Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Một số giải pháp thúc đẩy hàng xuất khẩu thủy sản tại Việt Nam sang thị trường Nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (739.88 KB, 81 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
---------***---------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Thương mại quốc tế
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẤY XUẤT KHẨU THỦY
SẢN VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NGA
Họ và tên sinh viên

: Nguyễn Đức Anh

Mã sinh viên

: 1111110475

Lớp

: Anh 6 - Khối 2 KT

Khóa

: 50

Người hướng dẫn khoa học

: TS Vũ Thành Toán

Hà Nội, tháng 5 năm 2014



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam,
hoạt động xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang trong thời kỳ
khủng hoảng và lạm phát trong nước cao, xuất khẩu được coi là động lực
tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế. Trong hoạt động xuất khẩu của nước
ta hiện nay, thủy sản là mặt hàng rất quan trọng trong cơ cấu các sản phẩm
xuất khẩu chủ lực, với vị trí thứ 4 trong nhóm 10 mặt hàng xuất khẩu chính
sau dầu thô, dệt may và giày dép. Với bờ biển dài trên 3000km từ Móng Cái
(Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang), trong vùng biển Việt Nam có trên
400 hòn đảo lớn nhỏ, là nơi có thể cung cấp các dịch vụ hậu cần cơ bản,
trung chuyển sản phẩm khai thác, đánh bắt, đồng thời làm nơi neo đậu cho
tàu thuyền trong những chuyến ra khơi. Biển Việt Nam có nhiều vịnh, đầm
phà, cửa sông. Đó là tiềm năng để Việt Nam phát triển hoạt động khai thác
và nuôi trồng thủy hải sản. Điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm và một
số vùng có khí hậu ôn đới, nguồn nhân lực dồi dào, và trình độ dân trí khá,
ngành thủy sản Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển thủy sản một cách
thuận lợi. Nhờ những nỗ lực phát triển thị trường và đa dạng hóa sản
phẩm, hàng thủy sản Việt Nam đã có mặt trên rất nhiều nước và vùng lãnh
thổ. Trong các thị trường trọng điểm của thủy sản Việt Nam như EU, Trung
Quốc, Singapore, Nhật Bản,.. Nga là thị trường lớn, có tiềm năng đối với
nhóm hàng nông sản và thủy sản. Thời gian qua, xuất khẩu của Việt Nam
vào thị trường Nga đã từng bước tăng trưởng nhưng kim ngạch xuất khẩu
vẫn còn thấp. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên minh Hải
quan Nga, Belarus và Kazakhstan đang được thúc đẩy đàm phán, đồng
thời việc Nga đang có động thái hạn chế thương mại đối với việc nhập khẩu
các mặt hàng nông sản, thủy sản từ một số nước khác đã tạo cơ hội cho
việc đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam vào thị trường Nga.



Vừa qua Mỹ và Eu đã ký ban hành lệnh trừng phạt mới lên nền kinh tế
của Nga. Đáp trả lại lệnh trừng phạt mới này, Mát-xcơ-va đã thực hiện cấm
nhập khẩu các mặt hàng lương thực và thực phẩm nhập khẩu từ Mỹ và Eu,
trong đó có mặt hàng thủy sản.
Lệnh cấm nhập khẩu thực phẩm từ Mỹ và các quốc gia châu Âu, đã
làm một số mặt hàng thực phẩm, thủy sản trên thị trường thiếu hụt nghiêm
trọng và giá cả đã tăng đột biến. Mặc dù Nga là nước có nguồn lợi thủy sản
nuôi trồng và đánh bắt phong phú, tuy nhiên nước này hạn chế về cơ sở
chế biến thủy sản nên phải lệ thuộc vào nhập khẩu từ các nước Eu, Mỹ và
các nước châu Á. Để giải quyết bài toán thiếu hụt nguồn cung về thực
phẩm và thủy sản hiện nay, Nga đã chuyển sang tìm kiếm các nhà cung cấp
và các đối tác xuất khẩu từ Châu Á. Nhằm đáp ứng đủ một lượng rất lớn về
mặt hàng thực phẩm và thủy sản thiếu hụt hiện nay.
Tại hội chợ thủy sản Nga diễn ra từ ngày 15 – 17/9 tại Mát-xcơ-va đã
thu hút sự quan tâm của các quốc gia đến từ châu Á, trong đó có Việt Nam.
Do ảnh hưởng của lệnh cấm nhập khẩu thực phẩm lần này nên hầu hết các
gian hàng từ các nước Eu, Mỹ không có mặt. Vì vậy các nước Châu Á, đặc
biệt là Việt Nam cần tận dụng triệt để cơ hội này để đẩy mạnh quảng bá và
phát triển các mặt hàng thủy, hải sản có lợi thế của mình. Tham gia hội chợ
lần này Việt Nam giới thiệu đến người tiêu dùng Nga những mặt hàng thủy
sản có lợi thế gồm tôm, cá tra, hải sản.
Vừa qua cơ quan thương mại Nga tại Việt Nam cho biết, trong thời
gian tới Nga muốn nhập khẩu một lượng lớn các mặt hàng nông sản, thủy
sản của Việt Nam. Nắm bắt được cơ hội này các doanh nghiệp của Việt
Nam tăng cường tiếp cận thị trường Nga để gia tăng xuất khẩu. Ngoài nhu
cầu thực tế hiện có, Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất 0% cho các mặt
hàng thủy sản xuất khẩu sang Nga khi hiệp định FTA sẽ có hiệu lực đầu
năm 2015. Với dân số 200 triệu người, kim ngạch nhập khẩu nông thủy sản

khoảng 10 tỷ USD một năm là cơ hội rất lớn cho thủy sản của Việt Nam và


hứa hẹn là thị trường tiềm năng mang lại giá trị xuất khẩu cao trong thời
gian tới.
Thực tiễn hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủy sản Việt Nam trong thời
gian gần đây, cùng với những tiềm năng và lợi thế về phát triển thủy sản
của nước ta, đang đặt ra cho chúng ta yêu cầu cần tiếp tục xây dựng những
chương trình, đề ra những chính sách cụ thể cho ngành thủy sản; bên cạnh
đó, cần có những nghiên cứu sâu để đánh giá chính xác thị trường thủy sản
Nga trong những năm tới. Đề tài : "Một số giải pháp thúc đẩy hàng xuất
khẩu thủy sản tại Việt Nam sang thị trường Nga" nhằm góp phần nghiên
cứu và xác định những căn cứ quan trọng về xuất khẩu hàng thủy sản Việt
Nam sang thị trường này; trên cơ sở đó, đề tài góp phần đề xuất những giải
pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nga.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Đề tài: “Một số giải pháp thúc đẩy hàng xuất khẩu thủy sản tại Việt
Nam sang thị trường Nga" được chọn nghiên cứu nhằm tìm hiểu thị
trường Nga đầy tiềm năng của Việt Nam trong thời gian tới, từ đó tìm hiểu
những thực trạng, những khó khăn, những thách thức cũng như cơ hội cho
ngành sản xuất xuất khẩu thủy sản của Việt Nam và đưa ra một số giải
pháp nhằm thúc đẩy sản xuất xuất khẩu mặt hàng thủy sản sang thị trường
này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam sang
thị trường Nga
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu, tìm hiểu hoạt
động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Nga trong giai đoạn
2010 đến nay, từ đó đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm thúc đẩy

xuất khẩu hàng thủy sản Việt Nam.


4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp quy nạp, diễn dịch để giải
quyết vấn đề đặt ra.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục kèm theo, nội dung nghiên cứu
kết cấu thành 3 chương như sau:
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG XUẤT NHẬP KHẨU
THỦY SẢN TRÊN THẾ GIỚI VÀ NGÀNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN TẠI
VIỆT NAM
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG NGA TRONG THỜI GIAN QUA
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG NGA


MỤC LỤC

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG XUẤT NHẬP KHẨU
THỦY SẢN TRÊN THẾ GIỚI VÀ NGÀNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN TẠI
VIỆT NAM
1.1. Tình hình thị trường thủy sản trên Thế giới
1.1.1. Tình hình cung cầu thủy sản trên Thế giới
a. Về cung:

Trong 5 năm gần đây, nuôi trồng thủy sản đang có mức tăng trưởng
khá cao, bình quân 6%/năm trong khi tăng trưởng của đánh bắt chỉ 0,26%

có xu hướng chững lại. Tổng sản lượng thủy sản năm 2013 là 161 triệu tấn,
với 90 triệu tấn từ đánh bắt và 71 triệu tấn từ nuôi trồng.
Năm 2014 tổng nguồn cung thế giới của thủy sản ước tính tiếp tục
tăng, chủ yếu do lĩnh vực nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, còn khu vực
khai thác tự nhiên bị hạn chế bởi những quy định chính thức về hạn ngạch
đánh bắt nhằm đảm bảo tính bền vững lâu dài. Tuy nhiên, trong ngắn hạn
sự tăng trưởng trong lĩnh vực nuôi trồng đã đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng.
FAO ước tính năm 2014, với cầu tiêu dùng ngày càng tăng, giá
nguyên liệu cao còn kích thích nuôi trồng một số loài đến năm 2015. Tuy
nhiên năm nay sự xuất hiện của hiện tượng El Nino có thể sẽ ảnh hưởng
đến sản lượng khai thác một số vùng. Ước tính tổng sản lượng thủy sản
năm 2014 đạt 165 triệu tấn, tăng 2,6% chủ yếu ở loài thủy sản nuôi.
Sản lượng Thủy sản thế giới (1000 tấn)


2010
2011
2012
2013
Ước tính
2014

88603

93500

91300

90500


90800

59876

62700

66600

70500

74400

Đánh bắt

Nuôi trồng


Khả năng sản xuất một số loài chính năm 2014 (FAO)
Sản xuất cá rô phi nuôi vẫn tiếp tục tăng do thương mại quốc tế tăng,
nhu cầu nội địa và các chương trình an ninh lương thực ở các quốc gia sản
xuất chính. Riêng cá rô sông Nile, nguồn cung cấp chính về cá rô cho EU,
khả năng khai thác tiếp tục suy giảm do đánh bắt quá mức. Đối với cá nổi
nhỏ, nguồn cung một số loài như cá thu và cá trích trong năm nay có thể bị
hạn chế do những thoả thuận về hạn ngạch ở Bắc Đại Tây dương, Nam
Thái bình dương, cũng như hiện tương El Nino ở Nam Thái bình dương.
Nguồn cung cấp cá đáy trong năm 2014 sẽ có thể tăng nhẹ do lượng cá
tuyết Na Uy và Nga trong quý đầu tiên tăng mạnh, mặc dù nguồn cung cá
tuyết chấm đen cũng như các loài khác (cá minh thái và saithe) có thể giảm.
Cá hồi có giá cao ở hầu hết các thị trường từ đầu năm và khả năng duy trì

trong trung hạn do nhu cầu tăng tạo triển vọng nguồn cung trong năm. Tồn
kho tương đối cá ngừ vằn đông lạnh và cá ngừ vây xanh nuôi và nhu cầu
thấp đầu năm 2014 có thể ảnh hưởng đến sản xuất trong năm. Nhu cầu
bạch tuộc đang tăng ở Mỹ và Nhật Bản , và có thể tại các thị trường Tây
Ban Nha và Ý, trong khi nguồn cung cải thiện hơn tạo triển vọng sáng sủa
cho loài này. Đối với mực, thị trường cũng được cải thiện (trừ mực nang)
nhưng sản lượng khai thác thấp. Bột cá và dầu cá có thể tiếp tục suy giảm
trong sản xuất toàn cầu do tác động El Nino đến sản xuất bột cá Nam Mỹ,
dù được bù đắp nguồn cung từ nguồn khác. Nhu cầu ngày càng tăng, đẩy
giá cho cả bột cá và dầu cá cao kỷ lục từ nửa đầu năm 2013 và dự kiến sẽ
vẫn ở mức cao trong dài hạn.
Đối với cá tra, basa, năm 2013 sản xuất toàn cầu của cá tra đạt trên
1,6 triệu tấn , với gần 75% được cung cấp từ Việt Nam . Nhu cầu cá tra vẫn
tăng mạnh và số liệu báo cáo cho thấy xu hướng nguồn cung đang ngày
càng tăng từ các nguồn khác ở châu Á. Về Tôm, ước tính năm 2014 nguồn
cung cấp tôm nuôi tốt hơn năm 2013 là năm bị hội chứng tử vong sớm


(EMS) trong khi nhu cầu nhập khẩu lớn .. Nguồn cung phục hồi mạnh mẽ tại
Thái Lan, các nước ở châu Mỹ Latinh, Ấn Độ và Việt Nam.
b. Về cầu :

Nhu cầu tiêu thụ thủy sản hàng năm tiếp tục tăng do dân số tăng cũng như
tiêu dùng thủy sản đầu người. Theo báo cáo của FAO, tiêu dùng thủy sản
trên đầu người cũng đang tăng dần 18,5 kg/người năm 2010 lên đến 19,7
kg/người năm 2013 và ước tính 20 kg/người năm 2014.
Nhu cầu các sản phẩm thủy sản của các công ty trên thế giới cũng
tăng, thể hiện qua sự gia tăng của sản lượng thủy sản nuôi cũng như giá cả
một số loài.
FAO dự báo xu hướng tiêu dùng thủy sản trên thế giới sẽ chuyển

sang loại tươi, sống, nhất là các loại có giá trị cao như: giáp xác, tôm, cá
ngừ, cá hồi... cũng như đối với thủy sản đã qua chế biến bởi tính tiện dụng
cao; còn tiêu thụ đồ hộp ngày càng giảm do nguy cơ nhiễm hóa chất gia
tăng. Yêu cầu về an toàn thực phẩm cũng ngày càng phổ biến rộng rãi trên
thế giới.
Bảng cân đối cung cầu thủy sản quốc tế (Đvt : Triệu tấn)

Sản lượng
Sử dụng
Thực
phẩm
Thức ăn chăn nuôi
Khác
Tiêu dùng đầu
người (kg/năm)
từ đánh bắt
từ nuôi trồng
Nguồn số liệu: FAO

2011
156.2

2012
158

2013
161

Ước
2014

165.2

tính 2014/
(%)
2.6

131.8

136.2

140.9

144.6

2.6

18.3
6

16.3
5.4

16.4
3.7

16.6
4

1.2
9.6


18.9
9.9
9

19.2
9.8
9.4

19.7
9.8
9.8

20
9.7
10.3

1.4
-1.5
4.4

2013


1.1.2. Tình hình buôn bán thủy sản trên Thế giới

Thương mại thủy sản thế giới trong năm 2014 được FAO ước tính có
mức tăng trưởng vừa phải, khoảng 4% tương ứng năm trước. Dự báo kinh
tế phục hồi ở các thị trường lớn như Hoa Kỳ và EU cũng như một số nền
kinh tế mới nổi như Mexico, Brazil, Indonesia và Malaysia, sẽ thúc đẩy nhu

cầu nhập khẩu các sản phẩm thủy sản ở các thị trường này. Tuy nhiên,
nhập khẩu có thể yếu hơn tại các thị trường truyền thống khác, như Liên
bang Nga và Nhật Bản, nơi đồng tiền mất giá và thuế GTGT cao hơn đã
làm cho thực phẩm nhập khẩu đắt tiền hơn.
Những tháng đầu năm 2014, Trung Quốc giảm xuất thủy sản nhưng
nhập khẩu tăng mạnh và triển vọng trở thành một trong những nhà nhập
khẩu hàng đầu, có thể chi phối thị trường thủy sản thế giới (trong trung hạn
2014-2015) nhất là với sản phẩm giá rẻ và các phụ phẩm.
Nhập khẩu tăng cung cấp cơ hội cho các nhà sản xuất thủy sản ở các
nước và khu vực. Nhiều nước trong đó có Châu Phi, đang đầu tư vào lãnh
vực nuôi trồng thủy sản. Ấn Độ đang tích cực phát triển nguồn nguyên liệu,
đây là nhà cung cấp tôm hàng đầu của
Mỹ năm 2013 trong bối cảnh hội chứng tôm chết sớm ở Đông Nam Á,
kể cả nước sản xuất chính Thái Lan.
FAO ước tính tổng giá trị xuất khẩu thủy sản năm 2014 đạt 141,8 tỷ
USD, tăng 4,2% về giá trị và 0,3% về lượng. Tỷ lệ thương mại trong sản
xuất năm 2014 chiếm 36,2% thấp hơn năm 2013 (36,6%); tuy nhiên tỷ lệ
khá cao cho thấy thủy sản là ngành có tính toàn cầu hóa cao so với các
ngành thực phẩm thế giới.
Khối lượng & giá trị thương mại thủy sản

54.8


57.2

58.1

59


59.9

109

127.6

129.2

136

141.8

2010
2011
2012
2013
Ước tính 2014

Khối lượng (triệu tấn)

Giá trị (tỷ USD)

1.1.3. Phân tích SWOT ngành thủy sản Việt Nam trên thị trường Thế

giới
Điểm mạnh:
- Việt Nam có môi trường khí hậu và
thiên nhiên thuận lợi trong phát triển
ngành thủy sản. Đây cũng là ngành
có quy mô ngày càng tăng và có tầm


Cơ hội:
- Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm
thủy sản trên thế giới nói chung có
xu hướng tăng trong dài hạn (Mỹ,
Nhật, EU…) cùng với sự gia tăng


quan trọng lớn đối với phát triển kinh
tế đất nước.
- Chính phủ Việt Nam xác định
ngành thủy sản là một trong những
ngành ưu tiên phát triển để trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn trong dài
hạn, do đó có nhiều chính sách
khuyến khích, hỗ trợ ngành thủy
sản.
- Cá Tra, cá Basa của Việt Nam vốn
đã xây dựng được thương hiệu trên
thị trường thế giới, do đó có nhiều
thuận lợi trong việc tiêu thụ sản
phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu
- Các doanh nghiệp chế biến và xuất
khẩu thủy sản Việt Nam đã ý thức rõ
tầm quan trọng của việc tuân thủ các
tiêu chuẩn Quốc Tế trong chọn giống
nuôi trồng, sản xuất thủy sản, và
hiện nay đa số doanh nghiệp đã áp
dụng công nghệ hiện đại theo tiêu
chuẩn Quốc Tế trong quá trình sản

xuất.
Điểm yếu:
- Vùng nuôi trồng nguyên liệu cho
ngành chế biến xuất khẩu thủy sản
tại Việt Nam chưa được quy hoạch
một cách khoa học, chủ yếu vẫn là
các hộ nuội trồng nhỏ lẻ. Chính vì
vậy mà nguồn cung nguyên liệu đầu
vào cho chế biến không ổn định.
- Chất lượng con giống nuôi trồng
cũng chưa đồng đều và có xu hướng
giảm, thực trạng này bắt nguồn từ
hiện tượng khan hiếm con giống,
dẫn đến việc tăng sản lượng sinh
sản mà không chăm sóc kỹ vấn đề
chất lượng.
- Gía xuất khẩu sản phẩm thủy sản
của Việt Nam còn thấp, khiến lợi ích
kinh tế và hiệu quả sản xuất của
ngành thủy sản trong nước không
cao, dẫn đến tình trạng thiếu ổn định
của ngành. Bên cạnh đó, các mặt
hàng có giá xuất khẩu thấp thường
chịu những quy kết bán phá giá từ

của dân số thế giới và sự hồi phục
của các khu vực kinh tế lớn sau
những năm khó khăn vừa qua.
- Các thị trường xuất khẩu Chính của
Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản

được dự báo sẽ phục hồi nhu cầu
tiêu thụ hàng thủy sản khi kinh tế các
khu vực này hồi phục trong những
năm tới.
- Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm
thủy sản từ Châu Á của Nga tăng
nhanh do việc ban hành Lệnh cấm
nhập khẩu thực phẩm từ Mỹ và các
quốc gia châu Âu.
- Ngành thủy sản ngày càng có vai
trò quan trong trong việc góp phần
đảm bảo an ninh lương thực, xoá đói
giảm nghèo, đồng thời thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
nông thôn, tạo ra công ăn việc làm
và tăng hiệu quả sử dụng đất đai
Thách thức:
- Kinh tế thế giới vẫn ở trạng thái hồi
phục chậm, nhiều nền kinh tế lớn
vẫn chưa thoát khỏi nguy cơ suy
thoái, thực tế này khiến cho hoạt
động tiêu thụ thủy sản Việt Nam gặp
khó khăn.
- Các rào cản thương mại (thuế
chống bán phá giá, rào cản phi thuế
quan…) tại các thị trường Mỹ, EU,
Nhật đã, đang và vẫn sẽ là những
thách thức đối với ngành xuất khẩu
thủy sản Việt Nam trong tương lai.
- Các quy định về chứng nhận đánh

bắt thủy sản của thị trường EU cũng
gây khó khăn trong việc xuất khẩu
thủy sản Việt Nam vào thị trường
này.
- Tình trạng khó khăn, ách tắc vốn
của nền kinh tế Việt Nam hiện nay
cũng là yếu tố góp phần vào sự đình
chệ sản xuất của nhiều doanh
nghiệp nuôi trồng và chế biến thủy


các đối thủ cạnh tranh trong hoạt sản.
động thương mại.
- Hoạt động đánh bắt khai thác thủy
hải sản của Việt Nam còn manh mún
và tự phát, quy trình đánh bắt chưa
chuyên nghiệp khiến hoạt động
chứng nhận đánh bắt chưa được
thực hiện đầy đủ.

1.2.

Tổng quan về ngành thủy sản Việt Nam

1.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ
a. Sản lượng sản xuất thủy sản trong nước

Trong giai đoạn 2008 – 2014: sản lượng sản xuất thủy sản Việt Nam có xu
hướng tăng dần từ mức 4,6 triệu tấn năm 2008 lên mức 6.3 triệu tấn năm
2014, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 5,9%/năm trong giai đoạn này.

Từ 2008 đến 2010 tốc độ tăng trưởng sụt giảm từ mức tăng 9,6% xuống
mức 5,6%, tuy nhiên từ năm 2010 đến 2012 thì tốc độ tăng trưởng sản
lượng sản xuất thủy sản lại khá ổn định quanh mức 5,2% - 5,8%/năm. Năm
2014 sản lượng sản xuất thủy sản ghi nhận mức tăng 5.6% để đạt giá trị 6.4
triệu tấn.
Năm 2012 - 2013 là năm mà ngành thủy sản Việt Nam gặp nhiều khó khăn
trong xuất khẩu, tuy nhiên sản lượng sản xuất toàn ngành vẫn tăng nhẹ là
do thình hình tiêu thụ tại thị trường trong nước đang ngày càng được cải
thiện. Năm 2014 Việt Nam ghi nhận sự hồi phục nhẹ trong tình hình xuất
khẩu ngành.
b. Cơ cấu sản xuất thủy sản trong nước

Nguồn: Tổng cục thống kê


Trong cơ cấu sản lượng sản xuất thủy sản Việt Nam có hai nguồn
chính là nguồn thủy sản khai thác tự nhiên và nguồn thủy sản nuôi trồng.
theo số liệu thống kê trong giai đoạn 2006 – 2014, thì tỷ trọng sản lượng
thủy sản nuôi trồng đang có xu hướng tăng và tỷ trọng thủy sản khai thác có
xu hướng giảm, cụ thể:
Tỷ trọng thủy sản nuôi trồng tăng từ 45,5% năm 2006 lên mức 54,2%
năm 2014, trong khi đó tỷ trọng thủy sản khai thác giảm từ 54,5% năm 2006
xuống mức 45,8% năm 2014. Đây là xu hướng dịch chuyển chung trong cơ
cấu sản xuất thủy sản toàn cầu
c. Tình hình sản xuất theo khu vực

Nguồn : Tổng cục thống kê
Khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long chiếm ưu thế vượt trội về sản lượng
sản sản xuát thủy sản, cụ thể là khu vực này chiếm tới 57,9% - 59.0% tổng
sản lượng sản xuất thủy sản của cả nước trong giai đoạn 2008 – 2014.

Kế đến là khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung với sản lượng
sản xuất chiếm 21,4% - 21,7%, Đồng bằng Sông Hồng chiếm tỷ trọng
10,8% - 12%...
Rõ ràng, điều kiện tự nhiên của các vùng đồng bằng gần sông, các vùng
ven biển có những lợi thế trong phát triển ngành thủy sản. Đồng bằng sông
Cửu Long phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản, Bắc Trung Bộ, Duyên hải
Miền trung có thế mạnh về khai thác tự nhiên.
d. Giá trị sản xuất thủy sản Việt Nam

Nguồn: Tổng cục thống kê


Giai đoạn 2007 – 2014: giá trị sản xuất thủy sản có xu hướng tăng từ
mức 89,7 nghìn tỷ năm 2007 lên mức 246 nghìn tỷ năm 2014, đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân gần 18%/năm trong giai đoạn này.
Năm 2013 - 2014 là hai năm ghi nhận mức tăng trưởng 3% và 6.5%
so với các năm trước, đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong giai đoạn
2005 – 2014 của ngành thủy sản.
Những năm này nền kinh tế thế giới nhìn chung chịu nhiều biến động
lớn (khủng hoảng nợ công Châu Âu và suy giảm kinh tế thế giới 2012)
khiến nhu cầu tiêu thụ thủy sản tại các thị trường lớn suy giảm và sản
lượng sản xuất cũng không duy trì được đà tăng trưởng mạnh trước đó.
e. Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản

Nguồn: Tổng cục thống kê

Nguồn: Tổng cục thống kê
Tính về giá trị thì hoạt động nuôi trồng thủy sản có tỷ trọng đóng góp
lớn hơn so với với hoạt động khai thác trong tổng giá trị sản xuất thủy sản,
cụ thể: giá trị thủy sản nuôi trồng thường chiếm tỷ trọng từ 59% - 67%, giá

trị thủy sản khai thác chiếm tỷ trọng từ 33% - 43% tổng giá trị sản xuất thủy
sản trong giai đoạn 2007 – 2014.
f. Cơ cấu tiêu thụ thủy sản

Giá trị sản xuất thủy sản chuyển đổi sang USD ghi nhận từ năm 2009 –
2014 tăng từ mức 7,1 tỷ USD năm 2009 lên mức 11 tỷ USD năm 2014, tăng
trưởng bình quân 10,8%/năm.


Gía trị xuất khẩu thủy sản tăng từ mức 4,3 tỷ USD năm 2009 lên mức 6,7 tỷ
USD năm 2014, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10,9%/năm.
Trong năm 2014 giá trị sản xuất và xuất khẩu đã ghi nhận mức tăng khá so
với năm 2013, năm 2013 giá trị xuất khẩu giảm nhẹ, do tình trạng thu hẹp
nhu cầu tiêu thụ của các thị trường xuất khẩu lớn và thực trạng phải chịu
nhiều rào cản thương mại hơn của ngành thủy sản Việt Nam.
Trong tổng giá trị thủy sản được sản xuất giai đoạn 2009 – 2014 thì có tới
55,9% - 65,5% là để xuất khẩu, còn lại 37,9% - 34,1% là phục vụ nhu cầu
tiêu dùng trong nước.
Năm 2014 giá trị xuất khẩu chiếm tỷ trọng 58.4% tổng giá trị sản xuất thủy
sản, cho thấy sự cải thiện đáng kể so với năm 2013. Thống kê này cho thấy
những khó khăn trong xuất khẩu thủy sản năm 2013 đang dần được cải
thiện trong 2014.
1.2.2. Hệ thống bộ máy ngành thủy sản Việt Nam

Bộ Thuỷ sản là cơ quan quản lý nhà nước trung ương của ngành
thuỷ sản Việt Nam. Bộ trưởng thuỷ sản là thành viên của Chính phủ. Giúp
việc cho bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước có các Thứ
trưởng và các cơ quan tham mưu: Vụ nghề cá, Cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ
sản, Vụ Kế hoạch và Đầu tư, Vụ Tổ chức cán bộ và lao động, Vụ Khoa học
Công nghệ, Vụ phát chế, Vụ Tài chính Kế toán, Vụ Hợp tác Quốc tế, Văn

phòng Bộ, Thanh tra Bộ.
Cục bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và hệ thống 31 chi cục tại các địa
phương có nhiệm vụ tham mưu xây dựng chính sách, trực tiếp chỉ đạo và
thanh tra công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.
Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản (NAFIQACEN),
gồm Văn phòng Trung tâm và 6 chi nhành trọng điểm nghề cá thực hiện


chức năng là cơ quan thẩm quyền của Việt Nam về kiểm soát, bảo đảm an
toàn vệ sinh chất lượng sản phẩm thuỷ sản.
Trung tâm khuyến ngư Trung ương, có Văn phòng đai diện tại thành
phố Hồ Chí Minh và hệ thống các Trung tâm khuyến ngư, khuyến nông tại
các tỉnh,thành phố trong cả nước thực hiện chuyển giao kinh nghiệm, kỹ
thuật, công nghệ, phổ biến thông tin giúp nông ngư dân phát triển sản xuất
thuỷ sản tại mọi địa phương, mọi thành phần kinh tế. Tại các tỉnh ven biển,
cơ quan quản lý thuỷ sản địa phương và các Sở Thuỷ sản trực thuộc UBND
tỉnh, thành phố, chịu sự quản lý chuyên ngành của Bộ Thuỷ sản.
Tại các tỉnh không có biển, cơ quan quản lý thuỷ sản được đặt trong
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trường Đại học Thuỷ Sản - Nha
Trang, Khoa Thuỷ sản (Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm thành phố Hồ
Chí Minh), các trường Trung học Thuỷ sản 1,2 và 4 tại các đơn vị chịu trách
nhiệm chính đào tạo nguồn nhân lực cho ngành.
Trong hệ thống bộ máy của ngành thuỷ sản còn có các cơ quan khoa
học và các cơ quan thông tin, báo chí. Các tổ chức chính trị xã hội và nghề
nghiệp có vai trò quan trọng trong tổ chức, động viên lao động nghề cá, các
doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh, đồng thời tham gia vào công
tác quản lý Nhà nước của ngành. Các tổ chức đó là:
- Công đoàn Thuỷ sản Việt Nam với 67.000 đoàn viên.
- Hội nghề cá Việt Nam
- Hội hiệp chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam.

1.2.3. Tiềm năng phát triển của thủy sản Việt Nam
a. Tiềm năng tự nhiên

Nước ta trải dài trên 13 độ vĩ bắc kề sát biển đông, bờ biển dài từ
Móng cái ( Quảng ninh) tới Hà tiên ( Kiên giang) dài 3260 Km, với 112 cửa
sông lạch. Theo tuyên bố của chính phủ nước CHXHCN Việt nam năm


1997, biển nước ta gồm nội hải, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa, cả quần đảo Trương sa và Hoàng sa và hàng ngàn
hòn đảo lớn nhỏ. Riêng vùng đặc quyền kinh tế đã có diện tích gần 1 triệu
Km2, gấp 3 lần diện tích đất liền. Bên cạnh đó, Biển đông của ta là một
vùng biển mở, thông với Đại Tây dương ( ở nam Thái Bình dương) và ấn
Độ dương (qua eo Malacca). Phần thềm lục địa phía Tây và Tây nam nối
liền đất liền của nước ta.
Môi trường nước mặn xa bờ ; bao gồm vùng nước ngoài khơi thuộc
vùng đặc quyền kinh tế. Mặc dù chưa nghiên cứu kỹ về mặt nguồn lợi
nhưng những năm gần đây ngư dân đã khai thác rất mạnh cả ở 4 vùng biển
khơi ( Vịnh Bắc bộ, Duyên hải Trung bộ, Đông nam bộ, Tây nam bộ và Vịnh
Thái lan).
Nhìn chung, nguồn lợi mang tính phân tán, quần tụ, dàn nhỏ nên rất
khó tổ chức khai thác công nghiệp cho hiêu quả kinh tế cao. Thêm vào đó
khí hậu thuỷ văn của vùng biển này rất khắc nghiệt, nhiều dông bão làm cho
quá trình khai thác gặp rất nhiều rủi ro và tăng thêm chi phí sản xuất.
Môi trường nước mặn gần bờ là vùng nước sinh thái quan trọng nhất
đối với các loại thuỷ sinh vật vì nó có nguồn thức ăn cao cấp nhất do có các
cửa sông, lạch đem lại phù sa và các chất vô cơ, hữu cơ hoà tan làm thức
ăn tốt cho các sinh vật bậc thấp và đến lượt mình các sinh vật bậc thấp là
thức ăn cho tôm cá. Vì vậy vùng này trở thành bãi sinh sản, cư trú và phát
triển của nhiều loại thuỷ sản.

Vùng Đông và Tây nam bộ có sản lượng khai thác cao nhất, có khả
năng đạt 67% sản lượng khai thác của Việt nam. Vịnh Bắc bộ với trên 3000
hòn đảo tạo nên nhiều bãi triều quanh đảo có thể nuôi các loại nhuyễn thể
có giá trị như trai ngọc, hầu, sò huyết, bào ngư.... Vịnh Bắc bộ có khu hệ cá
nhiều nhưng có đến 10,7% số loài mang tính ốn đới và thích nước ấm.


Tuy nhiên, đặc tính nguồn lợi này gây khó khăn cho các nhà khai thác
khi phải lựa chọn các thông số khai thác cho các ngư cụ sao cho vừa kinh
tế và vừa tính chọn lọc cao nhất. Nghề khai thác của Việt nam là một nghề
khai thác đa loài, đa ngư cụ. Khâu chế biến cũng gặp nhiều khó khăn vì sản
lượng đánh bắt không nhiều và mất nhiều thời gian và công sức để phân
loại trước khi chế biến.
Vùng nước gần bờ ở Vịnh Bắc bộ và Đông Tây nam bộ là vùng khai
thác chủ yếu của nghề cá Việt nam, chiếm 70% lượng hải sản khai thác
toàn vùng biển. Do đó , lượng hải sản vùng ven bờ bị khai thác quá mức
cho phép, thậm chí cả cá thể chưa trưởng thành và đàn đi lẻ. Vấn đề đặt ra
cho ngành thuỷ sảnViệt nam là phải hạn chế khai thác nguồn lợi này, đồng
thời cẩn trọng khi phát triển đội tàu đánh cá, dùng tàu chuyên dùng lớn, độc
nghề và xây dựng các cơ sở sản xuất quy mô lớn sẽ không thích hợp. Vùng
này chỉ thích hợp phát triển một cách hiệu quả là đa loài với quy mô tổ chức
tương đối nhỏ.
Trên cơ sở các tài liệu đã có kết hợp với thực tiễn khai thác ở vùng
biển khơi những năm gần đây có thể thấy rằng nguồn lợi khai thác thuỷ sản
ở nước ta kể cả những vùng gần bờ và xa bờ nhìn chung mang những đặc
điểm lớn sau đây: Nguồn lợi hải sản không giàu, mức phong phú trung
bình, càng xa mật độ càng giảm, tài nguyên hải sản càng nghèo. Nguồn lợi
đa loại, nhiều cá tạp không có chất lượng cao. Thực tế đánh bắt cho thấy ở
miền Bắc chất lượng cá có thể xuất khẩu trong lượng khai thác ngoài khơi
chỉ có thể đạt khoảng 5-155; ở vùng miền trung chỉ có một số loại cá nổ lớn

và mực có thể xuất khẩu lớn; Đông và Tây nam bộ số lượng cá được đem
xuất khẩu cũng chỉ có thể chiếm 205, trong khi đó lượng cá có thể dùng
trực tiếp là thực phẩm cho nhu cầu trong nước chỉ đạt khaỏng 50% đối với
vùng biển Bắc và Trung bộ và 40% đối với vùng biển Đông và Tây nam bộ.
Lượng cá tạp chiếm khoảng 40%.


Môi trường nước lợ: bao gồm vùng nước cửa sông, ven biển và rừng
ngập mặn, đầm phá. đây là nơi cư trú, sinh sản, sinh trưởng của nhiều loại
tôm cá có giá trị kinh tế cao.
Các vùng nước lợ của nước ta, đặc biệt là những vùng rừng ngập
mặn ven bờ đã bị lạm dụng quá mức cho việc nôi trồng thuỷ sản, co nhất là
cho việc nuôi tôm.
Tổng diện tích nước lợ khoảng 619 nghìn ha, với nhiều loại thuỷ sản
đặc sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, rong, cá nước mặn , nước lợ,....
Đặc biệt rừng ngập mặn là nơi nuôi dưỡng chính cho ấu trùng giống hải
sản. Tuy nhiên, theo tổ chức FAO (1987) thì diện tích rừng ngập mặn ven
biển Việt nam giảm từ 400 nghì ha xuống 250 nghìn ha.
Do đó, để tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản ở môi trường nước này
thì biện pháp hiệu quả nhất là lựa chọn những vùng nuôi thích hợp với kỹ
thuật nuôi thâm canh, song với việc này cần có việc quy hoạch và chỉ đạo
sản xuất.
Vùng nước lợ vừa có ý nghĩa sản xuất lớn, vừa có ý nghĩa trong việc
bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. Đây là môi trường tốt cho việc phát triển nuôi
dưỡng ấu trùng giống hải sản sao cho tương xứng với tiềm năng to lớn này
như: phải quy hoạch cụ thể diện tích nuôi tròng và nâng cao kỹ thuật nuôi
trồng,...
Khí hậu thuỷ văn: Biển Việt nam nằm ở vùng nhiẹt đới, tận cùng phía
đông nam của lục địa Châu á. Nên khí hậu chịu ảnh hưởng của cả đai
dương ( Thái Bình Dương) và lục địa biểu hiện đặc trưng của khí hậu nhiệt

đới gió mùa. Tác động của chế độ gió mùa cùng với sự chi phối của chế độ
mưa nhiệt đới đã ảnh hưởng một cách phức tạp đến độ phân bổ , sự biến
động nguồn lợi sinh vật biển tới trữ lượng và khả năng khai thác cá.
Nguồn lợi thuỷ sinh vật Việt nam: rất phong phú, đa dạng và nhiều
laọi có giá trị kinh tế. Chỉ tính riêng các loại sinh vật biển, tự nhiên hải sản


nước ta đã rất phong phú: Khu hệ cá rất phong phú và đa dạng với khoảng
2000 loài và đã kiểm định được 1700 loài. nhưng số cá kinh tế không nhiều
chỉ khoảng 100 loài, trong đó có gần 50 loài có giá trị cao như: Thu, Nhụ,
Song, Chim, Hồng.... Theo kết quả điều tra, Giáp xác có khoảng 1647 loài,
trong đó tôm có vai trò quan trọng nhất với hơn 70 loài thuộc 6 họ (tôm he
được coi là đặc sản quan trong nhất kể cả trữ lượng và giá trị kinh tế). Nhìn
chung, sản lượng tôm khai thác ở vùng biển Đông và Tây nam bộ là chủ
yếu. Còn Vịnh Bắc bộ chỉ chiếm 5-6% tổng số sản lượng. Nhuyễn thể có
khoảng 2523 loài, giá trị kinh tế cao nhất là Mực ống và Mực nang và có
sản lượng cao. Ngoài ra còn có các loại Nghêu, Ngao, Điệp, Sò, Hải sâm,...
có giá trị kinh tế cao. Rong có khoảng 600 loài, trong đó có Rong câu, Rong
mơ, Tảo đang sử dụng trong một số lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp.
Nhìn chung nguồn lợi hải sản Việt nam có nhiều loài có giá trị kinh tế cao
như : tôm, cá, cua, đồi môi, tạo,... tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng
hoá cơ cấu sản phẩm. Tuy nhiên, một số loài mang tính chất ven biển
chiếm trên 65%, sống rải rác, phân tán và có đặc điểm chung là kích cơ
nhỏ, cá tạp nhiều, biến động theo mùa và mật độ không cao, do đó để phát
triển ngành thuỷ sản cần phải quy hoạch lại vùng khai thác sao cho có hiệu
quả nhất.
Về tuổi và độ sinh trưởng: chu kỳ sinh sống của các loài cá biển Việt
nam tương đối ngắn và thường từ 3-4 năm, nên các đàn thường được bổ
sung xung quanh bảo đảm duy trì một cách bình thường. Tốc độ sinh
trưởng tương đối nhanh, ở vào những năm đầu, năm thứ hai giảm dần và

năm thứ ba giảm rõ rệt. Do vòng đời ngắn, tốc độ sinh trưởng lại nhanh như
vậy nên chiều dài của các loại cá kinh tế ở biển nước ta hầu hết chỉ 1520cm , cỡ lớn nhất đạt 75-80cm. Đặc điểm hải sản nước ta có độ tuổi ngắn
nhưng tốc độ sinh trưởng lại tương đối nhanh, do đó vẫn bảo đảm duy trì
một cách bình thường và đáp ứng nhu cầu khai thác phù hợp. Trữ lượng
thuỷ sản của Việt nam vẫn cho phép khai thác từ 1-1,2 triệu tấn/ năm mà
vẫn bảo đảm tái tạo tự nhiên nguồn lợi thuỷ sản.


Tổng hợp kết quả của công trình nghiên cứu điều tra khoa học nguồn
lợi sinh vật biển Việt nam,chúng ta có thể đánh giá trữ lượng và khả năng
khai thác nguồn hải sản của Việt nam như sau: trữ lượng nguồn lợi hải sản
3-3,5 triệu tấn. Khả năng khai thác 1,5-1,6 triệu tấn trong đó tầng mặt (5152%), tầng đáy (48-49%), khả năng khai thác tối đa mà vẫn bảo đảm tái tạo
tự nhiên nguồn lợi là 1,0 - 1,3 triệu tấn/ năm. Sản lượng khai thác có hiệu
quả khoảng 1 triệu tấn/ năm và sản lượng gia tăng 0,5-0,5 triệu tấn.
Tuy nhiên, trữ lượng hải sản là có hạn, vì vậy muốn tăng sản lượng
khai thác thuỷ sản của Việt nam thì cần phải tăng cường công tác nuôi
trồng thuỷ sản, cần quy hoạch, khoanh vùng vùng khai thác hải sản , khai
thác đúng mùa vụ khi sinh vật biển đã trưởng thành, đồng thời chú ý đến
công tác bảo vệ và tái tạo nguồn lợi sinh vật biển.
b. Về lao động:

Lao động nghề cá của Việt nam có số lượng đông đảo, thông minh, khéo
tay, chăm chỉ, có thể tiếp thu nhanh chóng và áp dụng sáng tạo công nghệ
tiến. Giá cả sức lao động của Việt nam trong lĩnh vực thuỷ sản tương đối
thấp so với khu vực và trên thế giới. Đây là một lợi thế cạnh tranh trong quá
trình hội nhập. Tuy nhiên, lao đông thuỷ sản chủ yếu là lao động giản đơn,
trình độ văn hoá thấp và phần lớn chưa được đào tạo nghề phù hợp với
nhu cầu phát triển mới. Do đó, để nâng cao sản lượng khai thác thuỷ sản
thì việc nâng cao trình độ của ngư dân là thiết yếu. Năm 1995 lao động
nghề cá là 3,02 triệu người đến năn 1999 là 3,38 triệu người, đến năm 2001

là 3,54 triệu người. đây chưa kể những hộ, những người nuôi trồng có quy
mô nhỏ xen canh ở đồng ruộng.
Tính trong toàn ngành mới có 90 tiễn sỹ, 4200 cán bộ đại học, 14000 cán
bộ kỹ thuật chuyên ngành, 5000 cán bộ trung cấp. Giá cả sức lao động
trong ngành thuỷ sản của Việt nam còn rất rẻ so với thế giới cũng như khu
vực.


c. * Tàu thuyền và các ngư cụ

Tàu thuyển đánh cá chủ yếu là vỏ gỗ, các loại tàu có thép, xi măng
lớp thép, composite chiếm tỷ trọng không đáng kể. Trong giai đoạn 19902000, số lượng tàu máy công suất lớn tăng nhanh. Năm 1998 số lượng
thuyền máy là71.767 chiếc, chiếm 82,4% tàu thuyền, tăng 60% so với năm
1990; tàu thủ công là 15.338 chiếc giảm đi 50% so với năm 1990. Đến năm
2000 số lượng tàu thuyền tăng lên 73.397 chiếc so với năm 1990. Tổng
công suất tàu thuyền máy tăng nhanh hơn số lượng tàu. Năm 1998 tổng
công suất đạt 2,43 triệu CV tăng gấp 3 lần so với năm 1991, đến năm 2001
tổng công suất đã tăng lên 3,21 triệu CV.
Chủng loại tàu thuyền máy thay đổi theo xu hướng giảm tỷ lệ tàu nhỏ,
tăng tỷ lệ tàu lớn khai thác xa bờ do nguồn lợi ven bờ giảm. Năm 1997, Nhà
nước đã đầu tư 400 tỷ đồng bằng vốn tín dụng ưu đãi để đóng và cải hoán
tàu đánh bắt xa bờ. Số tàu được cải hoán và đóng mới trong năm lần lượt
là 322 và 14, vốn giải ngân đạt 335,9 tỷ đồng đạt 84,2% vốn kế hoạch. Năm
1998 Nhà nước tiếp tục đầu tư 500 tỷ đồng để đóng mới 430 tàu và đã có
103 tàu đi vào sản xuất.
Ngư cụ nghề cá nước ta rất phong phú về chủng loại như: lưới lê,
lưới kéo, mành vó.... các loại ngư cụ là cơ sở xác định loại nghề cá ở Việt
nam. Theo thống kê chưa đầy đủ Việt nam có hơn 20 loại nghề khác nhau,
xếp theo các loại họ nghề chủ yếu sau: Họ lưới rê chiếm 34,4%, họ lưới kéo
chiếm 26,2%, họ câu chiếm 13,4%, họ ngư cụ cố định ( chủ yếu là nghề

lưới đáy, thường ở các cửa sông) chiếm 7,1%, họ mành vó chiếm 5,6%, họ
lưới vây chiếm 4,3%, các nghề khác chiếm 9%. Họ lưới kéo chiếm tỷ trọng
cao nhất ở các tỉnh Nam bộ (38,1%) trong đó Bến tre, Trà vinh , Sóc trăng
chiếm tỷ trọng cao nhất là 47%; Kiên giang chiếm 41,5%; Bà Rịa - Vũng
Tàu chiếm 38,5%. Điều này phù hợp với nguồn lợi của vùng biển Nam bộ vì
trữ lượng cá đáy chiếm một tỷ trọng cao, khoảng 65% tổng trữ lượng của
vùng. Họ lưới lê chiếm một tỷ trọng cao ở các tỉnh Bắc bộ chiếm 60%, Bắc


Trung bộ 42% phù hợp với nguồn lợi ở Vịnh Bắc bộ cá nổi chiếm 61,3% trữ
lượng của vùng. Tuy nhiên, tỷ lệ lưới đáy cao ở một số tỉnh là chưa phù
hợp, gây tác động xấu đến bảo vệ nguồn lợi vì đánh bắt không có chọn lọc,
bắt cả đàn cá chưa trưởng thành, thường hay vào vùng cửa sông kiếm ăn.
d. Các dịch vụ của ngành

+ Dịch vụ nuôi trồng thuỷ sản:
Bao gồm hệ thống sản xuất giống thuỷ sản nước ngọt: số cơ sở sản xuất cá
giống nhân tạo toàn quốc hiện có 350 cơ sở, cung cấp một số lượng ổn
định hầu hết các loại cá nước ngọt truyền thống. Hàng năm, các cơ sở này
cung cấp trên 7,6 tỷ con cá giống, kịp thời vụ cho nuôi của cả nước. Tuy
nhiên, giá cá giống, đặc biệt là các loại cá đặc sản còn cao, chưa bảo đảm
chất lượng giống đúng yêu cầu và chưa được kiểm soát chặt chẽ. Hệ thống
sản xuất tôm giống (chủ yếu là tôm sú): mạng lưới sản xuất giống đã hình
thành ở hầu hết các tỉnh ven biển. Cả Nước hiện có 2669 trại tôm giống,
sản xuất khoảng 10 tỷ tôm giống P15, bước đầu đã đáp ứng được một
phần nhu cầu giống. Tuy nhiên, các cơ sở chưa có đủ công nghệ hoàn
chỉnh để sản xuất tôm giống sạch bệnh. Hệ thống sản xuất thức ăn : toàn
Quốc hiện có 40 cơ sở sản xuất thức ăn công nghiệp cho nuôi tôm sú với
tổng công suất 30.000 tấn/ năm. Thức ăn sản xuất, nhìn chung, chưa đáp
ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng, giá thành cao do chi phí đầu vào

chưa hợp lý. Một số mô hình nuôi bán thâm cạnh ( nuôi tôm), thâm canh
( nuôi cá lồng) còn phải nhập thức ăn nước ngoài, gây lãng phí ngoại tệ.
+ Dịch vụ hậu cần khai thác thuỷ sản:
- Cơ khí đóng sửa tàu thuyền: hiện có 702 cơ sở với năng lực đóng mới
4000 chiếc/ năm các loại tàu vỏ gỗ từ 400 CV trở xuống và các loại tàu vở
sắt từ 250 CV trở xuống; năng lực sửa chữa 8.000 chiếc/ năm. Công nghệ
đóng mới tàu thuyền trên cả nước chủ yếu là đóng tàu vỏ gỗ, đóng mới vỏ
sắt rất hạn chế, chỉ tập trung ở hai xí nghiệp là cơ khí Hạ Long và cơ khí


Nhà Bè. Sự phân bổ các cơ sở trong cả nước theo vùng lãnh thổ là: Miền
Bắc có 7 cơ sở, Bắc Trung bộ có 145 cơ sở, Nam Trung bộ có 385 cơ sở,
Đông nam bộ có 95 cơ sở, Tây Nam bộ có 70 cơ sở.
- Cơ sở bến cảng cá: tính đến năm 2000 số bến cảng cá đã và đang xây
dựng có 70 cảng, trong đó 54 cảng thuộc vùng ven biển, 16 cảng trên tuyến
đảo. Tổng chiều dài bến cảng là 4146 m. Số bến cảng cá đã đưa vào sử
dụng là 48 cảng. Hệ thống hạ tầng dịch vụ như cung cấp nguyên liệu, nước
đá bảo quản, nước sinh hoạt, dịch vụ sửa chữa tàu thuyền đều được xây
dựng trên cảng. Một số cảng còn bố trí kho tàng bảo quản, nhà máy chế
biến. Tuy nhiên, tổng thể hệ thống cảng cá chưa được hoàn thiện. Số cảng
cá hiện có chủ yếu chỉ đảm bảo đáp ứng nhu cầu neo đậu của tàu thuyền,
chưa tạo được các cụm cảng cá trung tâm cho từng vùng, đặc biệt chưa có
cơ sở tránh, trú bão, các cơ sở cứu nạn cho tàu thuyền.
- Dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu, thiết bị, hệ thống tiêu thụ sản phẩm: Cơ
sở sản xuất lưới sợi, bao bì hiện có 4 xí nghiệp sản xuất với năng lực sản
xuất lưới sợi 2000 tấn/ năm, 7400 tấn/ năm dịch vụ vật tư. Dịch vụ cung cấp
nguyên liệu và nước đá bảo quản tuy chưa có hệ thống cung cấp với quy
mô lớn nhưng năng lực phục vụ tương đối tốt. Riêng việc cung cấp phụ
tùng máy tàu, dụng cụ hàng hải chưa được quản lý theo hệ thống. Hệ thống
mua bán và tiêu thụ sản phẩm từ người sản xuất đến người tiêu dùng được

chia theo ba hệ thống là:
. Hệ thống nhà máy chế biến xuất khẩu hiện có 260 nhà máy với công suất
1000 tấn/ ngày;
. Hệ thống nậu vựa đã được hình thành hầu khắp trên các tỉnh có nghề cá,
quy mô và hình thức rất đa dạng và phong phú, đây là hệ thống chủ lực trên
thương trường nghề cá, vừa thực hiện mua bán, chế biến và tiêu thụ;


×