Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Báo cáo về vấn đề trẻ em lang thang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.81 KB, 24 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. TELT : Trẻ em lang thang
2. CTXH : Công tác xã hội
3. GD-ĐT : Giáo dục và đào tạo
4. NCKH: Nghiên cứu khoa học
5. BVCSTE: Bảo vệ chăm sóc trẻ em.

MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
1.1 Lý do chọn đề tài
“ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai” Đó là khẩu hiệu mà các quốc gia và
cộng đồng quốc tế nhằm hướng tới mục đích chăm sóc, bảo vệ tương lai của mỗi
quốc gia và nhân loại. Việt Nam cũng là một trong những quốc gia trên rất đề
cao khẩu hiệu này. Trong những năm qua, nền kinh tế thị trường khá phát triển,
từ sự chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế-xã hội , đã đưa Việt Nam dần hội
nhập với thế giới. Quá trình CNH-HĐH dần phát triển giúp người dân có cuộc
sống về tinh thần và vật chất tốt hơn so với trước kia, bộ mặt đời sống người dân
đã có những thay đổi tích cực : tỉ lệ đói nghèo ngày càng được giảm bớt, người
dân đã có những thay đổi theo chiều hướng tích cực…Vì vậy trẻ em ngày càng
được sự chăm sóc tốt hơn. Tuy nhiên, vấn đề nào cũng luôn có những mặt trái
của nó. Cũng chính từ quá trình Đô thị hóa và phát triển kinh tế thị trường không
phải ai cũng được hưởng lợi. Đi đôi cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thì các loại hình tệ nạn xã hội ngày càng hình thành nhiều hơn và phát
triển theo những chiều hướng phức tạp như chủ nghĩa thực dụng, chạy theo đồng
tiền, bỏ rơi con cái, các tệ nạ trộm cắp, ma túy, mại dâm…Hơn nữa, tình hình
thiên tai , dịch bệnh ngày càng một phát triển.Và đặc biệt là khoảng cách giàu
nhiều ngày càng chênh lệch, Khi nông thôn được đô thị hóa thì người dân có
nguy cơ thất nghiệp cao, gia đình rơi vào những khủng hoảng dẫn đến nhiều


biến động chính vì vậy mà xung đột gia đình xuất hiện cùng với kinh tế gia đình


khủng hoảng và khó khăn, tỉ lệ ly hôn ngày càng gia tăng và hậu quả cuae những
cuộc ly hôn đó là nguyên nhân dẫn tới những đứa trẻ từ có cha mẹ trở thành
những đứa trẻ lang thang đường phố. Và do hoàn cảnh gia đình nghèo đói, đã
làm cho các em phải đi lao động sớm khi còn rất nhỏ. Hiện nay quá trình đô thị
hóa ngày càng phát triển, báo động tình trạng TELT, trẻ em đi làm sớm tập
trung đông ở các khu công nghiệp, khu đô thị lớn ngày càng tăng. Đó là những
nơi phải gánh chịu nạn di dân từ mọi miền đất nước, TELT cơ nhỡ rất dễ trở
thành nạn nhân của tình trạng bóc lột sức lao động. Do bị bóc lột sức lao động
đã làm ảnh hưởng đến tinh thần và thể xác của các em. Chính vì vậy, TELT đã
và đang là vấn đề cấp bách của toàn nhân loại. Để giúp các em có một mái ấm
tình thương và trở về với gia đình, chăm sóc và bảo vệ trẻ em nói chung, TELT
nói riêng lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó không còn là trách nhiệm của
bậc làm cha làm mẹ, người thân cuae các em mà còn là trách nhiệm của cộng
đồng và toàn xã hội. Với những tư liệu sẵn có, đồng thời bằng phương pháp thu
thập và tìm kiếm thông tin, được quan sát những trẻ em đường phố . Thông qua
bài viết này sinh viên muốn tất cả mọi người có cái nhìn sâu sắc hơn về tình
trạng đáng báo động này. Và muốn nhấn mạnh đến vai trò của người nhân viên
CTXH. Đồng thời qua bài viết sinh viên cũng kêu gọi mọi người hãy cùng nhau
thắp lửa những mảnh đời bất hạnh không nơi nương tựa, hãy tạo ra những nụ
cười trên những gương mặt còn non nớt, để một ngày không xa khắp nơi trên đất
nước mình không còn tình trạng TELT. “ Hãy lau khô giọt nước mắt bằng trái
tim con người Việt Nam”. Đó chính là thông điệp mà sinh viên muốn gửi tới
thông qua bài viết này.


NỘI DUNG

I.Bàn về vấn đề Phương pháp luận NCKH trong CTXH
1.1.CTXH với quan điểm hệ thống-cấu trúc
Quan điểm hệ thống – cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương

pháp luận, nó yêu cầu phải xem xét các đối tượng một cách toàn diện nhiều mặt,
nhiều mối quan hệ, trong trạng thái vận động và phát triển, trong những hoàn
cảnh cụ thể để tìm ra bản chất và quy luật vận động của đối tượng.
Chức năng của quan điểm hệ thống cấu trúc trong CTXH:
Phương pháp này giúp ta xem xét chúng một cách toàn diện, nhiều mặt, phân
tích chúng ra thành các bộ phận để nghiên cứu chúng một cách sâu sắc, tìm ra
được tính hệ thống của đối tượng.
Nhận ra được các mối quan hệ hữu cơ của các thành tố trong hệ thống để tìm ra
quy luật phát triển nội tại từng bộ phận và của toàn bộ hệ thống.
Thấy được mối quan hệ chi phối giữa đối tượng và môi trường, thầy được tính
quy định của môi trường và phát triển những điều kiện cần thiết cho sự phát
triển thuận lợi của đối tượng.
Tạo thành một hệ thống chặt chẽ, có tính logic cao, trình bày rõ ràng, khúc
triết.


Như vậy, NCKH theo quan điểm hệ thống – cấu trúc cho ta tri thức đầy đủ
toàn diện, khách quan về đối tượng, thấy được mối quan hệ của hệ thống với


các sự vật hiện tượng khác, từ đó thấy được cái triệt để khách quan của các
tri thức khoa học
2.1.2. CTXH với quan điểm lịch sử - logic.
Trong NCKH là quan điểm hướng dẫn tiến trình tìm tòi sáng tạo khoa
học. Thực hiện quan điểm này một mặt cho phép ta nhìn thấy toàn cảnh sự xuất
hiện, sự phát triển, diễn biến và kết thúc của các đối tượng khách quan, mặt khác
giúp ta phát hiện quy luật tất yếu của sự phát triển đối tượng, điều cần đạt tới
trong mọi công trình nghiên cứu.
Chức năng của quan điểm lịch sử trong CTXH:
• Dùng các sự kiện lịch sử để minh họa, làm sáng tỏ các luận điểm của sự vật

hiện tượng, các nguyên lý trong đời sống.
• Dùng các tài liệu lịch sử, theo một chuẩn mực, để đánh giá những kết luận
của sự vật hiện tượng, đánh giá chân lí khoa học đời sống.
• Dựa vào các kết luận lịch sử, với các quy luật tất yếu các logic khách quan
mà xây dựng giả thuyết và chứng minh giả thuyết đó.
• Dựa vào xu thế phát triển của lịch sử để nghiên cứu thực tiễn, tìm ra những
khả năng mới, dự đoán các khuynh hướng phát triển của các sự vật hiện
tượng.
• Dựa vào lịch sử để thiết kế mô hình các biện pháp, các hình thức mới.
• Sưu tập, xử lý thông tin, kinh nghiệm để giải quyết các hiện tượng, ngăn
ngừa và tránh những sai lầm khuyết điểm có thể có trong tương lai.
• Như vậy, đảm bảo sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính logic trong NCKH
là tôn trọng lịch sử khách quan, là hiểu thấu được những điều kiện có thật
của mọi sự phát sinh, phát triển, diễn biến của các hiện tượng trong đời sống,
để tìm ra các quy luật phát triển chung nhất của sự thật lịch sử ấy, giúp người
nghiên cứu tránh được những sai sót
2.1.3. CTXH với quan điểm thực tiễn.
Đòi hỏi NCKH phải bám sát thực tiễn, phục vụ cho thực tiễn đời sống xã
hội.


NCKH thực chất là hướng vào khám phá các sự kiện, phát hiện các quy luật
phát triển của hiện thực. Những tri thức này có ý nghĩa to lớn bởi vì nó hướng
tới phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của con người.
Chính vì thế mà mọi đề tài nghiên cứu khoa học phải có tính cấp thiết xuất phát
từ thực tiễn và phải có ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn.
Chức năng quan điểm thực tiễn trong CTXH:


Giúp chúng ta thu thập được thông tin từ thực tiễn.




Kiểm chứng các lý thuyết, giả thiết đã có.



So sánh các kết quả trong nghiên cứu với thực nghiệm.

II. Cở sở lý luận
2.1 Hệ thống khái niệm
2.1.1 Khái niệm “Trẻ em”
Khái niệm “Trẻ em“ là một khái niệm bao quát dành cho một bộ phận công
dân còn hạn chế nhất định trong năng lực ứng xử và năng lực pháp lý của bản
thân. Khái niệm “Trẻ em” hiện nay và tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Trong đó có sự khác biệt nhất định đối với việc quy định ngưỡng tuổi
chính xác của trẻ em ở từng quốc gia, tuy nhiên mọi quan điểm đều thống nhất
quan điểm cho rằng trẻ em là đối tượng yếu thế, cần được chăm sóc, bảo vệ và
hưởng các quyền lợi tốt nhất để phát triển. Theo Công ước quốc tế về quyền Trẻ
em (mà Việt Nam là quốc gia đầu tiên tại Châu Á và là quốc gia thứ 2 trên thế
giới ký kết tham gia), ngay tại điều 1 đã nêu rõ rằng “Trẻ em là những người
dưới 18 tuổi, trừ những trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em có quy định
tuổi vị thành niên thấp hơn”. Tại một số quốc gia Bắc Âu như Thụy Điển, Đan
Mạch, Hà Lan…có nền kinh tế phát triển ổn định, chú ý nhiều hơn vấn đề an
sinh cho con người thì có quy định lớn hơn về mức tuổi trẻ em, cụ thể luật pháp
các quốc gia này quy định trẻ em là người dưới 20 tuổi. Tại Việt Nam, theo luật
BVCS&GDTE sửa đổi năm 2001, điều 1 cũng quy định rằng: “Trẻ em quy định


trong luật này là những người công dân dưới 16 tuổi”. Theo định nghĩa sinh học:

“Trẻ em là người trong giai đoạn phát triển, từ khi còn trong trứng nước đến tuổi
trưởng thành”. Tâm lý học cho rằng: “Trẻ em là giai đoạn đầu của sự phát triển
tâm lý-nghiên cứu con người”. Nhìn dưới góc độ XHH: “Trẻ em là giai đoạn xã
hội hóa mạnh nhất và là giai đoạn đóng vai trò quyết định của việc hình thành
nhân cách của mỗi con người”. Như vậy tuy mỗi văn bản luật của mỗi quốc gia
trong văn kiệt quốc tế dều có sự khác biệt nhất định trong việc quy định tuổi của
trẻ em. Nhưng tất cả đều thống nhất cho rằng trẻ em là những người công dân
còn nhỏ tuổi, càn được bảo vệ. Cách hiểu này căn cứ từ sự phân tích thực tế, về
cả mặt thể chất, tâm sinh lý và sự phát triển về mặt xã hội, ý thức tự lập, tự chủ
của con người từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành…
2.1.2 Khái niệm “Trẻ em lang thang
” Theo luật BVCS&GDTE năm 2004 “Trẻ em lang thang là những trẻ em rời
bỏ tổ ấm gia đình, tự kiếm sống, nơi kiếm sống và nơi cư trú không ổn định”
Như vậy, có thể nói trẻ em lang là những trẻ em mà sự nuôi dưỡng của chúng
trong gia đình là suy yếu khiến chúng phải chia sẻ trách nhiệm để gia đình được
sống bằng cách làm lụng vất vả, trên các đường phố bằng các nghề khác nhau
như bán vé số, bán báo, đánh giày…và nơi chúng thường tập trung tới là đô thị,
thành phố lớn. “Trẻ em lang thang” có nghĩa đồng với khái niệm “Trẻ em đường
phố” là những trẻ em hàng ngày kiếm sống đơn độc, không được sự nâng đỡ của
gia đình. Trên thế giới, người ta thường gọi trẻ em lang thang là trẻ em đường
phố, vì dấu hiệu rõ nét để nhận biết số trẻ em này là các em có mặt thường
xuyên trên đường phố. Trẻ em đường phố chia thành 3 nhóm:
- Trẻ em lang thang bỏ hẳn gia đình, không có quan hệ với gia đình. Số trẻ em
này bị bỏ rơi hoàn toàn, không gia đình, không người thân phải tự kiếm sống,
thời gian chủ yếu lang thang trên đường phố hoặc trên các bãi rác, bến tầu, bến
xe…


- Trẻ em lang thang kiếm sống có liên hệ với gia đình, nhưng ít khi về thăm.
Đây thường là nhóm có cha mẹ, nhưng do cha mẹ quá nghèo để con đi kiếm

sống trên đường phố.
- Trẻ em lang thang nhưng đi cùng gia đình (gia đình từ nông thôn vrrg thành
thị), ban ngày chia mỗi người mỗi ngả để kiếm ăn, tối về “đoàn tụ” trên vỉa hè,
nhà ga hoặc nhà trọ rẻ tiền. Dưới góc độ di dân, đây là một hình thức di dân tự
do từ nông thôn về thành thị.
Việc làm của trẻ em đường phố tạm thời có thể chia thành 3 nhóm chính:
- Nhóm trẻ đường phố: gồm các em kiếm sống bằng các nghề trên đường phố
như bán sách báo, đánh giầy, bán xổ số, tạp hoá, bán bánh mỳ, bơm xe, bốc vác,
rửa bát, thu nhặt phế liệu, ăn xin, v.v…
- Nhóm trẻ lao động là nhóm trẻ làm thuê cho các cửa hàng ăn uống, quán cơm
bình dân, làm thuê trong các xưởng sản xuất thủ công.
- Nhóm trẻ giúp việc gia đình gồm những em (chủ yếu là em gái) làm thuê hay
làm người giúp việc trong các gia đình.
2.1.3 Khái niệm “Bảo vệ trẻ em”
Thuật ngữ “BVTE”được nhiều tổ chức sử dụng khác nhau. Tuy nhiên khái niệm
sau đã được nhiều nhà phân tích chấp nhận và sử dụng như sau: “BVTE là khái
niệm chung về công tác phòng ngừa, ngăn chặn các nguy cơ và hành động lạm
dụng, bóc lột trẻ em” (từ điển Bách Khoa Việt Nam_tập I, trang 641). Nói cách
khác thì BVTE chính là thực hiện những hành động để nhằm phòng ngừa và
ngăn chặn không để trẻ em bị sao lãng bị lạm dụng hoặc xâm hại, bóc lột cũng
như hỗ trợ môi trường an toàn và lành mạnh. Ở hình thức đơn giản nhất của
BVTE là đảm bảo cho trẻ em không bị xâm hại. BVTE chính là một công tác
chung của không chỉ những người có trách nhiệm trực tiếp với các em như cha
mẹ, người thân trong gia đình mà nó còn là trách nhiệm xã hội của cộng đồng và
nhà nước.
2.1.4 Công tác xã hội – công tác xã hội với trẻ em:


Công tác xã hội là một nghề chuyên hổ trợ, giúp đở những người gặp khó
khăn hoặc những người bị đẩy ra ngoài xã hội ( người nghèo, người khuyết tật,

trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người già…). Sứ mạng của nghành công tác xã hội
là nỗ lực hành động nhằm giảm thiểu: những rào cản trong xã hội, sự bất công,
và sự bất bình đẳng.
Công tác xã hội với trẻ em là sử dụng các kỹ năng chuyên nghiệp để nhằm hổ
trợ, giúp đở những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn, mang lại cho trẻ
niềm tin vào cuộc sống; để các em có thể phát triển một cách đầy đủ , đúng đắn
và khỏe mạnh.

2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em và trẻ em lang thang
2.2.1 Đặc điểm tâm lý của trẻ em nói chung
Trẻ em từ 0->16 tuổi là giai đoạn đã có đầy đủ những đặc điểm tâm lý phát
triển lứa tuổi, đây là giai đoạn quan trọng để các em hình thành và phát triển
nhân cách sống, cụ thể là những nhận thức về sau này. Đồng thời, những đặc
điểm tâm lý trong lứa tuổi này có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống tình cảm của
mỗi người trong các giai đoạn tiếp theo, chúng ta có thể thấy rõ quá trình phát
triển tâm lý của trẻ em giai đoạn này, trong những nghiên cứu về tâm lý học lứa
tuổi (tâm lý của trẻ em từ 0->16 tuổi). Dưới đây là những đặc điểm tâm lý cơ
bản của trẻ em nói chung: Trẻ em nói chung trong giai đoạn này đang hình thành
và phát triển nhân cách một cách mạnh mẽ. Trong giai đoạn đầu (nhỏ tuổi) tức là
trong giai đoạn tuổi mẫu giáo, trẻ có nhu cầu được quan tâm, chăm sóc về mặt
tinh thần rất lớn. Những nhu cầu về mặt tình cảm gia đình đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn này, nó có ý nghĩa đặt nền móng cho những tình cảm xã hội sau
này của trẻ. Từ giai đoạn lớn hơn, trẻ em có nhu cầu thể hiện cái “tôi” của mình
rất lớn. Trẻ có yêu cầu được mọi người xung quanh chấp nhận những suy nghĩ
của mình và coi mình là một người lớn, bắt đầu có khả năng suy xét mọi vấn đề.


Đặc biệt, đối với trẻ đang trong giai đoạn dậy thì, tuổi vị thành niên xuất hiện
một sự thay đổi lớn không chỉ trong đặc điểm sinh lý mà còn cả trong tâm lý
của trẻ. Lúc này, nhu cầu tự khẳng định mình của trẻ lớn, tư tưởng độc lập và

không muốn chịu sự chi phối của người khác. Trẻ có thể tự làm những gì mà
mình muốn, kể cả khi chưa có sự cho phép của người lớn. Tuy nhiên, cũng trong
giai đoạn này, những khả năng nhận thức của trẻ cũng đã phát triển nhanh, trẻ
nhận định những sự việc mà mình gặp phải như những người lớn có trách nhiệm
thực sự. Đó là những đặc điểm tâm lý cơ bản nói chung của trẻ em trong độ tuổi
từ 0->16 tuổi. Từ những đặc điểm tâm lý nói chung này mà đặt ra cho những
người có trách nhiệm nuôi dưỡng trẻ, có cách dạy dỗ phù hợp để các em có
được sự phát triển nhân cách toàn diện
2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ em lang thang
TELT là những đứa trẻ thường xuyên kiếm sống hàng ngày trên đường phố
bằng những công việc khác nhau, chỗ ăn ở không cố định và hầu như là những
việc không được tốt lắm so với những gì mà chúng ta mong muốn ở trẻ. Cho dù
là trẻ còn sống với gia đình hay không thì trẻ vẫn thiếu đi sự quan tâm và chăm
sóc của gia đình đối với trẻ. Sự tổn thương về mặt tinh thần và tình cảm của trẻ
là nguyên nhân gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Quan trọng hơn hết là
chúng đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại. Trẻ lang thang là những đứa trẻ
thích tự do và sự tự do đó không giống nhau mà tùy vào từng hoàn cảnh, nguyên
nhân của từng trẻ. Thông thường thì TELT không chịu sống trong khuôn khổ và
nơi ở cũng sẽ thay đổi theo nhu cầu cuộc sống và công việc, các em thường có
tính phòng vệ cao, đôi khi hơi hung hãn với những người lạ mặt. Tuy vậy, ở
trong tâm trí và bản chất của các em thì thông thường bộc lộ nhiều cách trong
các cử chỉ hào hiệp, tương trợ và thông cảm với những người bạn cùng lứa tuổi,
cùng cảnh ngộ, cùng hoàn cảnh với nhau. Đặc biệt là các em có tính tự lập cao
và biết cách tổ chức cho cuộc sống riêng của mình
2.3 Nhu cầu của trẻ em và trẻ em lang thang


2.3.1 Nhu cầu của trẻ em nói chung
Mọi con người từ khi sinh ra cho đến khi chết đi đều có những nhu cầu nhất
định cần được đáp ứng để đảm bảo cho cuộc sống của mình được phát triển đầy

đủ và bình thường. Giai đoạn trẻ em từ 0->16 tuổi là giai đoạn đầu trong cuộc
đời của mỗi con người. Trong giai đoạn này trẻ em đã có những nhu cầu cơ bản
tất yếu cần được đáp ứng để đảm bảo cho sự phát triển và đặt tiền đề cho những
giai đoạn sau: Theo lý thuyết về nhu cầu mà nhà tâm lý học Masllow đã đưa ra
trong thế kỷ XVII và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay, thì mọi người và đặc
biệt là trẻ em dều có những nhu cầu cơ bản sau, cần được đáp ứng ở mức độ
nhất định. Đó là những nhu cầu theo các mức thang: Nhu cầu sinh lý và thể chất
( là những nhu cầu về ăn uống, chỗ ở, trang phục…cần phải đảm bảo một cách
đầy đủ, để mỗi con người có thể tồn tại và phát triển). Nhu cầu an toàn ( nhu cầu
được bảo vệ và cần được bảo về: trẻ em phải được bảo vệ tránh mọi sự phân biệt
đối xử; được bảo vệ trước các tệ nạn xã hội; được bảo vệ khỏi bị bóc lột về kinh
tế, lạm dụng sức lao động; trẻ em cần được bảo vệ khỏi sự can thiệp vô cớ vào
thư tín và sự riêng tư. Quyền được bảo về an toàn bao gồm cả không bị tra tấn,
đánh đập trong trường hợp trẻ em làm trái pháp luật hay bị giam giữ, nhu cầu về
những môi trường xung quanh được an toàn, như: gia đình, nhà trường, xã
hội…). Nhu cầu giao tiếp hay còn gọi là nhu cầu được thuộc về một nhóm xã
hội nhất định (trong đó có gia đình, bạn bè…). Nhu cầu được tôn trọng ( tức là
nhu cầu cần được công nhận vị trí, vai trò trong xã hội, được tôn trọng nhân
phẩm và những quan điểm, ý kiến của mỗi cá nhân). Nhu cầu được hoàn thiện
và phát triển: trẻ em cần phải được đảm bảo đầy đủ các nhu cầu trên để có mức
sống tốt về thể chất, tâm lý, trí tuệ, đạo đức; được tiếp xúc với các nguồn thông
tin cần thiết; được học hành theo khả năng, năng khiếu của mình;…và mục đích
cuối cung cần hướng tới đó là phát triển một cách toàn diện nhất trên mọi mặt
đời sống
2.3.2 Nhu cầu của trẻ em lang thang


Như vây, xét trên góc độ chung mọi TELT đều có và cần được đáp ứng
những nhu cầu cơ bản như trên để đảm bảo cho sự hình thành và phát triển nhân
cách. Ở mức độ thấp nhất, TELT cần được thỏa mãn các điều kiện như ăn, uống,

chỗ ở,…Đó là những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự sống của các em. Khi những
nhu cầu cơ bản đó đã được đáp ứng thì các em cũng có nhu cầu ở một mức cao
hơn đó là cần được bảo vệ. Ta thấy nhu cầu này đối với trẻ em đặc biệt quan
trọng và cần được đáp ứng bởi vì các em vẫn chưa đạt được sự phát triển đầy đủ,
chưa độc lập, chưa có khả năng bảo vệ chính bản thân mình thậm chi còn phụ
thuộc vào nhiều người khác. Các nhu cầu còn lại đều ở bậc cao hơn để đảm bảo
cho các em hòa nhập được với cộng đồng, phát triển hoàn thiện nhân cách của
mình. Lý thuyết nhu cầu của Masllow cũng hoàn toàn phù hợp với những quyền
cơ bản mà không phải chỉ trẻ em mà mọi đối tượng trong xã hội đều cần được
hửng như trong tuyên ngôn về quyền con người và công ước quốc tế về quyền
trẻ em đã khẳng định: “ quyền sống còn, quyền được bảo vệ, quyền được tham
gia và quyền được phát triển”( điều 09->điều 15, công ước quốc tế về quyền trẻ
em). Ta có thể thấy được rằng, những nhu càu cơ bản mà mỗi con người, đặc
biệt là với TELT cần được đáp ứng, nếu thiếu hụt hoặc không đáp ứng một hay
nhiều những nhu cầu đó thì chúng khó mà đạt được sự hình thành và phát triển
nhân cách bình thường được và những phát triển trong giai đoạn này khó có thể
làm tiền đề cho những giai đoạn tiếp sau. Vì vậy, chúng ta cần đặc biệt chú ý,
quan tâm đến việc tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu cơ bản của TELT. TELT có
nguy cơ bị mất đi một trong những quyền cơ bản nêu trên vì:
- Không có cơ hội đi học.
- Suy giảm sức khỏe.
-Dễ khủng hoảng tinh thần, mất niềm tin vào cuộc sống.
-Dễ gặp rủi ro tai nạn.
-Dễ bị bóc lột sức lao động và có nguy cơ bị xâm hại tình dục, bị bạo hành, bị
buôn bán.
-Dễ nhiễm thói hư tật xấu.


- Dễ bị lôi kéo vào hoạt động trái pháp luật như ăn trộm, ăn cắp hoặc sử dụng
ma túy

III. Cơ sở thực tiễn
3.1 Thực trạng về trẻ em lang thang hiện nay
Một thực tế cho thấy, số TELT,cơ nhỡ kiếm sống trên các đường phố ngày
càng tăng lên một cách đáng kể. Dù chất lượng cuộc sống của toàn xã hội chúng
ta càng được nâng cao, nhưng với nhiều lý do khác nhau, nhưng vẫn còn nhiều
trẻ em phải sống ở góc phố, vỉa hè. Hiện trạng này đòi hỏi xã hội phải có những
kế hoạch, những giải pháp mang tính kịp thời và cụ thể hướng tới mục đích
không còn TELT. Theo thống kê của Bộ LĐ-TBXH, về trẻ em lang thang thì:
năm 1996 cả nước có 14.596 em; năm 1997 có 16.263 em; năm 1998 có 19.024
em; năm 1999 có 23.000 em; năm 2000 lên đến khoảng 25.000 em. Vào thời
điểm thống kê tháng 2 năm 2003 cả nước còn khoảng 21.000 TELT.
Tháng 8 năm 2003 ủy ban DSGD&TE điều tra tại 2 thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh số trẻ em lang thang có mặt tại hai thành phố này có
trên 10.000 em. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có trên 8 ngàn em và Hà Nội có
gần 2000 em (số trẻ em lang thang được thống kê gồm cả trẻ em là người của
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Số trẻ em này có tới trên 50% không đi
cùng gia đình và khoảng 40% đi cùng gia đình, cùng người thân tạm thời đến
thành phố rồi lại về quê hương hoặc di chuyển đi nơi khác. Một số khác đi cùng
gia đình (di dân tự do) đến các vùng đô thị
Các tỉnh, thành phố tập trung nhiều trẻ em đến lang thang kiếm sống là: Hà
Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng, Bình Dương, Khánh Hòa, Thừa Thiên
Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng. Các địa phương có nhiều trẻ em đi lang thang gồm:
Quảng Ngãi, Phú Yên, Thanh Hóa, Hưng Yên...
Thực hiện kế hoạch đưa trẻ em lang thang về với gia đình và hòa nhập cộng
đồng và triển khai Đề án Ngăn chặn và trợ giúp trẻ em lang thang kiếm sống,
năm 2005 tại 38 tỉnh, thành phố còn từ 100 trẻ em lang thang trở lên đã đem lại
những kết quả khả quan. Hiện nay, theo báo cáo của 38 tỉnh, thành phố, số


lượng trẻ em lang thang kiếm sống còn khoảng 8000 em; trên địa bàn Hà Nội và

thành phố Hồ Chí Minh còn khoảng 1.500 em.
Có nhiều nguyên nhân liên quan đến việc trẻ em bỏ gia đình đi lang thang,
nhưng tập trung ở hai nhóm nguyên nhân chính có liên quan chặt chẽ và tác
động qua lại với nhau đó là: Nhóm nguyên nhân liên quan đến kinh tế và nhóm
nguyên nhân về xã hội. Sự phát triển không đồng đều giữa khu vực nông thôn và
thành thị, chênh lệch mức sống và thu nhập, nhu cầu việc làm ở các đô thị là
những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vấn đề trẻ em lang thang.
Theo Bộ LĐ-TBXH, trong tổng số trẻ em lang thang có tới 82% ra đi từ các
vùng nông thôn hoặc tập trung ở các vùng điều kiện tự nhiên không thuận
lợi,kinh tế khó khăn.Điều kiện kinh tế gia đình khó khăn là lý do chủ yếu dẫn
đến việc trẻ em lang thang kiếm sông.Nhận thức của gia đình về vai trò trách
nhiệm của cha mẹ đối với nhiệm vụ bảo vệ,chăm sóc và giáo dục trẻ em còn
hạn chế ,việc quan tâm đến con cái không được nhiều, bản thân trẻ em chưa
nhận thức đầy đủ về hậu quả lâu dài đối với việc bỏ nhà đi lang thang chưa có ý
thức phòng ngừa hoặc còn tò mò muốn thử nghiệm, thể hiện mình, chưa có các
kĩ năng sống cần thiết để tự bảo vệ mình nên dễ bị rủ rê, lôi kéo vào các tệ nạn
xã hội. Bên cạnh đó các xung đột giữa vợ và chồng ,giữa cha mẹ với con cái đã
làm ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của trẻ em,thường các em có thể chán
học,bỏ học quan hệ với những trẻ chưa ngoan ,dẫn đến các em rời xa gia đình,bỏ
nhà đi lang thang.
Từ giác độ kinh tế học và xã hội học kinh tế học và xã hội học kinh tế cho
rằng công việc mà trẻ em lang thang kiếm sống đang làm là một yếu tố cần thiết
để tạo ra thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội .Trong hoàn cảnh kinh tế khó
khăn,thiếu thốn thì việc huy động trẻ em và quá trình lao động vật chất trở thành
một nhu cầu,đòi hỏi khách quan. Dựa vào lý thuyết xã hội học kinh tế thì nghèo
đói và thiếu thốn vật chất là nguyên nhân chính của việc trẻ em phải lang thang
lao động kiếm sống quan niệm này giải thích được hiện tượng trẻ em lang thang
phổ biến ở các nước đang phát triển, ở những khu vực nghèo nàn và lạc hậu



nhưng khó lí giải vì sao ngay ở những nước phát triển vẫn có nhiều trẻ em lang
thang? Tại sao một số gia đình không nghèo thậm chí có cuộc sống ổn định mà
trẻ em phải lang thang kiếm sống từ lúc còn nhỏ tuổi.
Dưới giác độ xã hội các nhà xã hội giải thích được hiện tượng trẻ em lang
thang bằng thuyết cấu trúc – chức năng và cho rằng nguồn gốc phát sinh trẻ em
lang thang là từ cơ chế phân công lao động xã hội trong xã hội có những loại
công việc đòi hỏi sức lực và sự tham gia của trẻ em. Xã hội cần trẻ em thực hiện
những công việc mà người lớn không làm được mà có làm cũng không thể tốt
bằng trẻ em. Ví dụ công việc bán báo, hàng ngày đánh giày, thu gom, nhặt rác,...
Những công việc đó thường tập trung ở các đô thị lớn.
Đô thị hóa là quy luật tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế của các nước
đang phát triển, sự phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng, sự cách biệt
lớn trong thu nhập giữa khu vực thành thị và nông thôn làm cho số lượng người
di dân tự do từ nông thôn đến các đô thị ngày càng tăng. Môi trường sinh thái bị
hủy hoại dẫn đến thiên tai thất thường làm cuộc sống của nông dân trở nên khốn
khó. Hầu hết trẻ em lang thang gắn liền với lao động sống trẻ lang thang kèm
theo cả bỏ học rất khó trở lại trường học.
Ở nước ta hiện nay các điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực hiện
các quyền cơ bản của trẻ em còn hạn chế ....Chi phí đi học của trẻ em còn quá
cao so với thu nhập. Do đó một số trẻ em tranh thủ thời gian nhàn rổi đặc biệt là
dịp nghỉ hè để đến các thành phố kiếm tiền phụ giúp gia đình. Ngoài ra bộ phận
trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, không nơi nương tựa chiếm 3,4% trong tổng số trẻ em
lang thang được khảo sát. Việt Nam vẫn là nước nghèo, theo chuẩn nghèo mới
nước ta có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo ....cũng là nguyên nhân làm nảy sinh các
vấn đề xã hội ngày càng phức tạp và tạo nguy cơ gia tăng trẻ em lang thang .
Học vấn của TELT nhìn chung là thấp vì đa số là những trẻ em bỏ học
sớm,thất học và thậm chí còn có một số em mù chữ .Theo điều tra của Bộ LĐTBXH ,trẻ em lang thang từ 6-16 tuổi chưa từng đi học chiếm 4,7%. 34% bỏ
học ở bậc tiểu học; 58,7% bỏ học ở cấp Trung học cơ sở và 2,6% bỏ học ở cấp



trung học phổ thông. Và theo kết quả điều tra của Viện Ngiên Cứu thanh niên
kết hợp cùng ủy ban DS-GĐ&TE Việt Nam thì tỷ lệ trẻ em lang thang muốn có
cơ hội trở lại học không phải là ít(dưới 15 tuổi 50%, trên 15 tuổi là 25%). Khảo
sát trẻ em lang thang tại thành phố Hà Nội cũng cho thấy 46,6% trẻ em lang
thang chỉ có trình độ từ mù chữ đến bậc tiểu học. Các em có trình độ trung học
cơ sở là 51,7%.
Cuộc sống của trẻ lang thang có rất nhiều nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sự phát triển về mọi mặt của trẻ em:ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội.
Hoạt động cơ bản để phát triển trí tuệ của trẻ em là quá trình học tập nhưng
trong độ tuổi tiếp thu kiến thức tốt nhất thì các em lại không hoặc ít có cơ hội đi
học ,tiếp cận với giáo dục . Vì không được trang bị kiến thức cơ bản nên việc
tiếp thu kiến thức về nghề nghiệp đối với trẻ lang thang cũng rất khó khăn ,ít có
khả năng kiếm được việc làm ổn định.
3.2.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em lang thang
3.2.1. Nhóm nguyên nhân về kinh tế
Phân tích kết quả của hầu hết các cuộc điều tra cho thấy trên 60% trẻ em lang
thang xuất thân từ gia đình nghèo đói,thiếu việc làm. Trên 80% trẻ em lang
thang có nguồn gốc từ các làng quê kinh tế chậm phát triển ,đất chật người đông,
thiếu việc làm. Đó chính là những nguyên nhân thúc đẩy trẻ em đi lang thang
kiếm sống.
Sự phát triển không đồng đều về kinh tế giữa các vùng ,sự phân hóa giàu
nghèo trong các tầng lớp nhân dân , sự cách biệt lớn giữa điều kiện sông, thu
nhập và cơ hội tìm kiếm việc làm của khu vực thành thị và nông thôn cũng là
những nguyên nhân khác dẫn đến hiện tượng dòng người di dân tự do về các
thành phố, thị xã kiếm sống có xu hướng tăng lên và do đó kéo theo số trẻ em
lang thang ngày càng đông. Thương binh và Xã hội , mức thu nhập bình quân
đầu người ở các khu vực nông thôn chỉ bằng 55% mức thu nhập bình quân tính
theo đầu người ở khu vực thành phố.
3.2.3. Nhóm nguyên nhân về gia đình



Gia đình là tế bào của xã hội,là tổ ấm của con trẻ , hầu hết những trẻ em bỏ
nhà đi lang thang kiếm sống là do nguyên nhân từ gia đình.Đây là nguyên nhân
hẹp, nhưng lại có tác động trực tiếp tới đứa trẻ và quyết định việc ra đi của trẻ.
Những nguyên nhân từ phía gia đình dẫn trẻ em đến con đường lang thang là do
nguyên nhân kinh tế gia đình khó khăn chiếm 66,5%; bố mẹ ly dị 8,57%; bố
mẹ ghét bỏ 4,6%.
Nguyên nhân chủ yếu từ phía gia đình dẫn đến việc trẻ em lang thang là do gia
đình nghèo khó, chính nghèo khó đã khiến không ít các bậc cha mẹ chấp nhận
việc con cái ra đi kiếm sống dẫu biết kiếm sống nơi đất khách quê nghười là vô
cùng khó khăn, khổ sở và đầy cặm bẫy nhưng vì nghèo đói nên “ đầu gối phải
bò”. Một số gia đình có suy nghĩ cho con đi làm như vậy vừa đỡ một khẩu phần
ăn, vừa có tiền , con mình lại được trưởng thành, thậm chí có người lợi dụng con
tàn tật để đi ăn xin.
Cũng còn những nguyên nhân thuộc về bản thân trẻ em như một số trẻ thích
sống tự do, buông thả muốn thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, thích tụ tập
bạn bè , muốn khẳng định vai trò bản thân trong việc tự kiếm sống nuôi bản thân
không phụ thuộc vào người lớn.
Bên cạnh những nguyên nhân trên, cũng không ít những đứa trẻ bỏ nhà đi lang
thang là do tình trạng ly hôn của bố mẹ . Căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS ảnh hưởng
nghiêm trọng đến cấu trúc gia đình, làm cho trẻ em không có cha mẹ cũng là tác
nhân trực tiếp gây tâm lý buồn chán cho trẻ trở về cuộc sống gia đình, thiếu sự
quan tâm, chăm sóc , giáo dục khiến trẻ ra đi tự kiếm sống. Nhiều gia đình do
quá đông con phải cho con đi lao động , hoặc là do tác động tiêu cực từ môi
trường của những phương pháp giáo dục thiếu khoa học ,thiếu sự quản lý chặt
chẽ của gia đình,làm cho đứa trẻ bị bỏ rơi, bị hư hỏng....dẫn đến bỏ nhà đi lang
thang.
3.2.3. Nhóm nguyên nhân về xã hội
Một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng là nhận thức của
một số cán bô, chính quyền địa phương còn hạn chế chưa thấy hết trách nhiệm



trong việc quản lý giáo dục trên địa bạn, chưa có biện pháp ngăn chặn hiện
tượng TELT ngay từ địa phương còn hạn chế chưa thấy hết trách nhiệm trong
việc quản lý giáo dục địa bàn , chưa có biện pháp ngăn chặn hiện tượng TELT
ngay từ địa phương, gia đình , nơi các em sinh sống. Việc lý hộ khẩu, hộ tịch
chưa chặt chẽ, chưa làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật nhất là bảo
vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em trong nhân dân để cho một số kẻ lợi dung lừa
gạt trẻ gây ra các tệ nạn xã hôi, các vụ vi phạm quyền trẻ em.
3.2.3.4. Các yếu tố về nhân khẩu học
Sự gia tăng dân số, tình trạng di dân tự do hiện nay nảy sinh nhiều vấn đề phát
triển mất cân đối giữa thành thị và nông thôn thu hút mạnh mẽ lao động giản
đơn, lao động nông nhàn rẻ mạt. Theo số liệu điều tra dân số năm 1999 că nước
có đến khoảng 4,8 triệu lao động thất nghiệp.
3.3 Hậu quả của tình trạng trẻ em lang thang
Từ việc TELT lao động sớm có thể thấy được hậu quả của vấn đề này rất
nặng nề và rất nghiêm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân các
trẻ mà ảnh hưởng đến toàn xã hội.
TELT có thể phải va chạm với cuộc sống đầy đủ phức tạp và nguy hiểm, các
em rất dễ bị những thói hư tật xấu của xã hội, kiến thức không đủ để tránh khỏi
những cạm bậy đó.Ma túy, mại dâm,HIV/AIDS, trộm cắp, đâm thuê chém mướn
... đang ngày càng dấn sâu vào cuộc sống của các em. Tất cả TELT có thể là đói
tượng tấn công của bất kỳ tệ nạn nào.
Một thực tế cho thấy đó là hiện tượng trẻ em vi phạm pháp luật là rất cao, mà
tập trung chủ yếu ở TELT. Ban ngày thì đi làm, tối về tụ tập ở các bến xe, các
quán nhậu, các tụ điểm và muốn được tự khẳng định mình, các em đó sẽ bị lôi
kéo vào lối sống không lành mạnh, điều này sẽ làm ảnh hưởng đến nhân cách,
suy nghĩ của các trẻ mới lớn, chìm trong những cảnh các em chỉ mới 13, 14 tuổi
hút thuốc,, đang chích thuốc, đang điên cuồn trong cơn phê...thì chúng ta có
theer nhìn thấy tác hại của những trẻ lang thang , kiếm sống trên đường phố khi

đang ở tuổi ngồi trên ghế nhà trường.


Bên cạnh nguy cơ sa vào các tệ nạn xã hội thi TELT phải đối mặt đó là bạo
hành , lạm dụng sức lao động và lạm dục tình dục ở những bé gái. Các em vì
kiếm sống để tồn tại và có tiền thì các em cam chịu để chủ bốc lột mà không hề
phản kháng, tuổi các em là tuổi ăn tuổi học nhưng các em phải bươn chải lên
thành phố để kiếm sống, phải làm việc trong môi trường hóa chất độc hại, bụi
bẩn,..và các công việc nặng nhọc như bốc vác , phụ hồ,sưa xe....Sức khỏe của
các em bị ảnh hưởng nghiêm trọng và có thể bị nhiễm các bệnh như ung thư,
viêm phổi, ho lao, đường ruột ...Cộng thêm vào đó là chỗ ở không an toàn,gầm
cầu, vệ đường, nhà ổ chuột.
3.3.1. Đối với bản thân trẻ em
Về tinh thần:
Như mọi trẻ em khác , TELT lao đọng sớm cũng có những nhu cầu được yêu
thương , được chăm sóc,được bảo vệ, được tôn trọng và được phát triển.Tuy
nhiên với cuộc sống trên đường phố, vỉa hè thì những nhu cầu trên không được
đáp ứng.Do vậy trẻ em có cảm giác thiệt thòi, thua kém những đứa trẻ bình
thường khác.Điều này làm cho trẻ em kém tự tin vào bản thân mình, khó khăn
trong việc tự khẳng định năng lực của các em, luôn cảm thấy bị coi thường và
ngại tiếp xúc với người khác.Do bị tổn thương về mặt tình cảm , nên các em dễ
dẫn tới mắc phải các bệnh như trầm cảm, chán nản, tự tin, mặc cảm với bản thân
và có những trường hợp các em nghỉ quẩn.Đây chính là điều kiện thuận lợi cho
những tệ xã hội tấn công.Do nơi ở và làm việc kiếm sống trên đường phố không
ổ định, nhiều rủi ro nên trẻ em thường mang tâm trạng bất an, lo lắng, trẻ thường
bị sợ bị bắt nạt, sợ hành hung và sợ không kiếm tiền và sợ đói. Sự sợ hãi đó đã
khiến các em mất đi tính hồn nhiên và cũng làm cho trẻ sống trong trạng thái đề
phòng và nghi ngờ thiện chí của những người xung quanh.
3.3.2 Đối với gia đình có trẻ em lang thang
Một gia đình có trẻ em lang thang trên đường phố, thì cuộc sỗng vẫn luôn khó

khăn và dẫn đến những điều không muốn như mâu thuẫn gia đình, thứ bậc trong
gia đình bị đảo lộn, con cái khó có cơ hội và điều kiện tìm cách thay đổi được


khó khăn, nghèo đói của gia đình sau này.Nếu con trong gia đình họ đi lang
thang kiếm sống và sa vào một trong những tệ nạn xã hội như ma túy, tiêm
chích... thì những dằn vặt nỗi khổ sẽ luôn đeo bám những bậc làm cha làm mẹ,
luôn sống trong nỗi đau mất con.
3.3.3 Đối với xã hội
Tình trạng TELT kiếm sống trên đường phố sẽ ảnh hưởng xã hội, các nạn xã
hội tăng dẫn đén vấn đề phức tạp như ma túy, mại dâm, trộm cắp,giết
người...mất trật tự an ninh làm mất cảnh quan thành phố.
Từ vấn đề này nảy sinh nhiều tiêu cực như: hình thành những đường dây buôn
bán trẻ em, sự bó lột, lạm dụng sức lao động, với trình độ học vấn thấp các trẻ
em dễ bị lợi dụng vào con đường buôn bán ma túy của kẻ xấu.
Đồng thời, xã hội cũng mất đi một nguồn lao động trí thức khi các em bỏ học
để đi kiếm sống, có thể có những nhân tài mà xã hội khó để tiềm kiếm và phát
triển.
4. Một số quan điểm và giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề trẻ em lang
thang
4.1 Một số quan điểm
TELT là vấn đề xã hội, vì vậy giải quyết tình trạng TELT phải gắn liền với
sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và của từng địa phương đồng thời phải
gắn chặt giữa các giải pháp về kinh tế, văn hóa với các giải pháp về xã hội.
Giải quyết vấn đề TELT là đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi cho các em phải
gắn chặt giữa các giải pháp về kinh tế, văn hóa với các giải pháp về xã hội.
Giải quyết vấn đề TELT là đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi cho các em như
mọi trẻ em khác.
Giải quyết vấn đề TELT là một quá trình lâu dài. Vì vậy phải huy đông sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, của từng địa phương và

gia đình, đa dạng hóa các nguồn lực. Ưu tiên đầu tư cho những nơi có nhiều
TELT, lấy phương châm phòng ngừa, giải quyết tại cơ sở là chính, giúp các em
trở về với gia đình, quê hương làng xóm.


4.2.2 Giáo dục gia đình
Trong xu thế giao thoa văn hóa Phương Đông và Phương Tây như hiện nay,
việc giáo dục con cái theo quan điểm nào để đảm bảo cho trẻ hình thành nhân
cách, tránh được những tác động xấu là một vấn đề không dễ đối với các bậc cha
mẹ, ông bà. Nhưng điều đó không có nghĩa là các bậc cha mẹ không thực hiện
được. Theo tài liệu truyền thống về bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại cộng đồng, để
làm được điều đó cha mẹ phải thực hiện được những vấn đề cơ bản sau:
Mỗi cặp vợ chồng nên tổ chức xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ,thực hiện
cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình
Thể hiện tình cảm:Cũng như người lớn, trẻ em rất cần tình yêu thương , những
cử chỉ yêu thương, quan tâm như nụ cười, động viên, chơi đùa với con cái trong
những lúc rảnh rổi....sẽ mang lại cho trẻ cảm giác an toàn, hạnh phúc và đầy đủ.
Đó là nền tảng vững chắc để trẻ gắn bó với gia đình.
Quan tâm đến những nhu cầu cơ bản của trẻ.:để đảm bảo cho việc phát triển cả
thể chất lẫn tinh thần.Đó là những nhu cầu ăn no, mặc ấm,được bảo vệ chăm sóc
yêu thương..
Xây dựng sự gắn bó ấm áp. Trẻ rất cần cha mẹ lắng nghe những suy nghĩ, cảm
xúc của chúng, vì thế khi trẻ muốn chia sẽ một vấn đề một vấn đề băn khoăn nào
đó, thì bố mẹ phải giải thích rõ ràng với thái độ chấp nhận luôn bên cạnh và chở
che;để cảm nhạn được sự yêu thương, cởi mở, an toàn và gắn bó với gia đình.
Biết cách ứng phó với thực tế. Dạy trẻ biết ứng phó với mọi tình huống, nhất là
nổi buồn, mệt mỏi và thất vọng của trẻ về một vấn đề nào đó.Bởi vì đó là một
phần cuộc sống mà trẻ cần phải hiểu rằng không phải lúc nào con người cũng có
được những mong muốn.Như thế giúp trẻ nhận biết,chấp nhận và tìm cách giải
quyết những vấn đề, tình huống, hoàn cảnh của mình.Khuyến khích tính đồng

cảm và nghĩ đến người khác. Đó là kỹ năng đặt trẻ vào vị trí của người khác để
nhìn nhận vấn đề nào đó. Điều này có nghĩa ta khuyến khích trẻ thực hiện chức
năng đồng cảm, biết chia sẻ và biết ứng xử với mọi người tốt hơn.


Nhận trách nhiệm : Dạy cho trẻ cuộc sống có nhiều viêc phải làm, phải có cho
và có nhận.Cuộc sống luôn có mặt tốt và mặt xấu cần cho trẻ biết được điều đó,
sau đó đưa ra các cách, các giải pháp xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn để trẻ
hướng tới, sữa chữa, thay đổi điều xấu thành tốt.
4.2.2 Giáo dục nhà trường
Vấn đề học hành của TELT, bộ GD-ĐT cho biết sẽ tập trung giáo dục đẩy
mạnh giáo dục hòa nhập nhằm mở của đón mọi trẻ em có hoàn cảnh khó khăn
được đến lớp.Tuyên truyền giáo dục,tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục
về vấn đề TELT tới cả các cấp các ngành, đoàn thể nhân dân và trực tiếp đối với
trẻ em đang lang thang trên đường phố. Cần tổ chức các chiến dịch truyền thông
, vận động xã hội để mọi người cùng hiểu, cùng thamgia góp phần bảo vệ trẻ
em. Đẩy mạnh giáo dục gia đình và đề cao vai trò của cộng đồng trong việc
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
4.2.3 kinh tế-xã hội
Để hạn chế được sự gia tăng trẻ lang thang ra các thành phố, khu đô thị kiếm
sống cần phát triển các ngành nghề phụ tại địa phương có nhiều trẻ đi lang thang
kiếm sống. Đồng thời cần có sự giúp đỡ cho những người nghèo khó tại địa
phương.
Tiêp tục duy trì và mở rộng các mô hình đang thực hiện các mô hình có hiệu
quả hiện nay: hoạt động của các phòng tư vấn về trẻ em,hoạt động của các nhà
mái ấm tình thương, các lớp dạy hướng nghiệp, dạy văn hóa, các chương trình
vay vốn, trợ cấp.
Cần tăng cường công tác quản lý hộ khẩu, tổ chức kiểm tra các cơ sở tư nhân
có thuê trẻ em lao động và thuê trọ nhằm phát hiện kịp thời những vụ vi phạm
trẻ em.

4.2.4 Đối với nhân viên CTXH
Là một nhân viên CTXH chúng ta có thể góp phần vào việc phòng ngừa tình
trạng TELT , lao động sớm


+ Đánh giá tình hình của các em trong các nghề độc hại, phù hợp với nhu cầu và
điều kiện của địa phương
+ Loại bỏ trẻ em khỏi những môi trường độc hại
+ Có những chương trình dinh dưỡng và sức khỏe như mọi trẻ em ở môi trường
làm việc
+ Bảo vệ sức khỏe và an toàn cho trẻ
+ Giáo dục và huấn luyện các kỹ năng thông qua các giáo dục đồng bộ
+ Có các chương trình phục hồi và ngăn ngừa các di chứng đến thể lực và tinh
thần của trẻ
+ Tăng cường pháp luật và huy mạnh sức mạnh cộng đồng
+ Nhân viên CTXH tiếp cận cộng đồng phải thực tế , lôi cuốn, định hướng hoạt
động phải đáp ứng nhu cầu hiện tại.
+ Ngoài ra nhân viên CTXH phải định hướng nghề nghiệp cho trẻ ở trường học.
+ Nâng cao nhận thức cho trẻ về việc trở về với gia đình
+ Đưa trẻ em lang thang vào các trung tâm bảo trợ xã hội
+ Cần lồng ghép các chương trình đưa TELT về nhà với chương trình xóa đói
giảm nghèo
+ Mở rộng tìm kiếm các trung tâm dạy nghề ,giới thiệu việc làm phù hợp
+ Nhấn mạnh đến vai trò gia đình, vì gia đình chính là nơi an toàn nhất của mỗi
trẻ em.


KẾT LUẬN
Bảo vệ trẻ em lang thang có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng và
phát triển đất nước vững mạnh.Chúng ta không chỉ dùng lời nói mà bằng cả

những hành động tham gia phong trào để thành phố đô thị không còn trẻ emlang
thang .Không cần một hành động quá to tát chỉ cần một sự quan tâm dù nhỏ
nhưng cũng khiến các em trẻ em kém may mắn nhớ về gia đình mình, nhớ đến
những bữa ăn ấm áp , hạnh phúc đã từng có, những vòng tay của cha mẹ của cha
mẹ để các em cảm nhận tình yêu thương,được bảo vệ, đượcphát triển.Đây là
điều kiện để giảm tình trạng TELT hiện nay.
Chúng ta cần nỗ lực hơn nữa cho việc biến tình thương thành hành động.Hãy
cùng nhau thắp lửa những mảnh đời bất hạnh,hãy đem lại những nụ cười trên
gương mặt non nớt sớm lo toan, xoa dịu những nổi lo âu già hơn tuổi để một
ngày không xa khắp nơi trên mọi miền đất nươc chúng ta không còn thấy TELT
đường phố.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Google.vn
2. Các tạp chí, Báo Mới
3. Một số trang wed trên mạng
4. Khung kế hoạch chiến lược giáo dục cho trẻ em cần sự bảo vệ đặc biệt
5. Nghiên cứu về yếu tố tác động đến công bằng về cơ hội học tập cho trẻ em.



×