng có hành vi chiếm đoạt tài sản
(tài liệu thể hiện việc đối tượng đã bán tài sản, tài liệu thể hiện việc đối tượng cố ý
không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tài sản theo đúng thỏa thuận…)
- Kiểm tra tính hợp pháp của quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án.
Khi kiểm tra tính hợp pháp của quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, kiểm
sát viên phải kiểm tra những văn bản về những vấn đề sau:
+ Thẩm quyền ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, họ tên, chức
vụ của người ra quyết định, chữ ký, con dấu.
+ Nội dung quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án có ghi rõ thời gian,
căn cứ khởi tố hoặc không khởi tố. Nếu khởi tố thì theo khoản nào của Điều 139
của Bộ luật hình sự.
+ Kiểm tra hình thức các biên bản ghi lời khai, biên bản khám nghiệm hiện
trường, biên bản làm việc… có tuân thủ các quy định tại khoản 1 Điều 95 Bộ luật
tố tụng hình sự hay không? Việc kiểm tra tính hợp pháp của quyết định khởi tố
hoặc không khởi tố vụ án nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của văn bản tố tụng và giá
trị chứng minh của các chứng cứ đã thu thập được.
Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án Kiểm sát viên được phân công xử lý như sau:
Nếu thấy quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án là có căn cứ và hợp
pháp thì báo cáo lãnh đạo, vào sổ thụ lý và thông báo cho Cơ quan điều tra biết để
tiến hành các hoạt động điều tra tiếp theo hoặc chấm dứt các hoạt động điều tra.
Nếu quyết định khởi tố vụ án là không có căn cứ thì báo cáo lãnh đạo ra văn
bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ. Nếu cơ quan đã khởi tố không
nhất trí thì báo cáo lãnh đạo ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố. Nếu quyết
định khởi tố vụ án là không có căn cứ thì báo cáo lãnh đạo ra văn bản yêu cầu Cơ
quan khởi tố hủy bỏ, nếu không nhất trí thì báo cáo lãnh đạo ra quyết định hủy bỏ
Trang 6
quyết định không khởi tố vụ án và ra quyết định khởi tố vụ án đồng thời chuyển
cho Cơ quan điều tra để tiến hành các hoạt động điều tra tiếp theo.
- Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của
Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thụ lý vụ án phải kiểm tra tính có căn cứ của quyết
định khởi tố đó và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được
Viện trưởng uỷ quyền xử lý như sau:
+ Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ thì chuyển quyết định khởi
tố vụ án hình sự kèm theo các tài liệu có liên quan đến Cơ quan điều tra có thẩm
quyền để tiến hành điều tra;
+ Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì kháng nghị lên
Toà án cấp trên.
1.1.2.2. Kỹ năng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố bị can trong
các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 126 BLTTHS thì khi có đủ căn
cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì cơ quan điều tra ra
quyết định khởi tố bị can … Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố
bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố bị can và tài liệu liên quan đến
việc khởi tố bị can đó cho Viên kiểm sát cùng cấp xem xét phê chuẩn. Để đảm bảo
việc phê chuẩn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, kiểm sát viên được phân
công phải kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can.
- Kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố bị can. Khi kiểm tra tính có
căn cứ của quyết định khởi tố bị can, Kiểm sát viên phải kiểm tra, nghiên cứu các
tài liệu chứng cứ sau đây để làm rõ quyết định khởi tố bị can là đúng người, đúng
tội.
+ Nghiên cứu kiểm tra công văn đề nghị xét phê chuẩn của cơ quan điều tra
để nắm được yêu cầu của Cơ quan điều tra.
+ Nghiên cứu, kiểm tra quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can để xác
định tính phù hợp giữa hai quyết định này.
+ Nghiên cứu kiểm tra hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn bao gồm: Nghiên cứu
các tài liệu, chứng cứ dùng làm căn cứ để khởi tố vụ án như đã phân tích tại mục
1.1.2.1 để tiếp tục khẳng định sự việc có tính pháp lý hình sự xảy ra là có dấu hiệu
tội phạm và việc khởi tố vụ án là có căn cứ và hợp pháp. Mặt khác để đảm bảo việc
Trang 7
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đúng người, đúng tội, kiểm sát viên cần tập
trung nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ xét phê chuẩn sau đây:
+ Nghiên cứu biên bản lấy lời khai bổ sung của người bị hai sau khi đã có
quyết định khởi tố vụ án; biên bản ghi lời khai của người bị hại do Cơ quan điều
tra mới phát hiện hoặc do họ mới tố cáo với Cơ quan điều tra để xác định giá trị tài
sản bị chiếm đoạt;
+ Nghiên cứu biên bản bắt, khám xét đối tượng để xác định các dấu vết, vật
chứng mới được phát hiện, thu giữ trong quá trình bắt, khám xét chỗ ở, chỗ làm
việc, địa điểm và trong người đối tượng để xác định công cụ, phương tiện thực
hiện thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản.
+ Nghiên cứu biên bản ghi lời khai của đối tượng bị tạm giữ và biên bản hỏi
cung bị can đã được Điều tra viên tiến hành ngay sau khi khởi tố bị can để làm rõ
hành vi phạm tội của bị can; vị trí, vai trò của từng bị can trong vụ án có đồng
phạm và những vần đề khác về lỗi, tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, năng lực
trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác có liên quan đến việc giải quyết đúng đắn
vụ án.
+ Nghiên cứu các tài liệu chứng cứ do Cơ quan điều tra phát hiện và thu
thập được thông qua hoạt động kiểm tra, xác minh bổ sung để củng cố các nguồn
chứng cứ khác….
Sau khi nghiên cứu, kiểm tra các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, kiểm
sát viên phải xác định người bị khởi tố theo quy định tại Điều 139 có phải là người
đã thực hiện hành vi phạm tội và người đó có đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
và có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Trên cơ sở đó xác định việc khởi tố
bị can có căn cứ hay không.
Kiểm sát tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị can là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Cơ quan điều tra trong việc ra quyết định khởi tố bị can bao
gồm: kiểm sát việc thẩm quyền ra quyết định khởi tố bị can (Họ tên, chức vụ, chữ
ký, con dấu trong quyết định và các quy định tại khoản 2,3,4,5,6 Điều 126 Bộ luật
tố tụng hình sự; tại các Điều 80, 81, 82, 83, 84, 85,86, 131, 132, 135, 136, 140,
141, 142 của BLTTHS; mục 8, 11, 13 Thông tư liên tịch số 05/2005 và Điều 13
của Quy chế số 07/2008).
Sau khi nghiên cứu, kiểm tra các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xét phê
chuẩn nếu xác định quyết định khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp thì kiểm sát
viên báo cáo lãnh đạo ra quyết định phê chuẩn; nếu chưa đủ căn cứ thì báo cáo
Trang 8
lãnh đạo làm văn bản yêu cầu bổ sung; nếu quyết định khởi tố bị can rõ ràng là
không có căn cứ thì yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết định hủy bỏ nếu không
nhất trí thì báo cáo lãnh đạo ra quyết định hủy bỏ và trả tự do cho người bị khởi tố.
1.1.3. Kỹ năng kiể m sát hoạ t độ ng củ a Cơ quan điề u tra đố i vớ i việ c khám
xét, thu giữ , tạ m giữ , kê biên tài sả n
Trong các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đối tượng phạm tội thường
chuẩn bị những công cụ, phương tiện như giấy tờ giả, con dấu giả, quân phục, xe
máy… nhằm tạo ra nhưng “kịch bản” giả tạo (đang có việc nên vờ hỏi mượn xe,
đang cần huy động vốn để đầu tư sẽ trả lãi suất cao…) hoặc tạo cho mình thân thế
giả tạo (quan chức cao cấp, doanh nhân…) để gây lòng tin nơi người khác nhằm
chiếm đoạt tài sản. Những công cụ, phương tiện mà người phạm tội Lừa đảo chiếm
đoạt tài sản sử dụng là những vật chứng quan trọng có giá trị chứng minh tội phạm
và những vật chứng này chỉ có thể thu thập được thông qua hoạt động khám xét,
thu giữ. Bên cạnh đó, trong các vụ án Lừa đảo, sau khi chiếm đoạt tài sản, người
phạm tội có thể tẩu tán tài sản hoặc sử dụng vào những mục đích khác nhau, nhiều
trường hợp không thể thu hồi dẫn đến việc không thể hoàn trả hoặc bồi thường cho
người bị hại. Để đảm bảo chho việc giải quyết vụ án, nhiều trường hợp cần thiết
phải thực hiện việc kê biên tài sản của người phạm tội. Do đó, khi giải quyết các
vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhất thiết phải quan tâm đến hoạt động khám
xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản.
Khi kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng, kê biên tài sản,
Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên và những người tham gia khám xét chấp
hành đúng các quy định tại các Điều 75, 140, 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 và
148 BLTTHS và các quy định pháp luật hiện hành.
Đối với những trường hợp Cơ quan điều tra đề nghị phê chuẩn lệnh khám
người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; lệnh thu giữ thư tín, bưu kiện, bưu phẩm thì
Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các lệnh này và báo cáo
Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền xử
lý như sau:
- Nếu đề nghị phê chuẩn của Cơ quan điều tra có đủ căn cứ thì ra quyết định
phê chuẩn;
- Nếu đề nghị phê chuẩn của Cơ quan điều tra không có căn cứ thì ra quyết
định không phê chuẩn và nêu rõ lý do.
Đối với những trường hợp không thể trì hoãn, lệnh khám xét hoặc thu giữ
Trang 9
bưu kiện, bưu phẩm không có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, thì ngay sau khi
nhận được văn bản thông báo việc khám xét, Kiểm sát viên kiểm tra tính có căn cứ
và hợp pháp của các lệnh, biên bản khám xét để kịp thời phát hiện vi phạm, báo
cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền
có văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục; đồng thời, theo dõi và kiểm tra
việc bảo quản tài sản, xử lý vật chứng, giải quyết xử lý kịp thời những vấn đề liên
quan đến vật chứng, tài sản theo quy định tại Điều 75 và Điều 76 BLTTHS.
1.1.4. Kỹ năng kiể m sát việ c lấ y lờ i khai, hỏ i cung
1.1.4.1. Kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng và người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Để thu thập chứng cứ, xác định sự thật vụ án, Kiểm sát viên cần chủ động
yêu cầu Điều tra viên kịp thời lấy lời khai của những người làm chứng và người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án; không để sót những người làm chứng quan trọng mà họ trực tiếp nghe được,
nhìn thấy hành vi phạm tội, bảo đảm cho họ thực hiện quyền đưa ra tài liệu, đồ vật
và những yêu cầu của mình để làm rõ vụ án; nếu thấy cần thiết thì đồng thời với
việc ghi lời khai, có thể tiến hành ghi âm, chụp ảnh, ghi hình.
Khi kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Kiểm sát
viên yêu cầu Điều tra viên thực hiện đúng các quy định tại các Điều 133, 134, 135,
136 và 137 BLTTHS.
Trong quá trình điều tra và sau khi kết thúc điều tra vụ án, Kiểm sát viên có
thể triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án để kiểm tra chứng cứ
trong các trường hợp lời khai của họ có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu thuẫn với
những chứng cứ khác đã thu thập hoặc có nghi ngờ về tính trung thực, khách quan
trong lời khai của họ. Nếu việc triệu tập để lấy lời khai thực hiện trước khi kết thúc
điều tra thì Kiểm sát viên thông báo cho Điều tra viên thụ lý vụ án về thời gian, địa
điểm tiến hành việc lấy lời khai của những người này trước khi lấy lời khai để phối
hợp thực hiện.
Kiểm sát viên phải thực hiện đúng quy định tại các Điều 133, 135, 136 và
137 BLTTHS trong việc triệu tập, lấy lời khai và ghi biên bản lời khai. Biên bản
ghi lời khai do Kiểm sát viên tiến hành phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu
hồ sơ kiểm sát một bản.
Trang 10
Lưu ý, khi kiểm sát các biên bản lấy lời khai người bị hại trong các vụ án
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản Kiểm sát viên cần tập trung vào những vấn đề sau đây:
- Đối chiếu biên bản lấy lời khai người bị hại sau khi khởi tố vụ án với đơn
tố cáo hành vi phạm tội ban đầu để xem xét có vấn đề gì mới phát sinh hay không,
nếu có thì phát sinh vấn đề gì? Lý do vì sao?
- Biên bản lấy lời khai người bị hại để làm rõ phương thức, thủ đoạn thực
hiện tội phạm của các đối tượng phạm tội hay chưa?
Tính chất, mức độ thiệt hại thể hiện trong các lời khai của người bị hại như
thế nào và cụ thể là bao nhiêu.
- Nghiên cứu xem xét đánh giá đối chiếu các lời khai của người bị hại tại
các thời điểm khác nhau để xác định có hay không có mâu thuẫn cần làm rõ. Nếu
trong quá trình nghiên cứu kiểm tra các văn bản lấy lời khai người bị hại chưa
được làm rõ những vấn đề nêu trên thì Kiểm sát viên trao đổi với điều tra viên để
họ khắc phục hoặc làm văn bản yêu cầu Điều tra viên tiến hành lấy lời khai người
bị hại để làm rõ. Trong trường hợp cần thiết để nắm được phương thức, thủ đoạn
thực hiện hành vi phạm tội và kiểm tra tính chính xác của giá trị tài sản bị thiệt hại
thì Kiểm sát viên có thể triệu tập và lấy lời khai người bị hại nhưng phải thông báo
cho Điều tra viên biết và biên bản lấy lời khai phải lưu vào hồ sơ vụ án.
1.1.4.2. Kiểm sát việc hỏi cung bị can
Việc kiểm tra giám sát hỏi cung bị can được tiến hành bằng hai hình thức là
Kiểm sát viên trao đổi với Điều tra viên để cùng tham gia hỏi cung bị can, để bảo
đảm việc truy tố và thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đúng người, đúng
tội và chủ động trong từng hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa; hai là kiểm
sát các biên bản hỏi cung của Điều tra viên trong giai đoạn điều tra và truy tố. Khi
kiểm sát việc hỏi cung bị can của Điều tra viên, ngoài việc xác định việc hỏi cung
bị can của Điều tra viên để làm rõ các vấn đề cần phải chứng minh về thời gian, địa
điểm thực hiện tội phạm, công cụ phương tiện thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, những đặc điểm về nhân thân của bị can. Để
bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội đánh giá hết tính chất nguy hiểm của
hành vi phạm tội Kiểm sát viên cần tập trung làm rõ các vấn đề sau đây:
Đối với các vụ án có đồng phạm việc hỏi cung phải làm rõ ai là người tổ
chức (Chủ mưu, cầm đầu hay chỉ huy), ai là người thực hành, người xúi giục,
người giúp sức. Đồng thời phải làm rõ ai là người cung cấp các loại giấy tờ giả,
Trang 11
con dấu giả, quân phục, cấp hàm, cấp hiệu …cho người phạm tội? Các đối tượng
có biết mục đích của việc sử dụng các giấy tờ, đồ vật này hay không?
Về tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội. Đối với tội phạm Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản khi kiểm sát việc hỏi cung bị can cần làm rõ tính chất mức
độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, phương pháp, cách thức phân chia tài sản,
giá trị tài sản chiếm đoạt của từng người là bao nhiêu được thể hiện trong biên bản
hỏi cung hay chưa để làm cơ sở cho việc đề nghị mức độ bồi thường thiệt hại trong
giai đoạn truy tố và xét xử sau này. Qua nghiên cứu, kiểm tra nếu các biên bản hỏi
cung chưa làm rõ những vấn đề nêu trên thì Kiểm sát viên tiếp tục trao đổi và yêu
cầu Điều tra viên tiếp tục hỏi cung để làm rõ.
Trong quá trình điều tra vụ án, khi có đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc
thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất, lúc nhận tội,
lúc chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác
thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm
trọng thì Kiểm sát viên trực tiếp gặp, hỏi cung bị can. Trước khi hỏi cung, Kiểm
sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát
điều tra để xin ý kiến chỉ đạo và thông báo trước cho Điều tra viên biết.
Việc hỏi cung bị can và lập biên bản hỏi cung bị can do Kiểm sát viên tiến
hành phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 131 và Điều 132 BLTTHS. Biên
bản hỏi cung bị can của Kiểm sát viên phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ
sơ kiểm sát một bản.
1.1.5. Kỹ năng đề ra yêu cầ u điề u tra
Đề ra yêu cầu điều tra là một trong những quyền công tố của VKSND được
tiến hành trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản nhằm góp phần đảm bảo cho việc điều tra vụ án đúng
hướng, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, tránh làm oan sai và bỏ lọt tội
phạm. Quyền yêu cầu điều tra của VKSND được quy định tại khoản 2 Điều 112
BLTTHS, khoản 2 Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: Khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền
hạn đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra”. Theo
quy định tại Điều khoản 1 Điều 37 BLTTHS, kiểm sát viên có nhiệm vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự là người có trách nhiệm thực hiện
việc đề ra yêu cầu điều tra. Quyền đề ra yêu cầu điều tra của kiểm sát viên còn
Trang 12
được quy định cụ thể tại Điều 15 Thông tư liên tịch số 05/2005 và Điều 19 Quy
chế số 07/2008.
Để làm tốt kỹ năng đề ra yêu cầu điều tra đối với vụ án Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản phải có nhận thức đúng và tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm
quyền của VKS trong việc đề ra yêu cầu điều tra và đảm bảo các yêu cầu sau:
- VKS phải nắm vững lý luận về tội phạm và đặc trưng cơ bản của tội phạm
LĐCĐTS. Đây là cơ sở quan trọng đầu tiên giúp cho việc xác định phương hướng
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và cả quá trình điều tra chứng minh tội
phạm.
- Phải theo sát tiến độ điều tra để nắm được diễn biến, tính chất của vụ án,
nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ ánđể phát
hiện những vấn đề mâu thuẫn, những vấn đề cần tiếp tục làm rõ thêm trong vụ án.
Trên cơ sở đó chủ động, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra sát hợp với từng tình huống
cụ thể.
- Phải xác định rõ mục đích, yêu cầu của việc yêu cầu điều tra là giúp cho
ĐTV xác định đúng hướng điều tra, bảo đảm việc điều tra vụ án được khách quan
toàn diện, chính xác, đúng pháp luật, tránh làm oan sai, bỏ lọt tội phạm nên chỉ đề
ra yêu cầu điều tra khi cần thiết.
Nội dung của yêu cầu điều tra phải tập trung vào những vấn đề cần phải
chứng minh trong từng vụ án cụ thể. Qua khảo sát thực tế, cho thấy nội dung yêu
cầu điều tra đối vụ án LĐCĐTS thường tập trung các vấn đề sau:
Mộ t là, yêu cầu điều tra làm rõ dấu hiệu tội phạm LĐCĐTS.
KSV yêu cầu ĐTV thu thập các tài liệu, chứng cứ xác định có hành vi phạm
tội LĐCĐTS xảy ra trên thực tế hay chỉ vi phạm luật kinh tế, luật dân sự; có dấu
hiệu LĐCĐTS hay tội phạm có dấu hiệu tương tự thông qua việc nắm rõ đặc trưng
của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Đặc trưng của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản
bằng thủ đoạn gian dối. Người phạm tội cung cấp cho chủ tài sản hoặc người quản
lý tài sản hợp pháp thông tin sai sự thật khiến họ tin tưởng rồi giao tài sản cho
người phạm tội (hoặc người phạm tội không phải giao trả tài sản mà đáng lẽ phải
giao cho người bị lừa dối). Trong đó, hành vi cung cấp cho chủ tài sản hoặc người
quản lý tài sản hợp pháp thông tin sai sự thật là nguyên nhân trực tiếp, quyết định
việc chiếm đoạt của người phạm tội đối với tài sản đó. Ý thức chiếm đoạt tài sản
của người phạm tội luôn có trước khi có việc giao – nhận tài sản với người bị hại.
Trang 13
Hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo có hai hình thức thể hiện cụ thể: Nếu tài sản
bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể
của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Vì đã tin vào
thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã giao nhầm tài sản. Khi nhận
được tài sản cũng là lúc người phạm tội làm chủ được tài sản định chiếm đoạt và
người bị lừa dối đã mất khả năng làm chủ tài sản đó trên thực tế. Tội lừa đảo coi là
hoàn thành ở thời điểm này – thời điểm người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản.
Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình
thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải
giao cho người bị lừa dối. Vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị
lừa dối đã nhận nhầm tài sản hoặc không nhận. Khi người bị lừa dối nhận nhầm
hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài
sản bị chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất tài sản đó. Tội lừa đảo coi là hoàn
thành ở thời điểm này – thời điểm người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản.
Như vậy, để chứng minh tội phạm và người phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, Kiểm sát viên nhất thiết phải yêu cầu Điều tra viên tập trung yêu cầu làm rõ
những nội dung sau đây:
- Thủ đoạn gian dối
Đề xác định được có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra hay
không, nhất thiết phải chứng minh những vấn đề sau: Có thủ đoạn gian dối hay
không? Cụ thể là hành vi gì, thực hiện bằng công cụ, phương tiện nào?Hành vi
gian dối đó có nhằm chiếm đoạt tài sản hay không? Thủ đoạn gian dối có là điều
kiện trực tiếp để thực hiện hành vi chiếm đoạt không? Người bị hại có tin vào hành
vi gian dối mà giao tài sản cho người phạm tội không?
Bởi thủ đoạn gian dối của người phạm tội luôn được thể hiện bằng những
hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, không có thủ
đoạn thuộc về tư tưởng, suy nghĩ của người phạm tội lại không được biểu hiện ra
bên ngoài bằng hành vi nên việc xác định thủ đoạn gian dối là việc có thể thực
hiện. Trong nhiều trường hợp, thủ đoạn gian dối của người phạm tội rất tinh vi,
phức tạp. Tuy nhiên, thủ đoạn gian dối của người phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản thường được thực hiện một cách hết sức đa dạng.Tùy thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể mà người phạm tội có hành vi cụ đánh lừa được người khác sao
cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin mà giao tài sản cho người phạm tội.
Trên thực tế,thủ đoạn của người phạm tội rất tinh vi, phức tạp, liên quan đến kiến
Trang 14
thức chuyên sâu của nhiều lĩnh vực như: làm giả hóa đơn, chứng từ giả để lừa đảo
chiếm đoạt tiền hoàn thuế VAT, dự án giả để lừa đảo tiền đầu tư, giả mạo quyền sở
hữu tài sản để thế chấp vay tiền ngân hàng, dùng vàng bạc đô la giả, đồ cổ giả,
hàng giả để lừa bán lấy tiền... Do đó, để giải quyết vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, Điều tra viên, Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ về phương thức, thủ đoạn của
đối tượng, cần có những hiểu biết sâu sắc về hoạt động của đối tượng, nhất thiết
phải làm rõ thủ đoạn gian dối của đối tượng nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Yếu tố chiếm đoạt
Để chứng minh yếu tố chiếm đoạt trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
KSV, ĐTV phải xác định có sự cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản,
quyền tài sản đang thuộc sự quản lý của một chủ thể thành tài sản của mình. Đối
các vụ án LĐCĐTS dùng thủ đoạn gian dối như dùng lời nói khéo léo để gây lòng
tin rồi chiếm đoạt tài sản, dùng lợi ích vật chất để đánh vào lòng tham của người có
tài sản, đánh tráo tiền thật thành tiền giả, hàng thật thành hàng giả trong lúc trao
đổi, mua bán hàng để chiếm đoạt tài sản thì hành vi chiếm đoạt và ý thức chiếm
đoạt của người thực hiện tội phạm được biểu hiện ra ngay. Đối với các thủ đoạn
gian dối khác hoặc hành vi chiếm đoạt phát sinh trong quan hệ hợp đồng dân sự,
kinh tế, vay mượn tài sản... việc chứng minh người thực hiện tội phạm có ý thức và
hành vi chiếm đoạt là vấn đề khó khăn, phức tạp, nhất là khi bọn phạm tội sử dụng
những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt. Việc xác định có yếu tố chiếm đoạt hay
không thường được xác định qua người làm chứng hoặc người bị hại, thông qua
các giấy tờ xác nhận việc giao nhận tài sản giữa người bị hại với người phạm tội,
các hồ sơ, thủ tục để nhận được tài sản.
Nếu đối tượng chỉ có thủ đoạn gian dối nhưng không có ý định chiếm đoạt
tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tuỳ từng trường hợp cụ thể
mà người có hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài
sản hoặc chỉ là quan hệ dân sự, kinh tế... Hành vi chiếm đoạt tài sản thường được
thể hiện thông qua việc sử dụng tài sản không đúng mục đích cam kết, chi tiêu cá
nhân, sử dụng vào các hoạt động bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng thu hồi,
khả năng tài chính của các đối tượng không thể thanh toán được các khoản nợ,
chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn…
Do đó, để làm rõ yếu tố chiếm đoạt trong vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
KSV cần yêu cầu Điều tra viên cần xác định rõ những nội dung sau:
Trang 15
Đối tượng có hay không có ý thức chiếm đoạt tài sản? Thời điểm xuất hiện ý
thức chiếm đoạt tài sản (trước, trong hay sau khi giao – nhận tài sản)? Hành vi
chiếm đoạt của đối tượng được thể hiện dưới hình thức nào? Các chứng cứ chứng
minh việc đối tượng có ý thức chiếm đoạt và hành vi chiếm đoạt? Sau khi được
giao – nhận tài sản, đối tượng sử dụng tài sản vào mục đích gì?
Thực tiễn cho thấy, có thể chứng minh hành vi chiếm đoạt của người phạm
tội thông qua việc xác định các vấn đề sau1:
Thứ nhất, sau khi có thủ đoạn gian dối để được giao - nhận tài sản, đối
tượng có hành vi sử dụng tài sản vào các mục đích khác nhau như: bán tài sản; tiêu
xài hết và không có khả năng thanh toán; sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp
pháp; không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi theo thỏa thuận trong hợp
đồng khi nợ đến hạn mà không có sự chấp thuận gia hạn nợ, không được chủ nợ
đồng ý xóa nợ; cản trở việc phát mại tài sản để thu hồi nợ; đã mất khả năng thanh
toán trước đó nhưng vẫn dùng thủ đoạn gian dối để vay tiền hoặc để nhận tài sản
của người khác rồi dùng tài sản đó để trả nợ cho các khoản nợ trước đó rồi tuyên
bố vỡ nợ, không có khả năng thanh toán…
Thứ hai, sau khi có thủ đoạn gian dối để nhận được tài sản, đối tượng có
hành vi bỏ trốn để không phải trả lại tài sản. Có quan điểm cho rằng chỉ cần chứng
minh đối tượng bỏ trốn nhằm gây khó khăn cho chủ nợ trong việc thu hồi nợ, ngoại
trừ những trường hợp bỏ trốn vì sợ chủ nợ cưỡng bức, hành hạ là đủ để cấu thành
tội phạm. Thực tiễn cho thấy đây là yếu tố rất hay gây tranh cãi và dễ bị lạm dụng
trong thực tiễn để quy kết về mặt hình sự. Theo tác giả, việc bỏ trốn trên thực tiễn
có thể có rất nhiều lý do khác nhau. Bỏ trốn để tạm lánh mặt chủ nợ do hiện tại bản
thân họ không có khả năng trả nợ do kinh doanh thua lỗ, do họ cũng là nạn nhân
của việc bị người khác chiếm đoạt; bỏ trốn do sợ công an bắt, do sức ép từ các con
nợ… Do đó khi xác định việc bỏ trốn phải luôn gắn với yếu tố nhằm chiếm đoạt tài
sản. Để xác định đối tượng có bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản hay không cần xác
minh tại chính quyền địa phương nhiều lần, ghi lời khai người thân của đối tượng
(ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em), hàng xóm, người bị hại về việc họ có
liên lạc được với đối tượng không? Có biết đối tượng đã ở đâu không nếu qua xác
minh chính quyền địa phương xác nhận đối tượng đã bỏ đi khỏi địa phương không
khai báo, những người thân, hàng xóm, người bị hại xác nhận không biết đối tượng
1
/>
Trang 16
ở đâu thì xem xét đó là hành vi bỏ trốn. Qua xác minh nếu người bỏ trốn không có
khả năng thanh toán nợ hoặc đã bán tài sản trước khi bỏ đi cần xác định là bỏ trốn
nhằm chiếm đoạt tài sản.
Hai là, yêu cầu điều tra về người phạm tội
Có thể nói rằng việc chứng minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội,
mục đích, động cơ phạm tội, lỗi đãphạm phải, trách nhiệm hình sự phải chịu như
thế nào? – là những nội dung tất yếu và quan trọng trong quá trình điều tra các vụ
án lừa. Để làm rõ được những điều đó, kiểm sát viên cần yêu cầu điều tra viên thu
thập tài liệu chứng cứ để làm rõ những nội dung sau:
+ Căn cước lai lịch người phạm tội;
+ Đặc điểm nhân thân người phạm tội: đặc điểm riêng biệt, tiền án, tiền sự,
thái độ chấp hành pháp luật, các quyết định khen thưởng, kỷ luật…;
+ Động cơ, mục đích phạm tội là muốn chiếm đoạt tài sản cần đượcthể hiện
rõ ràng bằng chứng cứ trong hồ sơ vụ án;
+ Lỗi của người phạm tội, thái độ trước, trong và sau khi phạm tội cũng như
hành vi cố ý gian dối để lấy lòng tin nhằm chiếm đoạt tài sản;
+ Người thực hiện hành vi lừa đảo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự hay
không?
+ Hành vi phạm tội được diễn ra như thế nào? Có đồng phạm không? Vai trò
của từng đồng phạm?
+ Công cụ, phương tiện gây án, đồ vật, giấy tờ, tài sản mà người phạm tội sử
dụng để phạm tội hoặc chiếm đoạt được của người bị hại hoặc dùng để che giấu tội
phạm;
+ Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự?
+ Những tài sản thuộc sở hữu của người phạm tội phục vụ việc kê biên, thu
hồi tài sản bị chiếm đoạt.
Cần chú ý những vấn đề cần chứng minh thuộc nhân thân của người phạm
tội và mặt chủ quan của tội phạm làm cơ sở đinh khung đã được quy định tại Điều
139BLHS.
Ba là, yêu cầu điều tra về người bị hại
Kiểm sát viên cần yêu cầu Cơ quan điều tra thu thập tài liệu chứng cứ để
làm rõ về người bị hại là một trong những vấn đề bắt buộc phải thực hiện khi điều
tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Những nội dung cần làm rõ đó là:
+ Căn cước lai lịch người bị hại;
Trang 17
+ Mối quan hệ giữa người phạm tội với người bị hại, với những người có
liên quan, người làm chứng của vụ án? Những hiểu biết của họ về người phạm tội
và hành vi phạm tội? Lòng tin của họ đối với hành vi gian dối của người phạm tội
để từ đó tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội
+ Nguyên nhân, mục đích, lý do giao tài sản cho người phạm tội?
+ Thiệt hại hiện tại là như thế nào? Đã giao cho người phạm tội những tài
sản gì? Số lượng, đặc điểm, giá trị của những tài sản đó? Các thiệt hại thực tế khác
phát sinh từ việc bị lừa đảo ?
+ Các hành vi phạm tội và hành vi vi phạm pháp luật khác của người bị hại
trong vụ án như cố ý làm trái, thiếu trách nhiệm... là điều kiện để người phạm tội
thực hiện được tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà họ quản lý;
+ Các giấy tờ, tài liệu người bị hại đang giữ có ý nghĩa xác định việc chuyển
giao tài sản từ người bị hại sang người phạm tội và chứng minh các tình tiết khác
của vụ án như hóa đơn, chứng từ, hợp đồng,…
+ Những yêu cầu, đề xuất, kiến nghị của người bị hại?
Ngoài các yêu cầu điều tra nêu trên, KSV có thể yêu cầu ĐTV cần xác định
nguyên nhân điều kiện cụ thể làm phát sinh tội phạm để từ đó có những biện pháp
loại trừ những nguyên nhân và điều kiện đó. Đặc biệt cần chú ý, phát hiện, rút ra
những cơ sở, thiếu sót trong cơ chế quản lý kinh tế, tài chính nói chung và công tác
quản lý của từng cá nhân, đơn vị nói riêng để từ đó kiến nghị những biện pháp
khắc phục, chấn chỉnh hoạt động quản lý, qua đó góp phần tích cực, có hiệu quả
vào việc phòng ngừa tội phạm này.
Cần chú ý đối với những vụ án trọng điểm, phức tạp, án được dư luận xã hội
đặc biệt quan tâm, những yêu cầu điều tra trong nội dung có những yêu cầu thuộc
thẩm quyền của Viện trưởng, Phó viện trưởng và những người được Viện trưởng
tối cao ủy quyền như ký yêu cầu khởi tố bị can, bắt tạm giam... thì bản yêu cầu
điều tra phải thông qua lãnh đạo Phòng, lãnh đạo Viện trước khi ký, ban hành theo
quy chế 07/2008. Kiểm sát viên phải thường xuyên kiểm tra theo dõi, trao đổi với
điều tra viên trong suốt quá trình điều tra để thực hiện các nội dung yêu cầu điều
tra và kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và đảm bảo tính khả thi.
Trước khi CQĐT kết thúc vụ án, kiểm sát viên phải cùng Điều tra viên rà
soát toàn bộ các tài liệu, chứng cứ và nội dung các yêu cầu điều tra. Kiên quyết yêu
cầu điều tra viên thực hiện các nội dung quan trọng, cần thiết có ý nghĩa quyết định
việc truy tố, xét xử đồi với vụ án như trường hợp nghi ngờ người phạm tội bị tâm
Trang 18
thần, kiểm sát viên yêu cầu cơ quan điều tra trưng cầu giám định tâm thần có bị
bệnh tâm thần không, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự không? Ngoài bị
can thực hiện tội phạm còn có đồng phạm hay không? Vai trò từng đồng phạm như
thế nào?
1.1.6. Kỹ năng xây dựng cáo trạng
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu thấy các tài liệu, chứng cứ đã được thu
thập đầy đủ, toàn diện, Kiểm sát viên xây dựng dư thảo cáo trạng. Về hình thức và
nội dung viết cáo trạng đối với tội LĐCĐTS cũng phải thực hiện theo hướng dẫn
viết cáo trạng số 107, ban hành kèm theo Quyết định số 07 ngày 02/01/2008 của
Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao. Về phần mô tả hành vi phạm tội là phần trọng
tâm nhất của bản cáo trạng, cần vận dụng tổng hợp các kiến thức khoa học xã hội
và pháp lý nhằm thể hiện rõ hành vi phạm tội của bị can, với các nội dung cơ bản
sau:
- Khi viết diễn biến hành vi phạm tội cần đi thẳng vào trọng tâm hành vi
phạm tội của bị can từ khi nảy sinh ý định phạm tội, chuẩn bị phạm tội và thực
hiện hành vi xâm hại, chứ không phải những hành vi không liên quan trước khi
phạm tội như đi chơi, đi ăn uống, đi đánh bạc... làm cho bản cáo trạng dài và
không đảm bảo yêu cầu. Khi viết diễn biến hành vi phạm tội phải trên cơ sở tổng
hợp đánh giá chứng cứ của vụ án thể hiện tại bút lục nào. Trường hợp bị can chối
tội cũng phải viện dẫn chứng cứ để bác bỏ. Việc viện dẫn bút lục phải trên cơ sở
tổng hợp nguồn chứng cứ theo từng giai đoạn diễn biến tội phạm. Nội dung hành
vi phạm tội cần đảm bảo các nội dung chính sau:
- Nêu rõ diễn biến hành vi phạm tội từ khi bị can chuẩn bị, dự kiến lên kế
hoạch về phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội phạm. Người phạm tội thường sử
dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, khéo léo khác nhau để tiếp cận và gây lòng tin đối với
người bị hại, như: Dùng lời nói khéo léo, phù hợp với nhu cầu, tâm lý, lứa tuổi, sở
thích, nguyện vọng của người bị hại để gây lòng tin rồi chiếm đoạt tài sản; dùng lợi
ích vật chất để đánh vào lòng tham của người có tài sản; lợi dụng các mối quan hệ
quen biết từ trước, lợi dụng uy tín, vị trí của người khác để tạo lòng tin cho người
bị hại; đóng giả cán bộ nhà nước, là người có chức quyền đi ký kết hợp đồng, đi
tuyển người lao động; đánh tráo tiền thật thành tiền giả, hàng thật thành hàng giả
trong lúc trao đổi, mua bán hàng; làm giả giấy tờ quản lý tài sản để lấy tài sản; chủ
động đưa lãi suất cao để vay tài sản; dùng tài sản có giá trị đem thế chấp nhiều nơi
để vay tiền hoặc bán cùng một lúc cho nhiều người; tạo ra sự giàu có giả tạo; thành
Trang 19
lập công ty “rởm” để thu hút những người có tài sản đầu tư vào... Khi viết cáo
trạng cần làm rõ và chứng minh người thực hiện tội phạm sử dụng một hoặc nhiều
thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản. Thủ đoạn gian dối này thực hiện trước
hay sau khi nhận được tài sản? Thực tế có trường hợp người vay tài sản sử dụng
một số hành vi có tính chất gian dối như khai khống giá trị tài sản thế chấp, cầm
cố, cung cấp các giấy tờ giả mạo chứng minh khả năng tài chính để được vay tiền
hoặc để đáo nợ của ngân hàng hay của người khác với ý định sẽ hoàn trả, không có
ý thức chiếm đoạt tài sản, thì không phạm tội LĐCĐTS.
Tuy nhiên khi viết về diễn biến hành vi phạm tội của bị can, thì những tình
tiết đó phải được xác định bằng chứng cứ, tránh lệ thuộc vào lời khai của bị can.
- Hậu quả vật chất được xác định đối với tội chiếm đoạt là số lượng và giá trị
tài sản bị chiếm đoạt. Hậu quả được xác định bằng kết luận giám định, lời khai của
bị hại, bị can, nhân chứng. Trường hợp trưng cầu định giá tài sản phải thông báo
kết quả định giá cho bị hại và bị can biết để họ thực hiện quyền khiếu nại( nếu có).
- Nếu vụ án có đồng phạm thì phải chứng minh vai trò của từng người đồng
phạm. Tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của từng người đồng phạm để
cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với từng người đó.
Yêu cầu khi nêu và phân tích phải viện chứng cứ bằng các bút lục có trong
hồ sơ (trích dẫn các bút lục). Cần phân tích làm rõ các bị can phạm tội gì, theo
điểm, khoản, điều nào của BLHS, không cần phân tích quá sâu về tính chất, mức
độ nguy hiểm của tội phạm như trong bản luận tội.
Nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ (nếu có) lồng ghép trong nội dung của
cáo trạng. Trường hợp tình tiết giảm nhẹ thuộc về nhân thân thì viết ở phần lý lịch.
- Về trách nhiệm dân sự: Nêu rõ yêu cầu của người bị hại, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu bị can bồi thường hay không; nêu rõ giá trị tài
sản bị thiệt hại làm căn cứ buộc tội, vật chứng của vụ án đã thu giữ, hình thức xử
lý ra sao.
1.2. Một số kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm
các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Hoạ t độ ng củ a kiể m sát viên trư ớ c khi mở phiên tòa
Để chuẩn bị cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm có hiệu quả, Kiểm sát viên được phân công phải chuẩn bị
tốt các nội dung sau đây:
Trang 20
- Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để nắm được nội dung vụ án đặc biệt là hành vi
khách quan của bị cáo. Kiểm sát viên cần sử dụng máy tính để sắp xếp hệ thống tài
liệu, chứng cứ luận tội, gỡ tội các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
theo thứ tự bút lục có trong hồ sơ để chứng minh hành vi phạm tội của bị can, hoặc
từng bị can trong các vụ án có đồng phạm và tình tiết có liên quan để chủ động
trong quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa.
- Xây dựng hồ sơ kiểm sát đầy đủ, toàn diện, khách quan đúng quy định của
Ngành. Kiểm sát viên cần phô tô đầy đủ các quyết định, một số biên bản hoạt động
điều tra cần thiết, các tài liệu, hợp đồng, hóa đơn, chứng từ giao nhận tiền/tài sản,
phân chia tài sản chiếm đoạt… Trích cứu có phản ánh đầy đủ nội dung lời khai của
bị hại, người làm chứng, biên bản hỏi cung bị can… để phục vụ cho hoạt động của
kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm (Nếu có).
- Xây dựng đề cương xét hỏi và dự kiến một số tình huống có thể xảy ra và
hướng giải quyết trên cơ sở kết quả THQCT, KSĐT vụ án, qua nghiên cứu hồ sơ
vụ án, xem xét các vật chứng, lời khai bị can, bị hại, nhân chứng…, các dư luận
báo chí, xã hội và phải dự báo có thể bị cáo sẽ chối tội, phản cung như thế nào,
người bị hại, người làm chứng sẽ khai khác với quá trình điều tra, người bào chữa
sẽ tập trung xét hỏi những vấn đề gì gỡ tội cho bị cáo. Dự thảo đề cương tham gia
xét hỏi phải chuẩn bị một cách đầy đủ, chi tiết và toàn diện nội dung vụ án; các câu
hỏi phải sát với các tình tiết của vụ án LĐCĐTS câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ
trả lời, nếu vụ án có nhiều bị cáo, các bị cáo khai báo mâu thuẫn với nhau thì xét
hỏi bị cáo nào trước, bị cáo nào sau; chuẩn bị chứng cứ để đấu tranh làm rõ và các
tài liệu cần công bố, chuẩn bị các tình huống và tài liệu đấu tranh nếu bị cáo và
những người tham gia tố tụng khai khác với tài liệu điều tra và diễn biến của vụ án.
. Đề cương xét hỏi phải được Kiểm sát viên chuẩn bị đầy đủ để chủ động trong quá
trình xét hỏi và chỉ đặt những câu hỏi trong phạm vi hiểu biết của Kiểm sát viên và
trong phạm vi chứng minh của các tài liệu, chứng cứ do các chuyên gia trong các
lĩnh vực chuyên ngành và các công cụ phương tiện thông thường mà Cơ quan điều
tra đã thu thập được giấy tờ giả, quân phục, cấp hàm,… Có thể đặt ra các tình
huống của bị cáo đổ lỗi cho nhau, thừa nhận hành vi phạm tội ở khung hình phạt
nhẹ hơn, bồi thường ở mức thấp hơn… và dự kiến để xử lý tình huống các tình
huống đó.
Khi xây dựng đề cương, phải chuẩn bị các tài liệu chứng cứ thu thập được
và dự liệu các phương pháp xét hỏi, cách đặt câu hỏi như:
Trang 21
+ Đặt câu hỏi ngắn hỏi, dễ hiểu tường thuật lại những gì mà họ đã biết, đã
nghe về các tình tiết của vụ án, về những gì mà họ trực tiếp thực hiện. VD: Hỏi bị
cáo về quá trình thực hiện hành vi phạm tội ra sao? Hỏi người bị hại về việc bị
chiếm đoạt tài sản? Hỏi những người làm chứng nhìn thấy sự việc phạm tội diễn ra
trong thực tế ra sao?... Muốn cho loại câu hỏi này được trả lời đúng thì KSV cần
nắm chắc diễn biến hành vi phạm tội để nếu thấy người trả lời không chính xác,
hoặc dài dòng thì KSV lưu ý người được hỏi phải trả lời chính xác và trả lời đúng
câu hỏi, tránh làm mất thời gian của phiên tòa.
+ Câu hỏi gợi mở làm cho người hỏi trả lời những nội dung mà người đó
biết, nhưng vì thời gian lâu nên không còn nhớ. Thông thường câu hỏi gợi mở này
nhằm làm cho người được hỏi nhớ lại những gì đã xảy ra trước đây về thời gian,
địa điểm và sự việc diễn ra trong thực tế như thế nào.
+ Câu hỏi phản bác lại việc khai báo không đúng sự thật đối với các trường
hợp tại phiên tòa người được hỏi khai báo không đúng sự thật. KSV cần đặt những
câu hỏi để người được hỏi trả lời về sự gian dối của mình, hoặc hỏi những người
khác để bác bỏ việc khai báo không đúng sự thật đó.
+ Câu hỏi bổ sung trong trường hợp tại phiên tòa bị cáo, người bị hại, người
làm chứng trả lời câu hỏi của KSV không chính xác về thời gian, nội dung, địa
điểm sự việc. Trong trường hợp này KSV phải tiếp tục đặt câu hỏi để người được
hỏi trả lời cho chính xác. Kiểm sát viên có thể đặt các câu hỏi đối với người khác
để trả lời bổ sung. Khi đặt câu hỏi, KSV phải chú ý, nhanh nhạy phát hiện những
mâu thuẫn, những thiếu sót của lời khai để hỏi bổ sung nhằm làm cho người được
hỏi khai đúng với sự thật khách quan.
- Viết ra dự thảo luận tội: Dự thảo luận tội của Kiểm sát viên đối với các vụ
án lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải đảm bảo các vấn đề sau đây:
+ Về yêu cầu của luận tội: luận tội phải có căn cứ, chính xác, khách quan và
cụ thể; luận tội phải có tính giáo dục, thuyết phục và phòng ngừa cao; văn phong
sử dụng trong bản luận tội phải trong sáng, dễ hiểu, ngôn ngữ tiếng nước ngoài cần
được phiên âm đúng từ, đúng nghĩa khi cần có thể giải thích nghĩa.
+ Về hình thức phải theo mẫu hướng dẫn của VKSND Tối cao.
+ Về nội dung: ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung của luận tội phải
thể hiện đầy đủ các mặt nội dung sau đây:
Thứ nhất: phân tích đánh giá chứng cứ dựa trên bốn yếu tố cấu thành tội
phạm. Trước hết phân tích hành vi khách quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trang 22
thuộc hành vi khách quan nào được thể hiện ở lời khai người bị hại, lời nhận tội
của bị cáo như thế nào. Sau đó phân tích đánh giá ý thức chủ quan… Tiếp đó là các
vấn đề khác như động cơ, mục đích, công cụ, phương tiện, phương thức, thủ đoạn
thực hiện tội phạm của bị cáo, các bị cáo như thế nào?
Thứ hai: Khi phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, cần nhấn mạnh tội phạm này xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản
của cá nhân, tổ chức hay Nhà nước;
Thứ ba: luận tội phải phân tích được những sơ hở thiếu sót trong công tác
quản lý kinh tế, quản lý tài chính ngân hàng, quản lý xã hội… và đưa ra các kiến
nghị phòng ngừa.
Thứ tư: luận tội phải đề xuất đường lối xử lý vụ án rõ ràng cụ thể về tội
phạm, hình phạt chính, hình phạt bổ sung đối với bị cáo hoặc từng bị cáo; vấn đề
về bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng.
1.2.2. Kỹ năng tham gia xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm
Trong qúa trình xét hỏi các vụ án LĐCĐTS, Kiểm sát viên cần tập trung
chuẩn bị những nội dung bảo vệ cáo trạng và chú ý xét hỏi đối với bị cáo, người bị
hại, cụ thể như sau:
- Xét hỏi bị cáo.
Nhiệm vụ của hoạt động xét hỏi bị cáo tại phiên tòa là kiểm tra các làm rõ
đặc điểm về lý lịch, nhân thân bị can, thời gian, địa điểm xảy ra vụ án, thủ đoạn
gây án, che giấu tội phạm, diễn biến hành vi lừa đảo, công cụ phương tiện gây án,
số lượng, đặc điểm, giá trị tài sản đã chiếm đoạt, đồng phạm, những vụ án khác mà
bị can đã gây ra hoặc biết được…
Từ thực tế xét xử các vụ án LĐCĐTS, cho thấy tại phiên tòa, bị cáo thường
khai báo gian dối, ngụy biện, phản cung và khai không có ý định chiếm đoạt mà do
nguyên nhân khách quan do làm ăn thua lỗ không trả được cho người có tài sản,
không thực hiện thủ đoạn gian dối. Chính vì vậy, trước khi tham gia kiểm sát xét
xử vụ án, KSV phải làm tốt công tác chuẩn bị như: Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, tìm
hiểu đặc điểm về nhân thân, về thủ đoạn gây án, tâm lý, thái độ của bị can; xác
định tài liệu chứng cứ có thể sử dụng trong xét hỏi, nội dung diễn biến hành vi
phạm tội, dự kiến câu hỏi, lựa chọn chiến thuật sẽ áp dụng cho phù hợp với từng bị
can cụ thể; phải triệt để sử dụng kết quả điều tra thu được từ lấy lời khai của người
bị hại, người làm chứng, nhận dạng, khám xét, khám nghiệm hiện trường và các
bản cung bị can nhận tội trong quá trình điều tra, truy tố phục vụ cho việc xét hỏi
Trang 23
bị cáo. Sau đây là một số tình huống có thể xảy ra trong quá trình xét hỏi bị cáo tại
phiên tòa:
+ Trường hợp bị cáo không trả lời,KSV hỏi những người khác và xem xét
vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án và khi hỏi người khác xong thì quay lại
tiếp tục hỏi bị cáo. Lần hỏi này, KSV cần dùng những lời khai của những người
liên quan trước đó, kết hợp việc công bố các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong
quá trình điều tra, truy tố để đấu tranh với bị cáo và trên cơ sở đó phân tích, làm rõ
nội dung thủ đoạn phạm tội của bị cáo, lên án thái độ khai báo tại phiên tòa.
+ Trường hợp bị cáo không nhận tội, phản cung, tình huống này thường gặp
trong các vụ án LĐCĐTS phức tạp, nhiều bị cáo tham gia, vụ án có luật sư tham
gia bào chữa. Trong trường hợp này, KSV phải bình tĩnh sử dụng các chứng cứ
khác có trong hồ sơ vụ án và các tài liệu được xét hỏi tại phiên tòa để đấu tranh
thuyết phục bị cáo. Đồng thời, KSV cần hỏi những người làm chứng về tình tiết
liên quan đến câu hỏi đã hỏi bị cáo, sau đó, KSV cho xem xét các chứng từ, vật
chứng để bác bỏ lời khai không chính xác của bị cáo. Tiếp đó, KSV cần giải thích
cho bị cáo biết lời nhận tội của bị cáo trước đây đã được xác minh và bị cáo nhận
tội là có căn cứ. Đồng thời, KSV hỏi bị cáo tại sao trước đây bị cáo nhận tội với
CQĐT và VKS nay tại phiên tòa bị cáo lại chối tội? Trong trường hợp bị cáo khai
do ĐTV bức cung, mớm cung thì KSV hỏi tiếp là bức cung, mớm cung lúc nào? Ở
đâu? Ai là người thực hiện? Thực hiện như thế nào? Và tại sao khi KSV phúc cung
thì bị cáo không khai vấn đề này. Nghĩa là phải truy đến cùng về lời khai phản
cung của bị cáo, sau đó, KSV đề nghị công bố các tài liệu có liên quan để bác bỏ
lời khai không có căn cứ của bị cáo.
+ Trường hợp bị cáo thay đổi lời khai, đối với trường hợp này KSV cũng đối
chiếu với các chứng cứ khác để đặt câu hỏi bác bỏ lời khai không chính xác, xác
định trách nhiệm của bị cáo trước pháp luật và động viên bị cáo khai báo thành
khẩn để được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật.
+ Trường hợp bị cáo không khai, trường hợp này KSV yêu cầu HĐXX công
bố những lời khai có ý nghĩa chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo trong quá
trình điều tra, truy tố. Đồng thời, yêu cầu HĐXX công bố các tài liệu khác có liên
quan như lời khai người làm chứng, chứng từ, tài liệu khác, các vật chứng để
chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo.
- Xét hỏi người bị hại.
Trang 24
Trong các vụ án LĐCĐTS, người phạm tội khi gây án, thường trực tiếp tiếp
xúc với người bị hại, nên người bị hại có cơ hội và điều kiện để biết về thủ phạm
và chứng kiến diễn biến của sự việc phạm tội xảy ra. Qua thực tiễn điều tra, truy
tố, xét xử các vụ án LĐCĐTS cho thấy một trong những thủ đoạn mà người phạm
tội sử dụng là dùng lợi ích vật chất đánh vào nhu cầu hưởng lợi của người bị hại để
dụ dỗ chiếm đoạt tài sản, nên quá trình xét hỏi người bị hại thường khai báo không
đầy đủ hành vi phạm tội của bị cáo để giữ thể diện của mình. Do vậy, việc xét hỏi
người bị hại là một việc làm rất quan trọng nhằm làm rõ sự thật của vụ án và góp
phần cùng HĐXX quyết định bản án khách quan, đúng quy định của pháp luật.
Việc lấy lời khai của người bị hại cần làm rõ những nội dung sau: Thời gian, địa
điểm xảy ra vụ án, số lần bị chiếm đoạt tài sản, có ai biết về sự việc đó; quan hệ
giữa người bị hại với thủ phạm như thế nào? Diễn biến hành vi phạm tội, thủ đoạn
tiếp xúc làm quen, thủ đoạn dùng lời nói, dùng đồ vật, giấy tờ gây lòng tin, những
công cụ phương tiện đã sử dụng phạm tội, cách thức chiếm đoạt tài sản; thiệt hại
do thủ phạm gây ra, đặc điểm,số lượng, giá trị tài sản bị chiếm đoạt, những hậu quả
thiệt hại khác phải chịu do bị chiếm đoạt tài sản, yêu cầu bồi thường thiệt hại. Khi
tham gia xét hỏi cần sử dụng các chứng cứ khác để kiểm tra và loại trừ mọi tình
tiết khai không đúng sự thật của người bị hại.
Khi HĐXX hỏi người bị hại, KSV phải chú ý ghi chép đầy đủ về nội dung
trình bày của họ để cân nhắc cần đặt câu hỏi như thế nào để tránh lặp lại và bổ
sung làm rõ những nội dung chưa được xét hỏi. Khi đặt câu hỏi làm rõ các nội
dung trên, KSV cần chú ý tập trung hỏi những tình tiết liên quan đến vụ án mà cáo
trạng đã đề cập, những vấn đề mà họ trình bày chưa rõ và còn có mâu thuẫn trong
việc xác định lợi ích, nội dung việc bồi thường thiệt hại.
1.2.3. Kỹ năng tranh luận
Hoạt động tranh luận của KSV tại phiên toà xét xử các vụ án LĐCĐTS là
làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, nhằm góp phần cùng với HĐXX
giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai
cũng như bỏ lọt tội phạm. Như vậy, tranh luận của KSV không chỉ là buộc tội mà
cần phải chú ý cả vấn đề gỡ tội. Tranh luận của KSV bao gồm trình bày lời luận tội
và đối đáp với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. KSV
cần thường xuyên rèn luyện các kỹ năng nghiệp vụ về THQCT và KSXX tại phiên
toà hình sự sơ thẩm nói chung và phiên tòa hình sự sơ thẩm các vụ án LĐCĐTS
như: Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, kỹ năng xây dựng bản luận tội, kỹ năng
Trang 25