Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

tiểu luận cao học Xây dựng văn hoá chính trị cho học sinh, sinh viên trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.2 KB, 87 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong chính trị học, vấn đề văn hoá chính trị chiếm một vị trí quan trọng,
bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động chính trị. Nhận thấy vị trí và vai trò
quan trọng của văn hoá chính trị, Đảng ta đã chủ trương tiếp tục phát triển sâu
rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với sự phát triển của kinh tế, làm cho văn
hoá thẩm thấu sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực
chính trị tạo ra chất lượng mới của cuộc sống, xây dựng và hoàn thiện nhân
cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đang bước đầu gặt hái
những thành công, cùng với chủ trương của Đảng về vấn đề văn hoá, đã tạo
bước đà thuận lợi cho việc phát triển một nền văn hoá Việt Nam tiến tiến đậm
đà bản sắc dân tộc, ngay cả trong văn hoá chính trị. Nhưng còn một thực tế
đang đặt ra đối với vấn đề văn hoá chính trị trong sinh viên Việt Nam.
Quá trình mở cửa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa cùng với nó là quá trình hội nhập quốc tế, một mặt đã tạo ra những
thuận lợi cho quá trình đi tắt đón đầu, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội để phát triển khoa học công nghệ,
xây dựng và bồi dưỡng phát triển nguồn nhân tài, đặc biệt nâng cao trình độ
chuyên môn của đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo động lực để hiện đại hoá văn
hoá dân tộc. Hiện đại nền văn hoá dân tộc trước hết phải thực hiện trong hệ
thống giáo dục và trong nhà trường, tạo ra môi trường lành mạnh trong quá
trình xây dựng con người mới đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.

1


Hội nhập quốc tế góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi


cho việc hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc, tạo điều kiện cho nhu cầu hưởng
thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân. Nó kích thích tính dân tộc, thúc đẩy
tinh thần cạnh tranh nâng cao văn hoá của dân tộc cho nhân dân.
Mặt khác, cũng có thể thấy một số vấn đề nổi nên trong hội nhập quốc tế
ảnh hưởng đến văn hoá nói chung, văn hoá chính trị nói riêng. Đó là, sự tụt
hậu về văn hoá. Sự ảnh hưởng của một số văn hoá chính trị trên thế giới làm
mất đi tính độc lập tự chủ trong văn hoá chính trị Việt Nam đã được hun đúc
qua ngàn đời. Nó biểu hiện ra đó là thái độ thờ ơ với chính trị, ý thức chính trị
non kém và niềm tin chính trị giảm sút.
Đặc biệt, nó xẩy ra rất nhiều có xu hướng trở thành phổ biến trong một
bộ phận sinh viên Việt Nam. Một bộ phận của đội ngũ trí thức ở Việt Nam,
ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề phát triển đất nước, đến con đường Đảng và
nhân dân chúng ta đã lựa chọn.
Học sinh,sinh viên là những người chủ tương lai của đất nước,chính họ là
những người sẽ tiếp thu những truyền thống quý báu của dân tộc để tiếp tục
xây dựng một đất nước tươi đẹp để bước vào một thời kỳ mới,một thời kỳ
không ít những khó khăn và gian nan,đó chính là thời kỳ hội nhập quốc tế.
Nhằm phát huy lại những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, trong
đó có văn hoá chính trị, phát huy hơn nữa truyền thống của đội ngũ trí thức,
khơi dậy và nâng cao ý thức, thái độ và niềm tin chính trị cho bộ phận của đội
ngũ trí thức này, xứng đáng là “Thủ đô gió ngàn” của dân tộc trong cuộc
kháng chiến thần thánh chống lại thực dân xâm lược.Chính vì thế mà em chọn
đề tài “Xây dựng văn hoá chính trị cho học sinh, sinh viên trong thời kỳ
hội nhập quốc tế hiện nay” làm đề tài tiểu luận của mình.
3.Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1.Mục tiêu nghiên cứu

2



Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng,tiểu luậnđề xuất phương hướng
và một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng văn hoá chính trị của học
sinh,sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn thực hiện một số nhiệm vụ như sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên.
- Chỉ ra tầm quan trọng của việc xây dựng văn hoá chính trị của sinh
viên trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
- Làm rõ những yếu tố tác động đến văn hoá chính trị của sinh viên trong
thời kỳ hội nhập quốc tế.
- Nêu lên quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước về thanh
niên, sinh viên và văn hoá chính trị của thanh niên, sinh viên.
- Làm rõ thực trạng văn hoá chính trị của học sinh,sinh viên hiện nay.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng văn
hoá chính trị của học sinh, sinh viên trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: văn hoá chính trị cho học sinh,sinh viên hiện nay
Phạm vi nghiên cứu:nghiên cứu văn hóa chính trị cho học sinh,sinh viên
trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Đảng ta về văn hoá nói chung, văn hoá chính trị nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: cùng với phương pháp duy vật lịch sử,lô gic,
phân tích,nghiên cứu và so sánh, tổng hợp điều tra xã hội học,và tham khảo
các ý kiến của các chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài

3



Ý nghĩa lý luận, đề tài góp phần sâu sắc hơn về lý luận xây dựng văn
hóa chính trị của sinh viên và là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm tới
vấn đề xây dựng văn hóa chính trị của học sinh,sinh viên.
Ý nghĩa thực tiễn, đề tài góp phần làm tài liệu tham khảo cho những
người làm công tác giáo dục tư tưởng, công tác truyên truyền, công tác giáo
dục chính trị nhất là thực hiện công tác giáo dục tư tưởng và giáo dục lý luận
chính trị đối với học sinh,sinh viên hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài gồm:phần mở đầu;nội dung(bao gồm 3 chương);kết luận;danh
mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA
CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1 Một sô khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm văn hoá chính trị
Khái niệm văn hoá
Văn hoá chinh trị là một khía cạnh, một lĩnh vực của văn hoá xã hội có
giai cấp. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, các giai cấp cầm quyền đã
thay nhau sử dụng thứ quyền lực này để duy trì và thống trị sự phát triển của
xã hộ.
Văn hoá chính trị là một bộ phận của văn hoá nói chung cho nên chỉ có
thể xác định khái niệm văn hoá chính trị trên cơ sở văn hoá.
Văn hoá là một khái niệm rộng, đa nghĩa. Khái niệm về văn hoá có rất
nhiều tổ chức và các cá nhân khác cũng bàn về khái niệm về văn hoá. Chủ tịch
Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân
văn hoá thế giới cũng đưa ra một định nghĩa văn hoá.

4


Khái niệm văn hóa đã được đặt ra từ rất lâu trong sự phát triển của tư

duy nhân loại. Đã có nhiều định nghĩa về văn hoá với những cách tiếp cận
khác nhau để giải thích về văn hoá.
Ngay từ thời xa xưa từ văn hoá đã sớm xuất hiện trong ngôn ngữ của
nhân loại, đặc biệt ở các quốc gia được coi là cái nôi văn minh nhân loại.
Ngày nay khái niệm văn hoá đã có rất nhiều những khái niệm khác nhau
như: trong cuốn “Từ điển chính trị rút gọn của Liên Xô”, tập thể tác giả quan
niệm rằng, văn hoá là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội, là sức
sáng tạo và khả năng của con người biểu hiện trong các phương thức tổ chức
đời sống và hoạt động sáng tạo của con người, cũng như trong các giá trị vật
chất và tinh thần do con người sáng tạo nên. Theo quan điểm này ta thấy và có
thể hiểu, văn hoá là một phạm trù dùng để chỉ độ phát triển của con người,
trong điều kiện xã hội, lịch sử nhất định, thể hiện trên ba nội dung chính.
- Trình độ phát triển, năng lực bản chất (sức sáng tạo và khả năng) của
con người trong điều kiện lịch sử tương ứng.
- Trình độ đạt được của phương thức tổ chức và hoạt động của con
người.
- Toàn bộ giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo nên.
Năm 1942, Hồ Chí Minh đã định nghĩa về văn hoá, “vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người sáng tạo và phát minh ra, ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá” [44,tr. 431] Xuất
phát từ thực tiễn phát triển của nhân dân, của dân tộc, trong Hội nghị Trung
ương lần thứ năm Ban Chấp Hành Trung ương khoá VIII, Đảng ta khảng
định: “văn hoá Việt Nam là thành quả hàng ngàn năm lao động, sáng tạo và
chiến đấu kiên cường, dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả tiếp thu những tinh hoa và giao lưu văn hoá của nhân loại, của

5



nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc, là nền tảng tình thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển xã hội”. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, bao gồm tám lĩnh vực chủ yếu: Tư tưởng, đạo đức, lối sống,
giáo dục và khoa học, văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn
hoá với các nước ngoài, thể chế văn hoá. Trong đó tư tưởng, đạo đức, lối sống
là những lĩnh vực then chốt của văn hoá.
Với những định nghĩa điển hình về văn hoá ta có thể hiểu về văn hoá
theo các góc độ sau:
Theo nghĩa rộng, văn hoá là trình độ phát triển lịch sử nhất định của một
xã hội, sức sáng tạo và năng lực của con người trong xã hội ấy biểu hiện trong
các kiểu, các hình thức tổ chức đời sống và hoạt động, cũng như trong các giá
trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được hiểu theo lĩnh vực đời sống tinh thần của
con người, bao gồm trình độ học vấn, tư tưởng, nghệ thuật, lối sống, tín
ngưỡng, tôn giáo.
Chỉ riêng cách hiểu về văn hoá ta thấy nó là một phạm trù rộng của nhận
thức luận và là một phạm trù có nội hàm rất sâu sắc và phức tạp. Chính vì thế
nó đã trả lời tại sao có nhiều định nghĩa về văn hoá.
Tổng hợp các khái niệm khác nhau ta có thể đi tới định nghĩa khái niệm
văn hoá như sau: Văn hoá là một phạm trù chỉ toàn bộ mối quan hệ giữa con
người với con người, con người với tự nhiên, ở đó thể hiện trình độ phát triển
lịch sử nhất định của xã hội, thông qua trình độ phát triển năng lực và khả
năng sáng tạo của con người cũng như các giá trị vật chất, tinh thần do con
người sáng tạo nên.
Như vậy, ta có thể hiểu văn hoá biểu hiện trình độ phát triển của con
người thông qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ngày nay, cùng với sự phát


6


triển của xã hội và nhận thức của con người, văn hoá đã chia ra thành nhiều
loại như: văn hoá đạo đức, văn hoá lao động, văn hoá tư duy, văn hoá giao
tiếp, văn hoá môi trường… nhưng có một điều rất rễ nhận thấy đó trong xã hội
có giai cấp, có một nhân tố rất quan trọng để cấu thành nên văn hoá đó là văn
hoá chính trị.
Nói tới văn hoá tức là ta nói tới các yếu tố Chân, Thiện, Mỹ, chỉ khi các
giá trị này tổng hoà với nhau thì mới tạo ra văn hoá. Chính vì vậy, trong chính
trị, văn hoá cũng có vai trò quan trọng. Mọi hoạt động chính trị mà không đi
tới cái Chân, Thiện, Mỹ, tức là phản văn hoá. Vì vậy, cần phải phát huy vai
trò của văn hoá trong chính trị hay nói cách khác là văn hoá chính trị.
Khái niệm chính trị
Chính trị xuất hiện từ khi xã hội có giai cấp và xã hội phân chia thành
giai cấp. Đồng thời, khi mà giai cấp ra đời thì nhà nước cũng ra đời, nhà nước
chính là biểu hiện cao nhất, tập trung nhất về chính trị.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, chính trị đã từng là hoạt động là công
cụ đặc quyền của những nhóm xã hội thống trị, để buộc những người bị trị
phục tùng họ, thực hiện những việc đảm bảo cho lợi ích của họ. Chính trị
được coi là đặc quyền của tầng lớp “bên trên”, thậm chí của một người là
“Thiên tử”. Cùng với sự ra đời và phát triển của các trào lưu dân chủ, nhất là
những thắng lợi của cách mạng dân chủ, chính trị trở thành công việc đông
đảo của quần chúng, chính trị được hiểu như là quyền tham gia vào công việc
của Nhà nước và việc quản lý xã hội của quần chúng. Ngay từ đầu chính trị
được hiểu như vậy và biểu hiện như vậy cho thấy đây là công việc phức tạp,
nhạy cảm và đa dạng.
Với tính nhạy cảm, đa dạng và phức tạp nên ngay từ đầu chính trị đã
được các nhà tư tưởng rất quan tâm, giải nghĩa. Chính trị: thuật ngữ là
(Politica) theo nguyên nghĩa tiến Hy Lạp có nghĩa là “thành bang” (polis),

Nhà nước cổ đại Hy Lạp. Theo đó chính trị là công việc của Nhà nước.

7


Platôn, nhà Triết học cổ đại Hy Lạp, trong tác phẩm “Chính trị”, xem
chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người
anh hùng, sự thông minh. Liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư
tưởng và tinh thần hữu ái. Cũng theo ông, chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị
bằng sức mạnh là độc tài, còn cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính
trị.
Nhà Xã hội học người Đức Max Weber quan niệm chính trị là khát vọng
tham gia quyền lực hay ảnh hưởng đến sự phân chia quyền lực giữa các quốc
gia, bên trong quốc gia, giữa các tập đoàn người trong một quốc gia. Nghĩa là
chính trị là những mong muốn và những tương tác khách quan của cộng đồng
người đối với quyền lực, không phải là hoạt động theo đuổi quyền lực.
Ở phương Đông, người Trung Quốc cổ đại coi chính trị là sự tác động,
điều tiết xã hội để phát triển đúng đắn, là sắp đặt, quản lý xã hội có kỷ cương
nề nếp, ổn định.
Đến thời cận đại, Tôn Trung Sơn định nghĩa chính trị: Chính là việc của
dân chúng, trị là quản lý, quản lý việc của dân chúng là chính trị, lực lượng
quản lý việc của dân chúng là chính quyền.
Các nghiên cứu của các nhà tư tưởng Nhật Bản cho rằng, chính trị là tìm
kiếm khả năng áp đặt quyền lực chính trị.
Ở các quan niệm trên ta thấy có một số yếu tố đúng đắn nhưng chưa nêu
ra được nội dung cơ bản nhất của phạm trù chính trị. Đó là: chính trị là một
thực thể tồn tại trong đời sống với những cấp độ khác nhau (cá nhân, cộng
đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) liên quan đến công việc của Nhà nước.
Với phương pháp luận biện chứng, các nhà kinh điểm chủ nghĩa Mác Lênin đã đưa ra các cách hiểu đúng đắn về chính trị, đã khắc phục được
những hạn chế của các quan niệm trên về chính trị. Nhưng phải nhìn nhận là,

các ông cũng chưa đưa ra được một khái niệm, định nghĩa chính trị một cách
hoàn chỉnh trả lời cho câu hỏi chính trị là gì. Song trong những tình huống cụ

8


thể các ông lại đưa ra được những ý kiến có giá trị định hướng cho việc xác
định đúng đắn về chính trị. Ví dụ: Theo C. Mác: “giai cấp nào muốn nắm
quyền thống trị, ngay cả khi người thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn
bộ hình thức xã hội cũ, và sự thống trị nói chung, như trong trường hợp của
giai cấp vô sản, thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền, để đến
lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến,
điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu” [41, tr.48].
Ta thấy ở đây, chính trị song hành cùng với giai cấp, giai cấp muốn đạt
được mục đích của mình thì phải có chính quyền. Các Mác viết: “Tuyệt đối từ
bỏ chính trị là không thể được, tất cả các tờ báo chủ trương từ bỏ chính trị
cũng đều làm chính trị. Vấn đề là làm chính trị như thế nào và làm chính trị
loại gì? Phải chăng đối với chúng ta không thể từ bỏ chính trị. Đảng công
nhân với tư cách là chính Đảng đã tồn tại trong phần lớn các nước. Chúng ta
không được phá hoại nó bằng cổ vũ từ bỏ chính trị. Thực tiễn của cuộc sống
hiện đại, sự áp bức chính trị của chính phủ hiện tồn tại đối với giai cấp công
nhân nhằm mục đích chính trị cũng như xã hội đều buộc giáo dục công nhân
dù muốn hay không muốn cũng phải làm chính trị. Cổ vũ họ từ bỏ chính trị là
đẩy họ vào vong tay của chính trị tư sản. Từ bỏ chính trị là việc làm không thể
được, đặc biệt là sau Công Xã Pari đã đưa hoạt động chính trị của giai cấp
công nhân vào chương trình nghị sự… [40, tr.551-552].
Ở đây Mác đã khẳng định với chúng ta chính trị mang tính giai cấp, nếu
như ta tách chính trị gia khỏi giai cấp cũng có nghĩa là huỷ luôn quyền lợi của
giai cấp, giai cấp công nhân muốn giành được quyền lợi thì phải giành được
chính trị về tay mình, từ đó chính trị sẽ là công cụ bổ sung hỗ trợ cho nhau

nếu thiếu cái này cái kia không tồn tại. Ông đã nêu rõ không được từ bỏ chính
trị thì sẽ huỷ bỏ luôn mục đích và mục tiêu của mình và lại chuyển sang cho
một lực lượng khác ở đây chính là giai cấp tư sản.

9


Theo Lênin “chính trị có tính lôgic khách quan của nó, nó không phụ
thuộc vào dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay đảng
khác” [ 39 ,tr, 246]. Đây là quan niệm khẳng định chính trị không phải phụ
thuộc vào cá nhân hay tổ chức nào đó, nó phụ thuộc vào hoàn cảnh khách
quan đưa lại.
Lênin nêu “ chính trị là sự tham gia những công việc Nhà nước, là vạch
hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức nhiệm vụ, nội dung,
hoạt động của Nhà nước” [ 34, tr. 404]. Lênin cũng khẳng định “cần hiểu
chính trị như thế nào? Chính trị là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, chính trị
là thái độ của giai cấp vô sản đang đấu tranh tự phát, tự giải phóng mình
chống giai cấp tư sản toàn thế giới… chính trị của chúng ta lúc này là xây
dựng Nhà nước về kinh tế…” [35, tr.482-483]. Lênin cũng khẳn định “chính
trị là quan hệ giữa các giai cấp, là cái quyết định vận mệnh của nước cộng
hoà. Bộ máy là một công cụ bổ trợ, nó càng vững mạnh chừng nào thì càng tốt
và càng có ích hơn cho những sự biến đổi. Nhưng nếu không có năng lực
tranh chấp sứ mệnh đó thì chẳng có tác dụng gì nữa” [36, tr.87- 88].
Như vậy ở đây Lênin đã chỉ rõ năng lực tranh chấp, nếu không có năng
lực tranh chấp để hoàn thành sứ mệnh của mình thì cũng không có tác dụng
gì. Năng lực này nó không chỉ phụ thuộc vào giai cấp mà còn phụ thuộc vào ý
chí nguyện vọng của nhân dân, mà điều này nó lại phụ thuộc hoàn toàn vào
trình độ dân chí của nhân dân.
Mặc dù chưa đưa ra được định nghĩa về chính trị nhưng với những ý kiến
mang tính định hướng ta cũng có thể hiều chính trị như sau:

Phải khẳng định chính trị là một phạm trù rộng, nó không chỉ là những
hoạt động chính trị hiện hữu bình thường mà hàng ngày chúng ta nhìn thấy
trong bộ máy của nhà nước, các tổ chức chính trị, các thể chế khác nhau, mà
là một phạm trù rộng lớn thể hiện các nội dung.

10


- Chính trị là lợi ích, quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp, trước hết là
đấu tranh giai cấp.
- Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức chính quyền Nhà nước, là
sự tham gia công việc Nhà nước, là định hướng cho Nhà nước, xác định hình
thức, nội dung, nhiệm vụ của Nhà nước.
- Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng Nhà nước
về kinh tế. Đồng thời chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với
kinh tế.
Chính trị là lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến hàng triệu con người, vì vậy
giải quyết vấn đề chính trị phải vừa khoa học vừa là nghệ thuật.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chính trị và văn hoá tồn tại trong thể thống
nhất. Chính trị với văn hoá, văn hoá với chính trị có quan hệ gần gũi mật thiết
với nhau. Sau khi nước nhà giành được độc lập người nhấn mạnh “xưa kia
chính trị bị đàn áp, nền văn hoá của ta vì thế không thê nảy sinh được. Nay
nước ta đã độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hoá
hợp với khoa học, hợp với nguyện vọng của dân ” [3,tr.10].
Vì thế, Hồ Chí Minh nói rằng, “văn hoá không đứng ngoài mà ở trong
kinh tế với chính trị”. Khái niệm “ở trong” theo người là mối quan hệ toàn
diện và hữu cơ của văn hoá với chính trị, chính trị với văn hoá. Hoạt động văn
hoá nào cũng mang tính chất văn hoá với chính trị, và mọi hoạt động chính trị
đều gắn với văn hoá, văn hoá trở thành động lực và mục tiêu của chính trị.
Từ đó có thể rút ra: chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa

các giai cấp, giữa các dân tộc và quốc gia, trong vấn đề, giành, giữ thực thi
quyền lực Nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc Nhà nước và
xã hội, là hoạt động của các giai cấp, các đảng phái chính trị, các Nhà nước
nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và mục tiêu đã đề ra. Đây
là quan niệm tiếp cận chính trị từ hai quan niệm cơ bản. Chính trị với tư cách
là quan hệ đặc biệt của các chủ thể chính trị liên quan đến các vấn đề quyền

11


lực chính trị, và chính trị với tư cách là hoạt động xã hội đặc thù của các chủ
thể chính trị có liên quan tới vấn đề Nhà nước.
Cùng với sự phát triển của đời sống chính trị, những kinh nghiệm chính
trị được tích luỹ ngày càng phong phú. Một trong những động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội là văn hoá. Văn hoá là động lực sự phát triển xã hội cũng
như sự phát triển hiện thực chính trị. Nhu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động
chính trị đã khái quát hoá kinh nghiệm chính trị thành lý luận chính trị, từ đó
tạo điều kiện cho sự tìm tòi, tiếp cận đúng về văn hoá chính trị.
Khái niệm văn hoá chính trị:
Như một thành tố của văn hóa,văn hóa chính trị xuất hiện trong lịch sử
cùng với sự xuất hiện của giai cấp,nhưng khái niệm văn hóa chính trị lại khá
mới mẻ trong lý luận chính trị Mác-Lênin.Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác-Lênin chưa đưa ra khái niệm đầy đủ về văn hóa chính trịn nhưng đã đề
cập tới một số nội dung cơ bản làm cơ sở cho việc tiếp cận khái niệm này.
Văn hóa chính trị có thể được tiếp cận từ hai cấp độ:cấp độ xã hội và cấp
độ cá nhân.Từ cấp độ xã hội,văn hóa chính trị biểu hiện sự quan tâm của con
người đến công việc quản lý,điều hành của nhà nước đối với công việc toàn
xã hội;sự quan tâm tới chức năng;nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống
chính trị và thái độ của xã hội đối với những hoạt đông ấy.
Từ cấp độ cá nhân

1.1.2. Khái niệm hội nhập quốc tế
Đến nay chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh nào nói về khái niệm hội
nhập quốc tế, nhưng các khái niệm liên quan thì rất nhiều ví dụ như hội nhập
kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá. Ngày nay, thế giới đang phát triển với xu thế
toàn cầu hoá, xu thế họp tác kinh tế quốc tế, những xu thế này nó tác động
đến mọi khía cạnh của đời sống quốc tế, nên khi tìm hiểu về hội nhập quốc tế
ta không thể bỏ qua hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá.

12


Thuật ngữ hội nhập có nguồn gốc tiếng Anh là: in.teg.rate (động từ);
in.teg.rated (tính từ); integration (danh từ).
Thuật ngữ integration xuất hiện từ những năm 1950. Trong những năm
1960 – 1970, có nhiều công trình nghiên cứu về integrstion. Tuy nhiên, cho
đến nay, hầu như không có định nghĩa nào về integration được thừa nhận
tuyệt đối. Nhìn chung, các quan niệm về integrstion chủ yếu gắn với trường
phái lý thuyết chức năng (hay còn gọi là trường phái thể chế) và thiên về định
nghĩa khái niệm này như là một quá trình hướng tới và là sản phẩm cuối cùng
của sự thống nhất về chính trị giữa các quốc gia riêng rẽ.
Theo một số nhà phân tích, có ba cách tiếp cận về integration:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về phái tư tưởng liên bang. Quan niệm về
integration là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản phẩm đó là
sự hình thành một nhà nước liên bang như kiểu Hoa Kỳ và Thụy Sỹ, những
người theo trường phái này chủ yếu quan tâm đến khía cạnh luật định và thể
chế.
Cách tiếp cận thứ hai, xem integration trước hết là sự liên kết các quốc
gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thường mại, thư tín, du lịch,
di trú… từ đó hình thành các cộng đồng an ninh. Có hai loại cộng đồng an
ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ; và loại cộng đồng an

ninh đa nguyên kểu châu Âu và Bắc Mỹ, cách tiếp cận này cho rằng
integration là một quá trình thể hiện tiến triển các luồng giao lưu, đồng thời là
sản phẩm cuối cùng (thể hiện sự ra đời của cộng đồng an ninh).
Cách tiếp cận thứ ba, thuộc về những người theo phái Tân chức năng.
Cũng giống như cách tiếp cận thứ hai quan niệm về integration vừa là quá
trình, vừa là sản phẩm cuối cùng. Song cách tiếp cận thứ hai, để đánh giá quá
trình liên kết, những người theo phái Tân chức năng chú trọng phân tích quá
trình hợp tác trong việc hoạch định chính sách và thái độ của tầng lớp tinh
túy.

13


Như vậy, Integration bao hàm ý nghĩa: liên kết, nhất thể hóa, hợp nhất,
hòa nhập, hội nhập. Sự khác nhau là do cách dung và cấu tạo từ, với hàm
nghĩa chính trị, kinh tế trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau.
Ở Việt Nam thuật ngữ hội nhập xuất hiện trong bối cảnh chúng ta xúc
tiến mạnh mẽ chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế.
Thuật ngữ “hội nhập” được Đảng ta sử dụng lần đầu tiên trong Văn kiện
Đại hội VIII (1996) của Đảng “Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập
khu vực vừa hội nhập toàn cầu” , thuật ngữ này được nhấn mạnh và được sử
dụng phổ biến ở đại hội IX (2001) của Đảng và trong các Văn kiện hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta.
Theo quan niệm của Bộ ngoại giao Việt Nam: Hội nhập quốc tế là quá
trình chủ động gắn của từng nước với khu vực và trên thế giới thông qua các
nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa
phương. Quan niệm này, phản ánh hội nhập là một quá trình mang tính chủ
động của các quốc gia tham gia vào quá trình khu vực hóa, quốc tế hóa và
toàn cầu hóa thông qua việc xây dựng chính sách.
Hội nhập quốc tế hiện nay được hiểu là một việc quốc gia thực hiện

chính sách mở, tham gia các định chế quốc tế, thực hiện tự do và thuận lợi
hóa thương mại, đầu tư. Nhưng nhấn mạnh việc hội nhập theo chính sách,
hoạt động và biện pháp kinh tế, bao hàm việc hội nhập song phương, đơn
phương và đa phương.
Việc khái quát bản chất của hội nhập quốc tế trong một xã hội rộng lớn,
phức tạp là điều khó làm. Do đó, cần vạch ra những đặc điểm phản ánh những
dấu hiệu và những thuộc tính cơ bản bao hàm các nhân tố tương tác thúc đẩy
quá trình hội nhập quốc tế là điều cần thiết.
Hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan do sự phát triển lực lượng
sản xuất làm tăng lên những mỗi liên hệ ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ
thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia dân tộc trên thế giới.

14


Ngày nay, khi nói tới hội nhập quốc tế thì người ta hay hiểu nó giống toàn cầu
hóa, toàn cầu hóa kinh tế hầu hết người ta đều thừa nhận: Toàn cầu hóa là một
xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Song nhận thức
và lý giải toàn cầu hóa quả là vấn đề rộng lớn, phức tạp, nó bắt đầu từ kinh tế,
nhưng không dừng lại ở kinh tế. Nó tác động trực tiếp tới mọi vấn đề kinh tế,
chính trị, văn hóa – xã hội. Toàn cầu hóa tác động và ảnh hưởng tới mọi lợi
ích không chỉ ở phạm vi quốc gia, dân tộc, giai cấp, mà cả nhân loại nên có
thể hiểu gần như toàn cầu hoá là hội nhập quốc tế.
Các đặc điểm của hội nhập quốc tế là:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là một quá trình. Bởi vì, nó trải qua các giai
đoạn thể hiện sự vận động theo thời gian có sự khởi điểm sự phát triển liên
tục bắt đầu gắn với sự phát triển của xẫ hội và phát triển nhanh chóng và thời
chủ nghĩa tư bản ở thế kỷ XVI, đây là giai đoạn ra đời, xác lập mở rộng quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, được gọi là quá trình
quốc tế hóa. C. Mác – Ph. Ăngghen vạch rõ, do bóp nặn thị trường thế giới,

giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính
chất thế giới Quá trình quốc tế hóa diễn ra từng lĩnh vực, ban đầu là sự giao
lưu, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, mở rộng thị trường khu vực và quy mô mậu
dịch phát triển hình thành thị trường toàn thế giới. Sự phát triển tiếp tục của
quốc tế hóa gắn liền với những mốc lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản
với những đặc trưng của nó trong từng giai đoạn. Khi chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền thì dấu hiệu nảy sinh
quốc tế hóa tư bản tài chính trên phạm vi toàn cầu; sau đó là quốc tế hóa sản
xuất; từ thập niên 80 của thế kỷ XX, khi quốc tế hóa tài chính và sản xuất
phát triển trên phạm vi toàn thế giới thì quốc tế hóa có tên gọi mới là toàn cầu
hóa kinh tế.
Thứ hai, hội nhập quốc là một xu thế khách quan, vừa là kết quả vừa là
yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản

15


xuất xã hội trên cơ sở cách mạng kỹ thuật và cách mạng khoa học – công
nghệ thúc đẩy quá trình quốc tế hóa. Như vậy, tính khách quan của hội nhập
quốc tế là do sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội cao đòi hỏi một quan
hệ sản xuất với quy mô quốc tế hóa thích ứng với nó.
Thứ ba, quá trình hội nhập quốc tế ngày nay bao gồm nhiều mặt nhưng
hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá có vai trò chủ đạo, còn các mặt khác
chỉ là biểu hiện phát sinh từ hội nhập quốc tế và do hội nhập quốc tế quy định.
Như: sự chu chuyển liên tục tăng lên của các luồng hàng hóa, dịch vụ, vốn,
khoa học – công nghệ, các yếu tố sản xuất và các lĩnh vực quan hệ tài chính,
tiền tệ, sự giao lưu, hình thành các quan hệ khác về mặt văn hóa, tinh thần.
Thứ tư, bên cạnh các mặt khách quan là chủ yếu, hội nhập quốc tế hiện
nay mang tính chủ quan, chịu sự chi phối của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Ít nhiều các nước tư bản chủ nghĩa đã nắm ưu thế về tiềm lực khoa học

- công nghệ, thông qua các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế như WB, IMF,
WTO, cùng với các công ty xuyên quốc gia nắm vai trò chi phối quá trình hội
nhập đem lại lợi thế kinh tế cho chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng điều này không phải là bất biến, nhất định
sẽ thay đổi. Vì chính quá trình hội nhập càng phát triển mạnh mẽ và sâu rộng
thì lực lượng sản xuất càng phát triển. Do đó, nó càng phủ định tận gốc quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hơn nữa, các nước đang phát triển và các nước
xã hội chủ nghĩa đang chủ động hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu khai thác
cái lợi từ toàn cầu hóa, tranh thủ cơ hội để phát triển, đồng thời không ngừng
đấu tranh hạn chế ảnh hưởng xấu của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển và
các công ty xuyên quốc gia của chúng.
Thứ năm, hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, có tác
động cả tích cực và tiêu cực đến mọi quốc gia dân tộc. Về nguyên lý, hội
nhập quốc tế mở ra cho các nước sự bình đẳng về cơ hội, nhưng các nước lại
không bình đẳng về điều kiện để nắm bắt cơ hội đó. Ta lấy thí dụ một vài mặt

16


của hội nhập quốc tế như toàn cầu hóa kinh tế không mang tính giai cấp
nhưng việc phân phối do toàn cầu hóa đem lại thì mang tính giai cấp; cũng
như bản thân khoa học và công nghệ không mang tính giai cấp nhưng việc
ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ để phục vụ ai lại mang tính giai cấp.
Đặc điểm này do quan hệ sản xuất tư bản chi phối làm nảy sinh tính phức tạp,
mâu thuẫn trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Như vậy, có thể nói hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan nhưng
được thực hiện thông qua hoạt động chủ quan có ý thức của con người, trong
các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên ở
những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định. Những nhân tố khách quan và
chủ quan như: Sự tiến bộ của kỹ thuật, khoa học – công nghệ; Sự quốc tế hóa

các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt vai trò ngày càng tăng của các
công ty xuyên quốc gia, trên các mặt như vốn, lao động, tư bản, tài nguyên…;
vai trò ngày càng tăng của các chính phủ trong các chính sách mở cửa, tự do
hóa thương mại, đầu tư, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, giao lưu và
phát triển văn hoá. Đây là ba nhân tố cơ bản thường xuyên thúc đẩy hội nhập
quốc tế qua các thời kỳ. Song ở mỗi giai đoạn của hội nhập quôc tế sẽ có
thêm những nhân tố cụ thể khác góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế đồng
thời tạo nên những đặc trưng mới với các tên gọi khác nhau.
Từ những đặc điểm như trên ta có thể định nghĩa khái niệm về hội nhập
quốc tế: Hội nhập quốc tế là quá trình các quốc gia và các dân tộc xâm nhập
vào nhau, kế thừa những tinh hoa của sự phát triển, củng cố thêm bản sắc
của các dân tộc; thúc đẩy sự tiến triển các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa
– xã hội, phù hợp với sự vận động khách quan.
1.1.3. Khái niệm sinh viên
Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng Latinh là student, có nghĩa là
những người làm việc nhiệt tình, tìm hiểu và khai thác tri thức một cách tự
giác.
17


Theo từ điển tiếng Việt: “sinh viên là những người học ở bậc học đại học,
cao đẳng”.
Theo L.X.Kôn thì giới sinh viên một mặt là một bộ phận của thanh niên,
mặt khác là một bộ phận của giới trí thức. Còn theo ý kiến của một số nhà
nghiên cứu thì sinh viên là nhóm nhân khẩu xã hội được xác định trong độ
tuổi thanh niên và đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng trên phạm vi
cả nước.
Ở Việt Nam, sinh viên là một bộ phận thanh niên đã được tuyển chọn qua
các kỳ thi quốc gia và được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng. Họ là
lớp người được đào tạo để có trình độ học vấn cao, trình độ khoa học kỹ thuật

và chuyên môn giỏi sớm tiếp nhận các tri thức khoa học và công nghệ tiên
tiến, nhạy cảm và năng động trong tư duy, nhiều hoài bão ước mơ và lý tưởng
hoá về cuộc sống cao đẹp. Sinh viên sẽ là lực lượng chủ yếu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiều người trong số học sẽ trở thành
những cán bộ chủ chốt trong các ngành kinh tế - xã hội.
Sinh viên có hệ thống nhu cầu và định hướng giá trị phát triển phong phú
đa dạng, là lực lượng tiêu biểu cho những tiến bộ xã hội và đang đòi hỏi vươn
lên khẳng định chỗ đứng của mình, tham gia vào đời sống chính trị và kinh tế
của xã hội mới, văn minh và hiện đại.
Với tư cách là trí thức trẻ, sinh viên có nhu cầu, nguyện vọng phong phú
và khát vọng vươn lên. Họ cũng là lớp người tiếp nhận và xử lý nhanh thông
tin mới, sớm định hướng về các giá trị nhân văn, có xu hướng nhập cuộc và
khẳng định vị trí của mình trong đời sống xã hội, có ý thức tự tin, tự chủ và
tính tích cực, chủ động trong các hoạt động khoa học kỹ thuật, công nghệ và
hoạt động sáng tạo. Do đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá thích ứng nhu cầu
phát triển của sinh viên, là cơ hội để sinh viên khẳng định khả năng của mình
trong xã hội.

18


Yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta đặt sinh viên vào vị trí
quan trọng hàng đầu và trách nhiệm của họ với sự nghiệp này là rất lớn. Sinh
viên nếu được đào tạo và rèn luyện tốt, sẽ là lực lượng xung kích trong quá
trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch
vụ, quản lý trên toàn xã hội. Nói cách khác, sự thành công của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tuỳ thuộc rất lớn vào chất lượng đào tạo (cả
bản lĩnh, phẩm chất và năng lực) của sinh viên.
Trên thực tế, sinh viên hiện nay là một lực lượng rất tích cực tham gia
vào công cuộc đổi mới đất nước. Họ ủng hộ đường lối đổi mới xã hội của

Đảng, sẵn sàng đi vào công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chấp nhận
chính sách mở cửa để đưa đất nước hoà nhập khu vực và cộng đồng quốc tế,
nhằm phát triển nhanh nền kinh tế xã hội, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, coi đó là sự định hướng lý
tưởng của tuổi trẻ và là cương lĩnh hành động của sinh viên hiện nay.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ lịch sử,
hết sức to lớn và mới mẻ, đòi hỏi nhân dân ta và tuổi trẻ chúng ta phải nỗ lực
phấn đấu vượt qua. Tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá yêu cầu phải
có đội ngũ nhân lực xã hội đạt năng suất lao động xã hội, hiệu quả sản xuất
kinh doanh cao gấp nhiều lần so với hiện nay, về cơ bản là dựa vào sự thay thế
lao động thủ công bằng sử dụng máy móc, lao động sử dụng các thành tựu
khoa học công nghệ hiện đại... mà kết quả tổng hợp và trực tiếp nhất là giữ
vững tốc độ cao về tăng trưởng kinh tế của đất nước. Yêu cầu đặt ra là: Đội
ngũ công nhân phải lành nghề, tiếp thu và làm chủ được công nghệ tiên tiến,
trực tiếp sản xuất hàng hoá, cung ứng dịch vụ đạt chất lượng cao theo chuẩn
mực quốc tế. Đội ngũ trí thức phải thành thạo về chuyên môn, nghề nghiệp, có
năng lực tiếp thu chọn lọc và ứng dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa
học công nghệ hiện đại, những tinh hoa của văn hoá, văn minh thế giới vào
thực tiễn Việt Nam, đồng thời có năng lực sáng tạo về lý thuyết cũng như thực

19


hành, để giải quyết những vấn đề trước mắt và lâu dài của đất nước. Đội ngũ
này phải thực hiện có hiệu quả những chức năng: nghiên cứu, thiết kế, tham
mưu và sáng tạo, thực hành, ứng dụng và triển khai; giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng và huấn luyện, lãnh đạo, quản lý và chỉ đạo trong các lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau.
Từ cách tiếp cận trên có thể đưa ra khái niệm sinh viên như sau: Sinh
viên là lớp người, mà khi nhắc tới nó gợi cho chúng ta cái gì trong sáng tốt
đẹp, là người quá sớm để coi là từng trải nhưng cũng quá muộn nếu coi là

ngây thơ. Họ là những người học tập và rèn luyện trong các trường đại học
cao đẳng để trau rồi kỹ năng nghiệp cũng như tu dưỡng bản thân để tự hoàn
thiện chính mình.
1.2 Tầm quan trọng của việc xây dựng văn hóa chính trị của sinh
viên trong thời kỳ hội nhập quốc tế
1.2.1 Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên góp phần phát triển
con người toàn diện
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải
có con người xã hội chủ nghĩa. Đức, tài là hai mặt nhân cách của con người, là
nội dung không thể thiếu trong giáo dục con người toàn diện. Mục đính là tạo
ra những con người đáp ứng nhu cầu xã hội, và người cũng chú trọng trong
các vấn đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, theo Hồ Chí Minh, trong
việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đến các mặt, đạo đức cách mạng, giác
ngộ chủ nghĩa, văn hoá kỹ thuật lao động sản xuất, do vậy ở đây ta thấy xây
dựng văn hoá chính trị cũng là một khâu quan trọng trong công tác giáo dục
toàn diện. Bởi, ngoài kiến thức chuyên môn thì người sinh viên còn phải đươc
trau rồi những tư tưởng, đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu quê
hương, cộng đồng, gia đình làng xóm, làm cho sinh viên không chỉ là người
có kiến thức chuyên sâu, có kỹ năng được đào tạo một cách chuyên nghiệp bài

20


bản, chắc chắn, mà còn phải có lối sống, phẩn chất của một con người xã hội
chủ nghĩa, nó thể hiện qua văn hoá người sinh viên trong cuộc sống hiện tại và
sau này, văn hoá chính trị là phấn không thể thiếu.
Không những thế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
hiện nay, con người càng cần phải có những phẩm chất chính trị, đạo đức cách
mạng, có chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực sáng tạo và luôn cập nhật tri
thức mới, có khả năng vận dụng những tri thức mang lại hiệu quả cao trong

mọi hoạt động… những tư chất đó bẩm sinh thì ít vậy làm thế nào để có được
những tư chất đó, có thể có nhiều cách một trong các cách là xây dựng văn
hoá chính trị của sinh viên giúp họ trong quá trình học tập rèn luyện thì cũng
hình thành những tư chất đó đáp ứng nhu cầu xã hội.
Hơn nữa xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên sẽ trang bị thế giới
quan, nhân sinh quan và phương pháp luận biện chứng cho sinh viên, sẽ góp
phần đào tạo sinh viên trở thành những con người toàn diện. Bởi xây dựng
văn hoá chính trị sẽ nâng cao nhận thức về các quy luật chính trị - xã hội, giúp
sinh viên có cái nhìn khách quan, chân thực về thế giới, với những mâu thuẫn
khách quan vốn có của nó và cách thức giải quyết. Hiểu được các vấn đề có
tính quy luật sinh viên ngày càng tin váo sự lãnh đạo của Đảng và chủ nghĩa
xã hội, vào sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Trên cơ sở đó hướng họ phấn
đấu rèn luyện, và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng, làm cho họ
ngày càng nâng cao bản lĩnh chính trị sống có đạo đức có lý tưởng.
Tóm lại, xây dựng văn hoá chính trị sẽ định hướng thực tiễn nhân văn
cho sinh viên, xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên làm cho sinh viên
thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tạo nên những sinh viên hăng hái đi đầu
trên nhiều lĩnh vực,có thái độ nhận thức chính tri tốt, phát huy truyền thống
xung kích của những thế hệ thanh niên đi trước, làm giàu cho bản thân cho xã
hội thông qua các phong trào đoàn thể.

21


1.2.2 Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên góp phần tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
phát triển kinh tế tri thức và đẩy mạnh hội nhập quốc tế
Sinh viên là những thanh niên trí thức có vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển quốc gia vì đây là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực chất
lượng cao. Trước yêu cầu đổi mới của đất nước, quá trình hội nhập ngày càng

sâu rộng, phát huy vai trò của thanh niên nói chung sinh viên nói riêng trong
công cuộc đổi mới là rất quan trọng. Muốn phát huy vai trò của lực lượng này
cần nâng cao nhận thức chính trị, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho họ, tập
trung tích cực cổ vũ họ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ, tạo sự
chuyển biến thực sự trong lối sống, đạo đức của họ.
Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên sẽ giúp họ nâng cao trình độ tư
duy lý luận khoa học, giúp sinh viên khẳng định bản thân và hội nhập vào xã
hội hiện đại, góp phần phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ, vươn
lên làm chủ khoa học và công nghệ, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và kinh tế tri thức trong thời kỳ hội nhập. Xây dựng văn hoá
chính trị của sinh viên qua việc trang bị phương pháp luận khoa học giúp sinh
viên nâng cao khả năng thích ứng với xu thế đẩy mạnh hội nhập và giao lưu
hợp tác quan hệ quốc tế. Trong môi trường hội nhập và giao lưu hợp tác quốc
tế, sinh viên có điều kiện thuận lợi thể tiếp thu văn minh nhân loại, học tập và
ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, họ sẽ trở lên tự tin hơn tham gia
ngày càng nhiều vào sự phát triển của đất nước.
Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên thông qua việc trang bị thế giới
quan duy vật biện chứng, giúp sinh viên biết yêu lao động, thường xuyên
tham gia học tập một cách nghiên túc đem lại hiệu quả cao. Từ đó, họ có khả
năng vươn lên làm chủ khoa học công nghệ tiến tiến, để xứng đáng với vị trí,
vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

22


1.2.3 Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên góp phần đào tạo thế
hệ cán bộ trẻ kế tục sự nghiệp cách mạng
Trong sự nghiệp cách mạng cũng như trong giai đoạn hiện nay Đảng luôn
đánh giá cao về vai trò của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng. Bởi
sinh viên là những người có phẩm chất quý báu như trẻ khoẻ, có học thức,

ham học, năng động, dám nghĩ, dám làm theo cái mới. Họ đại diện cho sức
sống của thanh niên, sức mạnh của dân tộc. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại,
để những tiềm năng đó trở thành hiện thực, trở thành động lực trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong sự phát triển của đất nước, họ
cần được định hướng đúng đắn trên cơ sở trang bị kiến thức một cách toàn
diện, trong đó nhận thức đầy đủ về hệ tư tưởng vô sản, đặc biệt tạo niềm tin
trung thành với lý tưởng cộng sản.
Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên củng cố niềm tin của sinh viên
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ xã hôi chủ nghĩa, và thực hiện ngày
càng tốt đẹp hơn công cuộc đổi mới đất nước. Khi họ có niềm tin vững chắc
thì sẽ quyết định khuynh hướng mục đích và hiệu quả hoạt động của mình, và
hoạt động hăng say, tích cực trong học tập, công tác, đóng góp thiết thực cho
đất nước, xã hội.
Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên là giáo dục lý tưởng cách mạng
cho sinh viên, lý tưởng của Đảng thể hiện ở sự ham hiểu biết, làm chủ tri thức,
giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và tinh thần chủ nghĩa xã. Lý
tưởng là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách đặc biệt trong ý thức của
con người dưới dạng hình tượng, kiểu mẫu hay chuẩn mực, mà con người cần
phấn đấu đạt tới. Người có lý tưởng cao đẹp không những có yêu cầu cao với
bản thân mình mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm công việc vơi người
khác. Quá trình thực hiện hoá lý tưởng bắt đầu bằng việc củng cố giá trị niềm
tin, rồi sau đó niềm tin trở thành động lực quan trọng đối với hoạt động của
con người.

23


Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên sẽ tạo cho sinh viên niềm tin và
lý tưởng, tin vào sự lãnh đạo của Đảng vào con đường chủ nghĩa xã hội vào lý
tưởng của Đảng Cộng sản. Để rồi nó quay lại tác động trở thành động lực cho

sinh viên ham học hỏi hiểu biết trở thành người cán bộ có đủ đức đủ tài đáp
ứng nhu cầu thời kỳ đổi mới, thời hội nhập quốc tế.
1.2.4 Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên góp phần tích cực vào
cuôc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá
Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên là giáo dục đạo đức, lý tưởng
cách mạng, lối sống, niềm tin, tạo nên một con người có niềm tin sâu sắc với
Đảng, có lập trường vững vàng trước mọi thử thách. Điều đó, góp phần cho
sinh viên có dũng khí bảo vệ hệ tư tưởng vô sản, bảo vệ Đảng Cộng sản và
chế độ xã hôi chủ nghĩa, bảo vệ các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
có sức đề kháng với “Diễn biến hoà bình” của kẻ thù với hình thức ngày thâm
độc và tinh vi.
Trong tình hình thế giới và khu vưc có nhiều biến đổi, hội nhập quốc tế
đang đưa lại những thời cơ và thách thức lớn. Đặc biệt các thế lực thù địch
cũng lợi dụng tình hình đang âm mưu diễn biến hoà bình. Đối tượng nhạy cảm
chúng hướng tới ở đây là thanh niên, trong đó sinh viên chiến vai trò quan
trọng. Để thực hiện chúng âm mưu lôi kéo họ, kích động sinh viên chạy theo
lối sống thực dụng, làm băng hoại đạo đức, làm chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, suy thoái về chính trị, tư tưởng, xa rời lý tưởng của Đảng và mất
phương hướng chính trị. Chúng lợi dụng giao lưu văn hoá, kinh tế thị trường,
chiến tranh tâm lý bằng nhiều con đường, dưới nhiều hình thức, chúng đưa
vào nước ta những thị hiếu tầm thường, những quan niệm dễ dãi về tự do,
hòng dẫn đến vô chính phủ, xã hội rối ren và lật đổ chế độ khi thời cơ đến.
Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên làm cho họ có nhận thức đúng,
có thái độ nên án những thói hư tật xấu trong xã hội như tình trạng phi văn
hoá, xa rời văn hoá, làm cho nhiều chuẩn mực xã hội nhiễu loạn, thay đổi theo
24


chiều hướng xấu, tình trạng vì đồng tiền và danh vị cá nhân chà đạp lên truyền
thống đạo đức, tình nghĩa con người, quan hệ thầy trò, bạn bè suy thoái.

Xây dựng văn hoá chính trị của sinh viên làm cho học có được phẩm chất
lối sống lành mạnh. Đây sẽ là bức tường thép bảo vệ sinh viên trước những
cám dỗ hiện nay.
1.3. Các yếu tố tác động đến văn hóa chính trị của sinh viên
Văn hoá chính trị phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Có thể khái quát một số
yếu tố cơ bản sau:
1.3.1 Môi trường văn hoá của sinh viên
Môi trường văn hoá của sinh viên là điều kiện sống sinh hoạt của sinh
viên, nó là những hoạt động, những dòng tư tưởng hàng ngày ảnh hưởng đến
hành động, tâm lý của sinh viên, rồi qua đó tạo nên những hiện tượng văn hoá
nhất định. Nhưng có thể khẳng định đây chỉ là nghĩa hẹp của môi trường văn
hoá. Mà nói đến môi trường văn hoá ảnh hưởng đến sự hình thành văn hoá
của sinh viên tức là phải nói đến điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
của đất nước.
Công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đang từng bước được thực
hiện hoá. Sự tăng trưởng kinh tế là một thực tế hiển nhiên, sự phát triển của
đất nước là sự thực mà không ai có thể phủ nhận được. Chính những thành
tựu kinh tế đang đem lại cho đất nước đổi thay, mà không chỉ sinh viên, thanh
niên và tầng lớp nhân dân khác thấy được sự đúng đắn của đường lối đổi mới,
do vậy đã ý thức hơn mối quan hệ gắn bó sâu sắc giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Đây chính là điều kiện khách quan xây dựng văn hoá chính
trị của sinh viên.
Sự tác động của kinh tế thị trường kích thích tính tự giác học tập của sinh
viên, ở sinh viên bớt đi tính thụ động, ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, vào gia

25



×