Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nhân vật trữ tình trong thơ tố hữu (qua việt bắc, máu và hoa, ta với ta)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.51 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN THỊ DUYÊN

NHÂN VẬT TRỮ TÌNH
TRONG THƠ TỐ HỮU
(Qua Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta)
Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngvười hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Đức Phương

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình triển khai đề tài “Nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu
(Qua Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta)”, tác giả luận văn đã nhận được sự
giúp đỡ của các thầy cô giáo của trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 và đặc
biệt là PGS.TS. Đoàn Đức Phương - người hướng dẫn trực tiếp.
Tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn trân
thành nhất đến các thầy cô!
Do năng lực nghiên cứu còn hạn chế, luận văn chắc chắn không tránh
khỏi thiếu sót. Rất mong được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô và các bạn.

Hà Nội, tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Duyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan:
Luận văn “Nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu (Qua Việt Bắc, Máu và
hoa, Ta với ta)” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của
những người đi trước, dưới sự giúp đỡ khoa học của PGS.TS. Đoàn Đức
Phương.
Luận văn không sao chép từ một tài liệu, công trình có sẵn nào.
Kết quả của luận văn ít nhiều có đóng góp vào việc nghiên cứu, tìm
hiểu về tác giả Tố Hữu và các tập thơ của ông.

Hà Nội, tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Duyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 6
6. Đóng góp của đề tài .................................................................................. 6
7. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 6

Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG THƠ
VÀ SÁNG TÁC THƠ TỐ HỮU .................................................................. 7
1.1. Khái niệm nhân vật, nhân vật trữ tình ................................................. 7
1.1.1. Khái niệm nhân vật ............................................................................. 7
1.1.2 Khái niệm thơ trữ tình và nhân vật trữ tình trong thơ ......................... 8
1.2. Sáng tác thơ của Tố Hữu..................................................................... 10
1.2.1 Khái quát tiểu sử nhà thơ Tố Hữu ..................................................... 10
1.2.2. Hành trình sáng tác và vị trí của Tố Hữu trong nền thơ ca cách mạng11
1.2.3 Quan niệm sáng tác của Tố Hữu ....................................................... 12
Chương 2: CÁC LOẠI NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG BA TẬP THƠ
VIỆT BẮC, MÁU VÀ HOA, TA VỚI TA ................................................... 17
2.1. Khái lược về ba tập thơ Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta ................... 17
2.2. Các loại nhân vật trữ tình trong ba tập thơ Việt Bắc, Máu và hoa và
Ta với ta ....................................................................................................... 19
2.2.1. Vị lãnh tụ ........................................................................................... 19
2.2.2. Người chiến sĩ.................................................................................... 29
2.2.3. Người phụ nữ .................................................................................... 38


2.2.4. Nhân vật thiếu nhi ............................................................................. 44
2.2.5. Các nhân vật khác ............................................................................. 49
Chương 3: PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN NHÂN VẬT TRỮ TÌNH
TRONG BA TẬP THƠ VIỆT BẮC, MÁU VÀ HOA, TA VỚI TA .......... 55
3.1. Xây dựng biểu tượng ........................................................................... 55
3.2. Ngôn ngữ, giọng điệu .......................................................................... 61
3.2.1. Ngôn ngữ .......................................................................................... 61
3.2.1.1. Hệ thống từ địa danh ...................................................................... 62
3.2.1.2. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ ............................................................. 64
3.2.1.3. Sử dụng dấu câu .............................................................................. 66
3.2.2. Giọng điệu ........................................................................................ 69

3.3. Không gian, thời gian nghệ thuật ....................................................... 73
3.3.1. Không gian nghệ thuật ..................................................................... 73
3.3.2. Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 78
KẾT LUẬN ................................................................................................. 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 85


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tố Hữu (1920 - 2002) là nhà thơ xuất sắc và tiêu biểu cho nền văn học
Việt Nam thế kỉ XX. Thơ ông gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh cách mạng
của dân tộc ta suốt bao năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, phản ánh những nét
lớn trong đời sống tinh thần của dân tộc ở một thời kỳ đã diễn ra nhiều biến
cố trọng đại và đổi thay to lớn của lịch sử Việt Nam trong thế kỉ XX.
Thơ ông là tiếng thơ tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng, thời đại anh
hùng. Tiếng thơ khi thì vang lên như “kèn” xung trận, khi lại thủ thỉ tâm tình
sâu lắng. Chính vì vậy thơ Tố Hữu luôn thu hút giới phê bình, nghiên cứu một
cách đông đảo. Mỗi tập thơ ra đời là một hiện tượng văn học lớn,nói như
Piesre Emanuel là “đó là sự diễn đạt về số phận dân tộc mình”. Đời thơ Tố
Hữu từ Từ ấy đến Ta với ta là một chặng đường dài trên sáu thập kỉ của một
nhà thơ cách mạng tiêu biểu nhất Việt Nam, trở thành đối tượng nghiên cứu
của hàng chục công trình phê bình nghiên cứu văn học
Nghiên cứu về thơ Tố Hữu là nghiên cứu về cả một cuộc đời của tâm
hồn thơ ông, đi vào khám phá giá trị đặc sắc trong thơ ông không thể không
tìm hiểu vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trữ tình trong từng tập thơ.
Tuy nhiên khi nghiên cứu họ thường tập trung khai thác hình tượng
nhân vật trong sự vận động của thơ Tố Hữu được phân định rạch ròi ở hai
chặng trong kháng chiến và thời bình.

Dẫu chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt bàn trực tiếp về nhân
vật trữ tình trong thơ Tố Hữu ở ba tập thơ có giá trị tổng kết ba chặng đường
thơ theo tiến trình lịch sử... nhưng các công trình nghiên cứu riêng lẻ là những
ý kiến gợi ý quý báu để tôi thực hiện đề tài này.
Việc thực hiện đề tài này giúp cho tôi có cơ hội nghiên cứu khoa học về
một tác giả quan trọng trong chương trình nhà trường, được rèn luyện năng


2

lực phân tích tác phẩm trữ tình, giúp người đọc dễ dàng có cách nhìn, cách
đánh giá đầy đủ hơn về đời thơ Tố Hữu.
2. Lịch sử vấn đề
Trong suốt hơn năm thập kỷ qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một hiện
tượng, một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút hầu hết các
nhà nghiên cứu, phê bình tên tuổi trong cả nước: K và T, Trần Minh Tước,
Trần Huy Liệu, Đặng Thái Mai, Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức, Vũ
Đức Phúc, Phan Cự Đệ, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình
Sử,…và các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên,
Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông…Bằng vốn kiến văn sâu rộng và tài
năng riêng, mỗi người theo cách thức của mình, đã chỉ ra thế giới nghệ thuật
mới mẻ, phong phú, khác biệt cùng các giá trị nhân văn và thẩm mỹ sâu sắc,
lâu bền của thơ Tố Hữu.
Ngay từ khi thơ Tố Hữu mới xuất hiện rải rác trên báo chí cách mạng vào
những năm cuối của thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương, cùng với sự đón
nhận nồng nhiệt của công chúng, giới văn học cách mạng đã đánh giá cao thơ
ông, coi đó là một hiện tượng quan trọng và mới mẻ của nền văn học cách
mạng. Trong bài viết đầu tiên giới thiệu về thơ Tố Hữu (báo Mới, số 1, ngày
1/5/1939) tác giả K và T đã khẳng định: “Thơ Tố Hữu là cả một nguồn sinh
lực đem phụng sự cho lý tưởng”, “Với Tố Hữu, chúng ta đã có một nhà thơ

cách mạng có tài”, “nhà thơ chiến sĩ”, “nhà thơ của tương lai”. Chỉ một tháng
sau đó, cũng trên báo Mới, Trần Minh Tước lại một lần nữa hân hoan bày tỏ
cảm tình đặc biệt của ông với “Những lời thơ hiên ngang của một thi nhân rất
trẻ và sống nhiều là Tố Hữu”, nhà thơ mà ông từng “yêu dấu” và thầm đón
đợi, người thi sĩ…từ khốn cùng đứng lên mà ca hát với những tình cảm còn
“nóng” của hàng ngũ mình. Quả là hai ông đã tinh tường phát hiện ở Tố Hữu
một kiểu nhà thơ mới – “nhà thơ chiến sĩ”.


3

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, khi tập thơ đầu tiên của Tố Hữu,
tập thơ được Hội Văn hóa cứu quốc ấn hành 1946, trong lời giới thiệu , Trần
Huy Liệu đặc biệt nhấn mạnh sự gắn bó chặt chẽ giữa “Lịch trình tiến triển về
thơ của Tố Hữu và trình độ giác ngộ về sức hoạt động cách mạng của Tố
Hữu”, từ đó khẳng định Tố Hữu là “một thi sĩ”, “một chiến sĩ”, và “Thơ Tố
Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh”. Đó cũng là
đặc điểm cơ bản quán xuyến cả đời thơ Tố Hữu.
Trên xu hướng này phải trân trọng ghi nhận những đóng góp lớn của Hoài
Thanh. Hơn ai hết, ông là người bền bỉ, miệt mài dõi theo từng tập thơ của Tố
Hữu. Những bài viết của ông không chỉ thể hiện tâm huyết của nhà phê bình
với thơ Tố Hữu, mà còn hội tụ những ưu thế riêng có của Hoài Thanh: sự tinh
nhạy trong cảm thụ, một nghệ thuật bình thơ độc đáo và khả năng đón định
phát hiện những cái mới…
Với bài viết giới thiệu tuyển tập thơ đầu tiên của Tố Hữu (1963), Chế
Lan Viên là người đầu tiên đã nhìn nhận thơ Tố Hữu một cách tổng thể sâu
sắc. Không chỉ dừng lại đánh giá ở giá trị tư tưởng, nội dung mà ông còn đặc
biệt đi sâu phân tích và phát hiện những nét đặc sắc về giá trị nghệ thuật của
thơ Tố Hữu trên các phương diện về phong cách, điệu tâm hồn vừa dân tộc
vừa hiện đại, về ngôn ngữ, hình tượng thơ, về nhạc tính, giọng điệu, bút

pháp,…
Giáo sư Hà Minh Đức cũng là một người bền bỉ, chuyên tâm nghiên
cứu về thơ Tố Hữu. Bằng sự am hiểu sâu rộng và một nguồn tư liệu phong
phú cần mẫn gom góp được, Hà Minh Đức qua hai Lời giới thiệu công phu
cho hai Tuyển tập thơ Tố Hữu vào các năm 1979 (NXB Văn học) và 1995
(NXB Giáo dục) cùng một số bài viết khác đã có một cách nhìn nhận, đánh
giá riêng đáng chú ý về thơ Tố Hữu: vừa khái quát, vừa đi sâu vào những khía
cạnh cụ thể, để thấy được những nét ổn định và vận động trong phong trào


4

nghệ thuật của nhà thơ. Cũng nhờ nhiều năm kiên tâm theo dõi đường thơ Tố
Hữu, Hà Minh Đức đã chỉ ra được cái điều mà chưa mấy ai nói tới, đó là thơ
Tố Hữu không chỉ là bài hát, không chỉ là tiếng ca vui của thời đại, mà về
cuối đời, với tập Một Tiếng Đờn, thơ ông còn có thêm một sắc điệu mới, đó là
niềm đau, nỗi buồn thấm thía.
Ngoài mấy trăm bài nghiên cứu về Tố Hữu ở trong và ngoài nước, còn
có nhiều công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông. Trong đó nổi bật nhất là
ba công trình: “Thơ Tố Hữu” của Lê Đình Kỵ (1979), “Thơ Tố Hữu, tiếng nói
đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí” của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và “Thi
pháp thơ Tố Hữu” của Trần Đình Sử (1987). Hai công trình đầu tiếp cận thơ
Tố Hữu theo phương pháp truyền thống, kết hợp khảo cứu công phu, khoa
học với cảm thụ nghệ thuật tinh tế và có tính chất khai phá.
Đến công trình “Thi pháp thơ Tố Hữu” của nhà nghiên cứu Trần Đình
Sử đã có một cách tiếp cận thơ Tố Hữu theo lối khác, hiện đại hơn, đó là thi
pháp. Nhờ thế, mặc dù đi sau, tác giả Trần Đình Sử với cách nhìn nhận thơ Tố
Hữu dưới một ánh sáng khác mới mẻ hơn, đã có được những phát hiện riêng
độc đáo và sâu sắc mang tính khoa học.
Hàng loạt những luận văn, luận án khoa học nghiên cứu về thơ Tố Hữu

có ý nghĩa sâu sắccó thể kể đến như một số công trình của học viên của
trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn như
Gía trị tập thơ “Từ ấy” của Tố Hữu của Phạm Thu Trang; Những biểu tượng
nghệ thuật tiêu biểu trong thơ Tố Hữu của Nguyễn Thị Nguyệt;Cảm hứng thế
sự -dời tư trong thơ Tố Hữu của Nguyễn Anh Tuấn; Thế giới nghệ thuật thơ
Tố Hữu thời kì đổi mới của Phạm Hoàng Lan. Luận văn Gía trị và vị trí tập
thơ Việt Bắc trong hành trình thơ Tố Hữu của Nguyễn Thị Mỹ, Tính hội thoại
trong thơ Tố Hữu của Nguyễn Thị Thúy Hồng ... của trường Đại học Thái
Nguyên, ĐHSP. Tuy nhiên khi nghiên cứu họ thường tập trung khai thác hình


5

tượng nhân vật trong sự vận động của thơ Tố Hữu được phân định rạch ròi ở
hai chặng trong kháng chiến và thời bình.
Dẫu chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt bàn trực tiếp về nhân
vật trữ tình trong thơ Tố Hữu ở ba tập thơ có giá trị tổng kết ba chặng đường
thơ theo tiến trình lịch sử... nhưng các công trình nghiên cứu trên là những ý
kiến gợi ý quý báu để tôi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là góp phần làm rõ hình tượng nhân vật trữ tình
trong thơ Tố Hữu qua ba tập thơ Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta.
Thông qua đề tài này để nhận diện gương mặt tiêu biểu cho thơ trữ tình
chính trị và quan niệm nghệ thuật về con người có sự vận động trong thơ Tố Hữu.
Đi vào nghiên cứu đề tài này chúng tôi tự đặt cho mình những nhiệm
vụ cơ bản sau:
Vấn đề phản ánh nhân vật trữ tình trong thơ nói chung và trong thơ Tố
Hữu nói riêng được thể hiện như thế nào?
Tố Hữu có vị trí như thế nào đối với thơ ca cách mạng Việt Nam?
Chỉ ra được yếu tố cơ bản góp phần làm nên các kiểu nhân vật trữ tình

trong thơ ông. Để làm sáng rõ nhân vật trữ tình các yếu tố đó được tổ chức
như thế nào?
Sự thay đổi kiểu nhân vật trữ tình được thể hiện như thế nào qua ba tập
Việt Bắc, Máu và hoa và Ta với ta ? Có điểm gì mới lạ so với thơ ca của các
nhà thơ khác cùng thời với Tố Hữu?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhân vật trữ tình trong
thơ Tố Hữu đặc biệt trên phương diện quê hương, chiến tranh, tình yêu và sự
trăn trở cuộc sống qua ba tập thơ Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta.


6

Phạm vi khảo sát ở ba tập thơ Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta dựa trên
văn bản do chính tác giả sáng tác.
5. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài chúng tôi tiến hành sử dụng một số phương pháp khoa
học chính sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp vận dụng thi pháp học
6. Đóng góp của đề tài
Góp phần làm rõ hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu qua đó
thấy được gương mặt, sức mạnh tinh thần của dân tộc Việt Nam theo suốt
chiều dài lịch sử.
Là nguồn tài liệu phong phú giúp ích tích cực cho việc học tập và giảng
dạy văn học trong nhà trường...

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, nội dung chính của luận văn được triển
khai trong ba chương:
Chương 1: Khái luận về nhân vật trữ tình trong thơ và sáng tác thơ
Tố Hữu
Chương 2: Các loại nhân vật trữ tình trong ba tập thơ Việt Bắc, Máu
và hoa, Ta với ta
Chương 3: Phương thức biểu hiện nhân vật trữ tình trong ba tập thơ
Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta


7

Chương 1
KHÁI LUẬN VỀ NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG THƠ
VÀ SÁNG TÁC THƠ TỐ HỮU
1.1. Khái niệm nhân vật, nhân vật trữ tình
1.1.1. Khái niệm nhân vật
Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời trong đó con người luôn giữ
vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh
thiên nhiên, những lời bình luận...đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa
dạng cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính
là việc xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong
tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những
con người được nhà văn thể hiện. Vì vậy, Tô Hoài đã có lí khi cho rằng
"Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một
sáng tác" [8; tr127]
Có nhiều quan niệm khác nhau về nhân vật nhưng chung quy lại nhân
vật văn học là những con người hay sự vật, hiện tượng mang bản chất con
người được thể hiện trong tác phẩm văn học bằng phương tiện văn học.

Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực
cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân
vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề
cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh
việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện
thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể hiện.
Nhân vật văn học là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ
tư tưởng của nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc
sống. Betông Brecht cho rằng: "Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không


8

phải giản đơn là những bản dập của những con người sống mà là những hình
tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả".
1.1.2 Khái niệm thơ trữ tình và nhân vật trữ tình trong thơ
Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ
ngắn gọn súc tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm
trạng, thái độ, tình cảm,... của người nghệ sĩ về đời sống thông qua những
hình tượng nghệ thuật.
Trữ tình là phương thức phản ánh (hiện thực đời sống; hiện thực tâm
trạng) bằng cách bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý thức của tác giả thông qua cái tôi
trữ tình, mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể.
Thơ trữ tình dùng để chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình, trong đó
nhà thơ bộc lộ một cách trực tiếp những cảm xúc riêng tư, cá thể về đời sống,
thể hiện tư tưởng về con người, cuộc đời và thời đại nói chung. Nội dung của
thơ trữ tình là biểu hiện tư tưởng, tình cảm làm sống dậy cái thế giới chủ thể
của hiện thực khách quan giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư tâm
trạng, nỗi niềm của con người trong thơ hay chính là các hình tượng nhân vật
Trong thơ trữ tình cần phân biệt cái tôi trữ tình và nhân vật trữ tình:

"Cái tôi trữ tình" là một thuật ngữ thuộc Lý luận văn học. Đó chính là tâm
trạng, cảm xúc, cảm nhận, là thế giới nội tâm (tâm hồn) của riêng nhà thơ
trước hiện thực khách quan (cuộc sống). Qua "cái tôi trữ tình", ta có thể thấy
được những suy nghĩ, thái độ, tư tưởng,... của nhà thơ trước cuộc đời. Và, "cái
tôi trữ tình" cũng góp phần hình thành phong cách nghệ thuật của riêng tác
giả, giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư tâm trạng, nỗi niềm.
Đã có nhiều định nghĩa về nhân vật trữ tình của các tác giả như Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Lê Bá Hán... Tuy nhiên khái niệm thể hiện đầy
đủ đặc điểm mang tính bản chất của nhân vật trữ tình và phổ biến là khái
niệm nhân vật trữ tình trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa


9

“Nhân vật văn học chính là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm
văn học” [6; tr235]. Nhân vật là hình thức cơ bản để văn học miêu tả thế giới
một cách hình tượng. Chức năng của nó là khái quát quy luật phong phú của
cuộc sống con người, từ đó bộc lộ những hiểu biết, quan niệm và những trăn
trở, ước mơ của người nghệ sĩ. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật để thể hiện
những cá nhân và hình tượng xã hội nhất định, bày tỏ quan niệm riêng về các
cá nhân, hình tượng xã hội đó. Nhân vật là công cụ khái quát hiện thực là
phương tiện để tác giả hiện thực hóa quan niệm nghệ thuật về con người dưới
một hình thức biểu hiện tương ứng.
Khái niệm nhân vật trữ tình được Phương Lựu minh định trong cuốn Lí
luận văn học:
“Nội dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân
vật trữ tình. Đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng
trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động, lời nói, quan
hệ cụ thể như nhân vật tự sự và kịch. Nhưng nhân vật trữ tình cụ thể trong giai
điệu, cảm xúc, trong cách cảm cách nghĩ, qua những trang thơ ta như gặp tâm

hồn người, tấm lòng người. Đó chính là nhân vật trữ tình” [16; tr359].
Xem nhân vật trữ tình là “cái tôi” đã được sáng tạo ra, không nên đồng
nhất giản đơn nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình bởi trong thơ trữ tình nhà
thơ xuất hiện như “ người đại diện cho xã hội, thời đại và nhân loại” (Bê-linxki) nhà thơ tự nâng lên trên đời thường cá biệt.
Nhân vật trữ tình chính là con người được nhà thơ miêu tả qua một số
sự kiện nhất định, qua những rung cảm và suy tưởng của nhà thơ. Tính cách
của nhân vật trữ tình trong thơ chủ yếu bộc lộ qua những tâm trạng, những
tình cảm mang đặc điểm của lịch sử và thời đại.


10

1.2. Sáng tác thơ của Tố Hữu
1.2.1 Khái quát tiểu sử nhà thơ Tố Hữu
Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920 – 2002), quê gốc ở làng
Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Trong một gia đình nhà nho nghèo, không đỗ đạt gì nhưng lại rất ham thơ văn
và thích sưu tầm ca dao. Tuổi thanh niên của Tố Hữu đúng vào những năm
phong trào Cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo đoàn thanh
niên dân chủ ở Huế. Năm 1937, ông bắt đầu có thơ đăng báo. Năm 1938, Tố
Hữu gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 4/ 1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam ở nhiều nhà lao ở
các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Đó lại là “cơ hội” để Tố Hữu rèn luyện
ý chí làm thật nhiều thơ cách mạng để cổ vũ đấu tranh.
8/1945, Tố Hữu là chủ tịch ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên Huế, sau đó
làm bí thư xứ ủy Trung Kì.
Năm 1947, Tố Hữu được Trung ương Đảng điều động ra Việt Bắc phụ
trách công tác văn nghệ và làm trưởng tiểu ban văn nghệ Trung ương. Năm
1948 thành lập hội văn nghệ Việt Nam, Tố Hữu tham gia ban chấp hành hội .
Năm 1955 là ủy viên chính thức của Trung ương Đảng. Năm 1960, tại Đại

Hội lần III của Đảng ông được bầu vào ban bí thư Trung ương Đảng, là ủy
viên ban bí thư Trung ương Đảng từ 1960- 1980.
Năm 1976 tại Đại Hội lần thứ VI của Đảng, Tố Hữu được bầu làm ủy
viên dự khuyết Bộ Chính trị và bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng. Từ
năm 1981 được cử giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Năm 1982, Tại Đại hội lần thứ V của Đảng, Tố Hữu được bầu lại làm
ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bí thư BCH Trung ương.


11

Có thể nói dù ở bất cứ vị trí nào, đảm nhiệm trọng trách nào, Tố Hữu
luôn hoàn thành, ông luôn hết mình cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc của đất nước.
Tâm hồn Tố Hữu luôn có sự thống nhất chặt chẽ giữa nhà cách mạng,
nhà chính trị và nhà thơ. Thơ và cách mạng – hai trong một ở con người Tố
Hữu đó như một “mối tình duyên” đẹp đẽ nhất, trong sáng nhất và cao cả nhất
trong cuộc đời, sự nghiệp thơ ca của ông. Vì thế mà Tố Hữu được mệnh danh
là người “viết sử Việt Nam hiện đại bằng thơ”.
1.2.2. Hành trình sáng tác và vị trí của Tố Hữu trong nền thơ ca cách mạng
Trong lịch sử văn học nước nhà thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có nhiều
tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đi vào lòng
người như thơ Tố Hữu trong thế kỉ XX. Tình yêu lý tưởng, yêu quê hương,
đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị
đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng. Nội dung ấy được biểu lộ
vừa thầm kín vừa tinh tế, sâu sắc và đậm đà qua 7 tập thơ nổi tiếng: Từ ấy
trước cách mạng, Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp, Gió lộng trong hòa
bình, Ra trận, Máu và hoa trong kháng chiến chống Mỹ, Một tiếng đờn, Ta
với ta sáng tác sau 1975.
Trong Lời nói đầu, Tuyển tập thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên có nhận định:

“Nói đến Tố Hữu về thơ anh phải nói đến vai trò của người mở đường và
hiện vẫn là người dẫn đầu trong nền thơ ca Cách mạng của chúng ta, sự
thành công của anh trước Cách mạng đã xúc tiến sự hình thành của thơ hiện
thực xã hội chủ nghĩa sau Cách mạng” [14; tr11].
Thơ Tố Hữu ra đời phản ánh được khá toàn diện những biến động của
lịch sử, của thời đại cũng như lí tưởng, tình cảm của người chiến sĩ cộng sản
trong thời chiến cũng như thời bình.


12

Thơ Tố Hữu không chỉ phản ánh lịch sử, phản ánh thời đại mà còn
phản ánh tiến trình thơ ca dân tộc thế kỉ XX. Cho đến nay ông vẫn được xem
là cây đại thụ trong khu rừng văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông được Nhà
nước trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1- 1996).
1.2.3 Quan niệm sáng tác của Tố Hữu
Tố Hữu bắt đầu sáng tác từ năm 1937, giữa cao trào Mặt trận Dân chủ
Đông Dương khi ảnh hưởng của Đảng đi vào quần chúng sâu rộng chưa từng
thấy. Đây cũng là thời kì còn thịnh hành của thơ Mới. So với thơ cũ, thơ Mới là
một tiếng nói mới mẻ, nhưng thoát ly thực tế, rõ ràng là xa lạ với tư tưởng của
Đảng, không có lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng, Tố Hữu đã tỏ rõ thái độ:
Ta nện gót trên đường phố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi!
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi
(Dửng dưng)
Dửng dưng là dửng dưng với quan niệm về cái đẹp của thơ ca lãng
mạn, không “ vơ vẩn, khờ dại”, bám lấy thơ xưa, cố làm sống lại những thây
ma của quá khứ, không tha thở hay mơ mộng hão huyền trước những tháp cổ
hoang tàn, mà phải biết từ những thảm cảnh mất nước rút ra bài học chung:

Chạnh lòng tưởng nhớ thân nô lệ
Mà hận cừu chung bỗng réo sôi
(Qua cổ tháp)
Không tô son trát phấn, thi vị hóa những kiếp sống giang hồ, cũng
không rên rỉ chán chường mà cảm thông với nỗi khổ nhục ê chề của họ, phải
tìm ra và nhổ bật cội rễ xã hội của cái tệ nạn thê thảm.
Thời kì Từ ấy nhà thơ trước hết hướng về cái đẹp của lý tưởng cách
mạng, cái đẹp về phía tương lai. Với Việt Bắc, lý tưởng chan hòa vào hiện


13

thực của nhân dân đã đứng lên làm Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng
chiến thần kì, hiện thực ấy vĩ đại, phong phú và đẹp biết bao. Không phải
ngẫu nhiên mà tập thơ lấy tên là Việt Bắc - Việt Bắc là căn cứ cách mạng và
kháng chiến, từ Việt Bắc nhà thơ đã thốt lên:
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!
(Ta đi tới)
Cái đẹp của bản thân lý tưởng bao giờ cũng có tên Tổ quốc, là nhân
dân, nó là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca
Nhân dân là bể
Văn nghệ là thuyền
Thuyền xô sóng dậy
Sóng đẩy thuyền lên
(Lời đề từ Việt Bắc)
Trước kia tiếng hát đã cất lên từ niềm say mê lý tưởng, say mê hoạt
động bây giờ nó như cất lên từ bản thân cuộc sống ở Việt Bắc, từ bản thân
những con người, những sự tích anh hùng ở tiền tuyến cũng như hậu phương.
Gió lộng gồm những bài thơ viết từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ, từ
Điện Biên Phủ đi lên xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, con người

Việt Nam càng thấy tâm hồn mình lộng gió bốn phương, lộng gió thời đại.
Như có một sự hồi sinh tái tạo trong đời sống và tâm hồn mọi người:
Ồ thích thật, bài thơ Miền Bắc
Rất tự do nên tươi nhạc tươi vần
Cũng giống như Từ ấy trước kia mang cái trẻ trung sôi nổi của tuổi trẻ
và của Cách mạng, tiếng hát tuổi bình minh của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
cũng thật là tươi mới và say sưa:
Thơ ta ơi! hãy cất cao tiếng hát
Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta!


14

Ca ngợi trăm lần vì Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là lẽ sống lớn, là thực
hiện ước mơ từ bao đời của loài người, vì sự nghiệp cách mạng vĩ đại đang
chờ đợi mọi người:
Gà gáy sáng. Thơ ơi mang cánh lửa
Hãy bay đi ! con chim kêu trước cửa,
Thêm một ngày xuân đến. Bình minh...
Đó là một sáng mùa xuân 1961, xuân đầu tiên của kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất. Tương lai đầy hứa hẹn, câu thơ phấn chấn nhưng cũng đượm vẻ lo
âu. Chiến tranh do Mỹ Ngụy gây ra bắt đầu bùng nổ ở miền Nam nên tập thơ
tiếp theo lấy tên là Ra trận, mở đầu tập thơ có bài Có thể nào yên:
Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh
Vẫn muốn viết những dòng thơ lửa cháy
Với Tố Hữu, thơ ca phải cùng với nhân dân chia sẻ vui buồn, yêu
thương, căm giận, làm thơ để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Cuộc chống Mỹ
cứu nước sục sôi, nhà thơ hạ bút:
Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương.

(Tiễn đưa)
Tâm trạng sốt ruột muốn đối mặt với kẻ thù là điều dễ hiểu, nhất là khi
tiễn bạn ra tiền tuyến. Nhưng giọng thơ bình tĩnh, đâu phải không còn tin ở
sức mạnh của thơ ca. Cái không đáng tin là thứ văn chương trống rỗng, không
có gì hơn ngoài chữ với chữ, chẳng có ích gì cho ai trong lúc còn bao việc
phải làm. Văn chương không được là những lời bàn suông, không phải để
nằm trên mặt giấy, mà phải đi vào đời sống, phải có tác dụng như những hầm
chông chống Mỹ cứu nước, phải từ đời sống mà ra và trở lại phục vụ đời sống
nếu không thì nó không còn lý do để tồn tại nữa.


15

Văn học nghệ thuật là một mặt trận, nhà thơ là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
Văn nghệ sĩ phục vụ chính trị, chịu sự lãnh đạo của Đảng, nhận sự lãnh đạo
này có ý nghĩa là gắn liền sự nghiệp của mình với sự nghiệp của dân tộc và
những lý tưởng cao cả của thời đại. Trong lĩnh vực văn nghệ cũng như các
lĩnh vực khác, tay lái của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi.
Rằng: thơ với Đánh nặng tơ duyên
Thuyền bơi có lái, qua mưa gió
Không lái thuyền trôi lạc bến bờ...
(Chuyện thơ)
Cũng như quần chúng lao động, nhà thơ đã nhận thức sâu sắc rằng sở dĩ
mình được “ làm người”và nên người là nhờ có sự dìu dắt của Đảng, nhờ
Đảng đã trả lại cho.
Trời cao đất rộng bao la
Bát cơm, tấm áo, hương hoa, hồn người
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Nhưng Đảng không phải ở đâu xa, không phải tồn tại nhờ phép lạ nào,
mà từ quần chúng mà ra, là kết tinh của trí tuệ, nghị lực, sức mạnh và lòng

nhân ái của quần chúng.
Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt
Đảng ta đây xương sắt da đồng
Đảng ta muôn vạn công nông
Đảng ta muôn vạn tấm lòng niềm tin...
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ đầu đã là cái “tôi” chiến sỹ,
càng về sau càng xác định là cái “tôi” nhân danh Đảng, nhân danh dân tộc, cái
“tôi” hòa trong cái “ta”, nhân danh cái ta. Có lẽ đó là nguyên nhân khiến thơ


16

Tố Hữu ít thể hiện những tâm tư tình cảm riêng tư mà thường hướng tới
những tình cảm lớn, lẽ sống lớn của cách mạng và con người cách mạng.
Chính vì thế nhân vật trữ tình trong thơ Tố Hữu thường là con người
đại diện cho sức mạnh, vẻ đẹp, phẩm chất, khát vọng, thường mang tầm vóc
của lịch sử và thời đại. Đi sâu vào tìm hiểu thế giới nhân vật trong thơ Tố
Hữu đặc biệt qua ba tập thơ Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta chúng ta sẽ cảm
nhận được sự vận động của nhiều biểu hiện khác nhau cả về ngoại hình lẫn
tâm hồn của các nhân vật đó.Tố Hữu đã dành nhiều tâm huyết để khắc họa
những con người đại diện cho quần chúng, dân tộc, họ đã đi từ cái riêng ra
cuộc đời chung, họ hiện lên như những tượng đài bất tử.


17

Chương 2
CÁC LOẠI NHÂN VẬT TRỮ TÌNH TRONG BA TẬP THƠ
VIỆT BẮC, MÁU VÀ HOA, TA VỚI TA


2.1. Khái lược về ba tập thơ Việt Bắc, Máu và hoa, Ta với ta
Tập thơ Việt Bắc (1946-1954) là khúc hùng ca thiết tha về cuộc kháng
chiến chống Pháp và những con người kháng chiến. Có thể nói chủ đề bao
trùm tập thơ Việt Bắc là tinh thần thiết tha yêu nước, chí khí phấn đấu kiên
quyết bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần đó là
Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, linh hồn của cuộc kháng
chiến và anh bộ đội anh dũng , thân thương. Tố Hữu đã để cả tâm hồn, tất cả
tình cảm đằm thắm nhất của mình để diễn tả những hình ảnh yêu kính và quý
mến nhất ấy của thời đại chúng ta.
Là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến toàn dân chín năm ròng rã
chống bọn xâm lăng, tập thơ Việt Bắc phản ánh đầy đủ con đường chiến đấu
gian lao và sự trưởng thành của dân tộc Việt Nam qua những dấu ấn, hình ảnh
về cuộc kháng chiến. Đó là tiếng hát mở đường (Phá đường); tiếng hò kéo
pháo lên chiến dịch (Voi); nỗi lòng bà mẹ nhớ con (Bầm ơi); niềm thao thức
nơi anh bộ đội nhớ mẹ ở làng quê(Bà Bủ); Chiến thắng Việt Bắc (Cá nước);
nguồn sáng nơi căn nhà của cụ Hồ(Sáng tháng Năm); bước chân người chiến
sĩ vào trận tuyến nơi núi rừng Tây Bắc (Lên Tây Bắc); niềm hân hoan trước
chiến công lừng lẫy tại Điện Biên Phủ (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên); niềm
vui chiến thắng và hòa bình trên bước đường đi tới (Ta đi tới); nỗi nhớ nhung
và lời ước hẹn giã từ thủ đô gió ngàn(Việt Bắc)...
Tuy vậy tập thơ còn thiếu những con người cá thể, cụ thể , những tình
cảm riêng tư của cái “tôi” trữ tình. Về mặt nghệ thuật, tuy được đánh giá là
bước trưởng thành quan trọng của thơ Tố Hữu, là một thành tựu xuất sắc của


18

thơ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp, yếu tố cách tân trong tập thơ
chưa được thể hiện rõ.

Máu và hoa (1971- 1977) gồm 13 bài, sáng tác trong 6 năm có ý nghĩa
tổng kết quá trình phát triển của dân tộc, của cách mạng Việt Nam - hành trình
đầy máu và hoa. Đó là một chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh,
khẳng định niềm tin sâu sắc vào sức mạnh tiềm tàng của xứ sở quê hương,
cũng như của mỗi người Việt Nam mới, biểu hiện niềm tự hào và niềm vui
phơi phới khi "toàn thắng về ta". Năm mươi năm đó máu đỏ thành hoa.
Máu - biểu tượng của nỗi đau uất hận trong hàng nghìn năm nô lệ và sự
hi sinh xả thân vì nghĩa lớn, xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ. Hoa là biểu
tượng cho vẻ đẹp của lý tưởng cộng sản, của chủ nghĩa anh hùng và niềm vui
ngày chiến thắng xuất hiện nhiều bài thơ trường thiên với cảm xúc tổng hợp,
bao quát hơn nửa thế kỉ đấu tranh của những con người anh hùng trên đất
nước anh hùng (Nước non ngàn dặm, Với Đảng, mùa xuân, Việt Nam máu
và hoa)... Nhà phê bình Hoài Thanh từng viết: “Chúng ta tin với mỗi chúng
ta, dầu quê ở miền Nam hay miền Bắc, dầu trải qua những năm tháng giống
như anh hay không giống như anh, tiếng thơ của anh lần này cũng giống như
nhiều lần trước vẫn cứ có khả năng là tiếng nói đúng nhất và thật nhất của
lòng ta. Bởi vì gọi bằng tiếng lòng cũng ba bảy thứ; chan chứa tình yêu, có;hờ
hững nhạt nhẽo cũng có; lại có thứ phân vân ngơ ngác, thậm chí bực dọc,
chua cay... Vấn đề là phải chọn. Chọn và nuôi. Chọn và nuôi thứ tiếng nào
thành tiếng nói thật nhất, tiến tới thành tiếng nói duy nhất của lòng ta. Chọn
và nuôi sai rất nguy hiểm, có thể làm hỏng cả cuộc đời. Bài Nước non ngàn
dặm quý ở chỗ nó có thể giúp ta tìm ra được đúng tiếng nói thật của lòng ta
trong hoàn cảnh mới” [24; tr730].
Ta với ta (1999) là tập thơ cuối cùng của Tố Hữu là những trải nghiệm,
chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ mang tính phổ quát về cuộc đời và con


19

người. Ông gửi vào thơ tâm sự của một người sống hết mình với tình yêu

thương, với lý tưởng cách mạng và hơn hết đó là mong ước của một con
người biết vượt lên bao biến động thăng trầm, tin vào chữ nhân luôn tỏa sáng
ở mỗi hồn người, luôn sống vì mọi người như một câu thơ ông viết: Thơ gửi
bạn đời, tro bón đất - Sống là cho. Chết cũng là cho.
2.2. Các loại nhân vật trữ tình trong ba tập thơ Việt Bắc, Máu và hoa và
Ta với ta
2.2.1. Vị lãnh tụ
Ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những chủ đề lớn và thân
thiết nhất của Tố Hữu. Từ Cách mạng tháng Tám đến nay, nhà thơ đã nhiều
lần viết về Bác với tất cả tầm lòng yêu kính, biết ơn và như là để nói hộ hoặc
nói cùng chúng ta những tình cảm mãnh liệt không dồn nén nổi của toàn thể
dân tộc ta đối với lãnh tụ vĩ đại của mình.
Có thể nói, gắn với từng mốc thời gian quan trọng của lịch sử, Tố Hữu
luôn dõi theo hình bóng lãnh tụ để ghi lại những nét đẹp của Bác. Hình ảnh Hồ
Chí Minh năm 1945 khép lại Từ ấy, Việt Bắc là sự tiếp nối cùng những tập thơ
sau này để có những hình ảnh mới về Bác càng thân thiết và gần gũi hơn.
Bài thơ Hồ Chí Minh là viên gạch đầu tiên đặt nền móng xây dựng lâu
đài thi ca Việt Nam ca ngợi lãnh tụ:
Hồ Chí Minh
Người lính già
Đã quyết chiến hy sinh
Cho Việt Nam độc lập
Cho thế giới hòa bình..
Tuy nhiên lời thơ chưa đạt đến cái giản dị hàm súc, giọng thơ chưa có
được cái thắm thiết, đậm đà rất tiêu biểu đối với Tố Hữu. Sau này bài thơ
Sáng tháng Năm là một bài thơ trữ tình hoàn chỉnh ca ngợi Bác, thể hiện một


20


chuyển biến quan trọng trong nghệ thuật viết về Bác. Lúc này Tố Hữu đã là
tác giả của những bài thơ nổi tiếng như Cá nước, Phá đường, Bà mẹ Việt
Bắc,... và những bài thơ dịch nổi tiếng không kém như Đợi anh về, Bài ca
của người lính du kích, Nếu thầy mẹ chết... Nhà thơ có nhiều kinh nghiệm
xây dựng tính cách, biểu hiện đặc điểm dân tộc trong thơ. Có thể nói đến đây
tâm hồn trữ tình của Tố Hữu đã tìm ra được một cách nói độc đáo để miêu tả
khuynh hướng sử thi của hiện thực cách mạng rộng lớn.
Mở đầu Sáng tháng Năm, Tố Hữu giới thiệu rất tự nhiên cảnh sắc đất
trời và tâm trạng tác giả một lần gặp Bác. Lòng người xao xuyến, mong đợi,
mà thanh thản, sáng trong. Nhà thơ không đứng từ xa, không dựa vào tưởng
tượng, không dựa vào yêu cầu tất yếu của cách mạng và từ góc độ chính trị để
dựng lên hình ảnh lãnh tụ. Nhà thơ đến thăm Bác Hồ, ngắm nhìn Bác và lắng
nghe Bác nói, miêu tả Bác trong sinh hoạt bình thường, mơ ước, suy tưởng
gắn liền với những cảm giác, cảm xúc cụ thể. Chính vì rất thật, rất sống cho
nên hình ảnh Bác trong Sáng tháng Năm mới mẻ, đa dạng, vừa có chiều sâu
lại vừa bay bổng:
Bàn tay con nắm tay cha
Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non...
Hình ảnh Bác hòa vào đất nước, lớn lao, nhưng đồng thời cũng gần gũi,
thân mật ấm áp. Sức cảm hóa kì lạ của Bác là đức tính giản dị, tấm lòng hiền
từ, nhân hậu, phong độ thanh thản, ung dung; Bác là một lãnh tụ hiền minh.
Người là “Hồ Chí Minh vĩ đại”, là “mặt trời cách mạng” nhưng cũng “là Cha,
là Bác, là Anh”. Ở Bác, nhà thơ đặc biệt nhấn mạnh đức tính giản dị như tất
cả những người lao động khác. Tố Hữu dành tất cả những tình cảm rất chân
thật từ đáy lòng. Trong đời làm thơ của mình, đây là lần đầu tiên ông viết



×