Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Lịch Sử Mở Rộng Lãnh Thổ Của Người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.88 KB, 8 trang )

Lch S M R ng Lãnh Th C a Ng i Vi t ị ử ở ộ ổ ủ ườ ệ
Thời Hồng Bàng Một số sử liệu cho rằng vào đầu thời kỳ Hồng Bàng, bộ tộc Việt có lãnh thổ rộng
lớn từ phía nam sông Dương Tử đến vùng Thanh Hóa.
Bản đồ cho thấy lãnh thổ Việt Nam bao gồm sông Dương Tử đến Thanh Hoá (hình trên)
1
Sau này nhà nước Văn Lang của bộ tộc Lạc Việt hình thành trên vùng đồng bằng sông
Hồng, đồng bằng sông Mã và đồng bằng Sông Lam ,rồi đến thời kỳ Âu LạcThục Phán sau
khi chiếm được Văn Lang đã sát nhập vào đất của mình, nước Âu Lạc có lãnh thổ từ phía
nam sông Tả Giang (Quảng Tây-Trung Quốc) kéo xuống dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh)
Thời Bắc thuộcLãnh thổ của dân tộc Việt thời kỳ này, trong sự cai quản của chính quyền
trung ương các triều đại Trung Hoa, tiến về phía nam đến vùng Hà Tĩnh hiện nay, thỉnh
thoảng các quan cai trị Giao Chỉ (hoặc Giao Châu) tiến xuống phía nam đánh Chiêm Thành
và đưa thêm vùng đất từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân vào cai trị nhưng không giữ được lâu
vì sau đó Chiêm Thành thường lấy lại được. Ranh giới lãnh thổ về phía nam đôi khi được
nhắc trong sử liệu là một cột mốc bằng đồng dựng lên bởi Mã Viện sau khi chinh phạt sự nổi
dậy của Hai Bà Trưng, còn gọi là cột đồng Mã Viện.
Thời kỳ lãnh thổ Việt Nam còn là một tỉnh của Trung Quốc (hình trên)
Thời phong kiến tự chủ: nhà Ngô-Đinh-Tiền Lê Sau khi giành độc lập từ Trung Quốc,
trong thời đại Ngô-Đinh-Tiền Lê kéo dài 70 năm (939-1009) lãnh thổ của Việt Nam tương
ứng với lãnh thổ nhà nước Văn Lang cũ. Ranh giới phía nam tại dãy Hoành Sơn (Hà Tĩnh)
2
Quá Trình Mở Rộng Lãnh Thổ Về Phía Nam
Đánh Chiêm Thành
Nhà Lý-Trần-Hồ Đây là thời kỳ thường xuyên có các cuộc giao tranh giữa Đại Việt với
Chiêm Thành ở phía nam. Phần thắng thường thuộc về Đại Việt, vốn là nước mạnh
hơn.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh mang 10 vạn quân vào đánh Chiêm Thành, bắt
được vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Củ. Chế Củ buộc phải dâng đất của ba châu Bố
Chính, Địa Lý và Ma Linh cầu hòa. Vua Lý Thánh Tông đặt tên cho vùng đất mới này là trại
Tân Bình, lãnh thổ Đại Việt thêm vùng đất này, nay là Quảng Bình và bắc Quảng Trị.
Năm 1306, thuộc vào một giai đoạn Chiêm Thành và Đại Việt có mối giao hảo tốt đẹp, nhà


Trần gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành bấy giờ là Chế Mân. Đổi lại Chế Mân
3
dâng đất cho Đại Việt gồm Châu Ô và Châu Rí. Các vùng đất này được vua Trần Anh Tông
đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, nay thuộc vùng nam Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế,
lãnh thổ Đại Việt phía nam tới đèo Hải Vân.Những năm đầu thời kỳ nhà Hồ, từ 1400 đến
1403, nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã mở mang được lãnh thổ từ đèo
Hải Vân tới bắc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Tuy nhiên phần lãnh thổ này bị Chiêm Thành
lấy lại sau khi nhà Hồ sụp đổ (1407)
Nhà Hậu Lê
Trong thời kỳ đầu nhà Hậu Lê, Chiêm Thành và Đại Việt quan hệ tương đối giao hảo.Đến
năm 1470 quan hệ giữa Đại Việt và Chiêm Thành căng thẳng, vua Lê Thánh Tông thân
chinh cầm 20 vạn quân đánh Chiêm Thành. Năm 1471, quân Đại Việt phá tan kinh đô Đồ
Bàn (thuộc Bình Định ngày nay), tiêu diệt vua Trà Toàn cùng 7 vạn quân Chiêm Thành, và
sát nhập miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân đến bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt,
đặt tên vùng đất mới là thừa tuyên Quảng Nam. Lãnh thổ của Đại Việt được kéo về phía
nam đến núi Thạch Bi, nay thuộc Phú Yên. Lê Thánh Tông có khắc chữ vào vách đá trên
đỉnh núi, ghi công mở đất và phân định ranh giới. Chữ ấy nay vẫn còn, nhưng nét chữ lờ mờ
sứt mẻ, không thể trông rõ được.
mở rộng lãnh thổ thời lê việt nam mang quân chinh phạt
Mở rộng lãnh thổ
Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước bị tàn phá qua
nhiều năm chiến tranh nên nhưng mối quan tâm về mở mang lãnh thổ chưa được ông chú
trọng, kể cả phủ Thăng Hoa (tỉnh Quảng Nam ngày nay) do Hồ Hán Thương chiếm được
của của Champa vào năm 1405. phủ Thăng Hoa đã bị Champa thu hồi lại trong thời kỳ Đại
Việt bị nhà Minh đô hộ
Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, nằm trong lãnh thổ Đại Việt từ Lạng Sơn đến đèo Hải
Vân. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân.
Sang thời Lê Thánh Tông, vua tiến hành một loạt cải cách đưa Đại Việt bước vào thời kỳ
phát triển thịnh trị được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam.
Chính nhờ vào quân đội hùng mạnh của mình, vua Lê Thánh Tông tiến hành chinh phạt các

vương quốc xung quang mở mang lãnh thổ và được cống nạp. Năm 1471, ông thân chinh
đưa 20 vạn đại binh chia làm 2 đường thủy bộ vượt đèo Hải Vân tiến vào đất Chiêm Thành.
Kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành bị thất thủ, vua và 7 vạn binh lính Chiêm Thành bị tiêu
diệt, nước Chiêm Thành hoàn toàn sụp đổ. Lê Thánh Tông sát nhập miền Bắc của Chiêm
Thành (từ đèo Hải Vân - Đà Nẵng đến đèo Cù Mông - Phú Yên) vào đất Đại Việt và đặt tên
là thừa tuyên Quảng Nam, thừa tuyên cuối cùng trong 13 thừa tuyên của Đại Việt. Năm
1479 quân Đại Việt tây tiến qua đường Nghệ An và thu phục tiểu vương quốc Bồn Man
(lãnh thổ gồm miền tây Nghệ An, Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phan (Lào) và tỉnh Sơn La ngày
nay). Lê Thánh Tông đã đặt vùng đất mới này là xứ Trấn Ninh.
thì ra ngày xưa việt nam cũng đi xâm chiếm các nước anh em
Các chúa Nguyễn (Đàng Trong)
Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của chúa Trịnh từ phương
bắc và nhu cầu mở rộng đất đai về phương nam, các chúa Nguyễn đã bắt đầu một công cuộc
mở mang bờ cõi Việt Nam về phía nam chưa từng thấy trong lịch sử.
4
Thời kỳ Đàng Trong Đàng Ngoài (hình trên)
Năm 1611, Nguyễn Hoàng cử Lương Văn Chánh đem quân vào đánh nước Chiêm Thành lấy
đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Hòa, nay thuộc Phú
Yên.
Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm nhằm đòi lại đất Phú Yên đã đưa quân sang
đánh chiếm. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà
Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm,
còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay
thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.
Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn
là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà
Tranh cùng thân thuộc về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận
Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, bắt đổi
y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành.Tuy nhiên, do sự kháng cự của
người Champa và cũng cần tập trung cho việc khai phá đất Nam bộ của Chân Lạp nên qua

năm 1695, chúa Nguyễn đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ
5

×