Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT và ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế GTGT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.16 KB, 16 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Luật thuế GTGT đã được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 (tháng
4/1997) thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. Đây là Luật thuế mới, lần
đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam với đối tượng điều chỉnh rộng và tác động
đến mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội. Thuế GTGT là một loại thuế hiện
đại đánh trên tiêu dùng và có nhiều ưu điểm so với thuế doanh thu, đặc biệt là
tác dụng loại trừ việc đánh thuế trùng qua các giai đoạn của quá trình sản xuất
và lưu thông hàng hóa. Cùng với việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp thay cho Luật thuế lợi tức, việc ban hành Luật thuế GTGT thay cho Luật
thuế doanh thu là một trong những nội dung cơ bản của cái cải thuế bước 2 với
mục tiêu tạo môi trường sản xuất kinh doanh công bằng, bình đẳng, thuận lợi,
phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập
quốc tế.
Qua hơn 7 năm thực hiện tại Việt Nam, đến nay Luật Thuế GTGT đã dần
đi vào đời sống và có những tác động tích cực đến tình hình kinh tế xã hội đất
nước ta cũng như góp phần đáng kể vào việc tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà
nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc áp dụng thuế GTGT
trên thực tế vẫn là một vấn đề khó và còn không ít những “kẽ hở” pháp luật dẫn
đến việc gian lận, trốn thuế của các đối tượng nộp thuế và các hành vi vi phạm
pháp luật khác.
Vì vậy, việc nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật về thuế
GTGT ở Việt Nam là một vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về thuế GTGT nói riêng trong
thời gian tới.
Bài viết dưới đây tìm hiểu về “Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT
và ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật
thuế GTGT”.
2




NỘI DUNG
I. Khái quát về thuế giá trị gia tăng
1. Định nghĩa thuế giá trị gia tăng
So với nhiều sắc thuế khác, thuế GTGT có lịch sử phát triển không dài nhưng
loại thuế này đã trải qua một quá trình phát triển mạnh mẽ. Với những hình thức
phong phúm thuế GTGT là một phần quan trọng của hệ thống tài chính của nhiều
nước trên thế giới, nó là loại thuế đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hóa và dịch vụ.
Điều 2, Luật thuế GTGT năm 2008 quy định : “Thuế giá trị gia tăng là thuế thu
trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.
Là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người chịu
thuế đã sử dụng để mua bán hàng hóa, nhận dịch vụ. Như vậy, xét về bản chất, thuế
GTGT là một loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là
người nộp thuế nhưng người tiêu dùng thực chất lại là người chịu thuế thông qua giá
cả hàng hóa dịch vụ. Điều này giúp cho các cơ quan quản lí, thu thuế giá trị gia tăng
tránh được sự phản ánh gay gắt về thuế. Bên cạnh đó, thuế GTGT cũng có thể ảnh
hưởng tới sức mua của công chúng do phần thuế này đã được cấu thành trong giá bán
hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng.
2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng.
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng trong xã
hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều phải
chi trả thu nhập của mình để hưởng thụ kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền
kinh tế xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế,
chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng. Chính đặc điểm này
có ý nghĩa quan trọng tới sự tác động của pháp luật thuế giá trị gia tăng đối với đời
sống kinh tế, xã hội. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể
hiện rõ nét sự công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của nhà nước đối với các
loại tiêu dùng trong xã hội.

Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ.
Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị gia tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá
trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu
thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của
thuế GTGT còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức phù
hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị gia tăng thêm làm căn cứ tính
thuế.
Thứ ba, nếu dựa trên giá trị mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế giá trị
gia tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau.
Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa ở trong nước,
khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp
chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh
toán tính đến khi người tiêu dùng hưởng thụ hàng hóa dịch vụ đã được xác định trước
và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng
số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tồng giá trị
hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu
3


việt của thuế GTGT so với cá loại thuế hàng hóa dịch vụ thông thường mà Việt Nam
và nhiều quốc gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây.
Từ những đặc điểm trên có thể thấy, ưu điểm cơ bản nhất của thuế GTGT là
khắc phục được những nhược điểm của thuế doanh thu như: tránh được việc đánh thuế
trùng lắp bằng cơ chế khấu trừ thuế đầu vào, khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp
cùng tham gia hoạt động xuất khẩu bằng cơ chế hoàn thuế GTGT, đem lại số thu
tương đối lớn cho ngân sách nhà nước do phàm vi điều tiết của thuế GTGT rộng, cho
phép chống trốn lậu thuế hiệu quả, tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau về thuế giữa các đơn
vị có liên quan trong cung ứng hàng hóa dịch vụ vì việc khấu trừ thuế được thực hiện
trên cơ sở hóa đơn GTGT.
3. Nội dung cơ bản của thuế giá trị gia tăng

Nội dung chủ yếu của pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam được xem xét dưới các
bộ phận cụ thể như sau: phạm vi áp dụng thuế GTGT, căn cứ tính thuế GTGT, các quy
định về phương pháp tính thuế GTGT, các quy định về ưu đã, miễn giảm thuế GTGT
và cuối cùng là các quy định về kê khai, nộp thuế.
3.1. Phạm vi áp dụng thuế GTGT
Theo quy định tại Điều 3, Luật thuế GTGT thì đối tượng nộp thuế GTGT là các
chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế và các tổ chức, cá nhân nhập
khẩu hàng hóa chịu thuế. Việc xác định chủ thể nộp thuế GTGT là nhằm giới hạn
những đối tượng thuộc diện điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT. Điều này cũng có
nghĩa những đối tượng không đáp ứng được đầy đủ điều kiện là đối tượng nộp thuế
GTGT thì đương nhiên nằm ngoài sự điều chỉnh của quan hệ pháp luật này.
Điều kiện thứ nhất, đối tượng nộp thuế GTGT phải có hành vi kinh doanh. Các
chủ thể này phải có hoạt động sản xuất kinh doanh các hàng hóa dịch vụ chịu thuế
GTGT hoặc có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT, ngoài ra các
chủ thể kinh doanh này phải có các hành vi kinh doanh được pháp luật công nhận.
Theo quy định của Luật thuế GTGT hàng hóa, dịch vụ được xác định là đối
tượng chịu thuế GTGT bao gồm:
- Hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, tiêu dùng trong nước không phân biệt hình
thức tiêu dùng.
- Hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu để tiêu dùng trong nước. Việc đánh thuế GTGT
đối với hoạt động nhập khẩu tạo ra sự bình đẳng giữa hàng hóa dịch vụ được tạo ra
trong nước và hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, mặc dù trong những chừng mực nhất định
có thể gây ra khó khăn cho nhà nhập khẩu.
Điều kiện thứ hai để xác định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa dịch vụ
này phải có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam. Pháp luật thuế GTGT ở
Việt Nam quy định phần giá trị gia tăng đối với hàng hóa dịch vụ cơ bản như sau:
- Đối với hàng hóa dịch vụ tạo ra trong nước, phần giá trị gia tăng là chênh lệch
giữa giá trị bán ra với giá trị mua vào tương ứng của lượng hàng hóa dịch vụ đã cung
cấp.
- Đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, phần giá trị tăng thêm là toàn bộ giá trị

nhập khẩu của hàng hóa.
3.2. Căn cứ tính thuế
* Thứ nhất, về giá tính thuế GTGT

4


Được xác định theo hai cách. Thứ nhất, giá tính thuế là giá đã bao gồm thuế
GTGT; thứ hai, giá tính thuế GTGT là giá chưa bao gồm thuế GTGT, cách tính này
được áp dụng hầu hết ở các nước và cũng là sự lựa chọn của Việt Nam khi xác định
giá tính thuế GTGT.
Đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu và các loại
thuế áp dụng đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu nhưng chưa có thuế GTGT.
Đối với hoạt động sản xuất hàng hóa ở dưới dạng đặc thù như cho thuê tài sản,
gia công hàng hóa, xây dựng....tùy theo từng trường hợp, pháp luật quy định chi tiết về
giá tính thuế GTGT.
* Thứ hai, về thuế suất
Đối với việc quy định thuế suất thuế GTGT phải đáp ứng được những mục tiêu
sau:
- Mức thuế suất được ban hành phải đảm bảo tỷ lệ động viên, tạo nguồn thu ổn
định cho ngân sách nhà nước.
- Vì thuế GTGT là thuế tiêu dùng nên thuế suất phải đảm bảo khả năng định
hướng tiêu dùng trong dân cư.
- Thông qua thuế suất Nhà nước thực hiện một số chính sách khuyến khích,
thay đổi cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế.
3.3. Phương pháp tính thuế GTGT
* Phương pháp khấu trừ thuế
“Khấu trừ thuế là một trong những nội dung đặc trưng của phương pháp tính
thuế GTGT” . Tính thuế theo phương pháp này là số thuế GTGT phải nộp được tính
trên cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Trong đó:

Thuế GTGT đầu ra là số thuế xuất hiện ở khâu bán ra, chủ thể nôp thuế đã xác
định và tính trong giá bán cho người nhận hàng hóa dịch vụ. Phần thuế này được tính
trên toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Tại Khoản 1 Điều 9
Luật Thuế GTGT quy định thuế đầu ra được tính bằng giá tính thuế hàng hóa, dịch vụ
đầu ra nhân với thuế suất thuế GTGT.
- Giá tính thuế là gái bán chưa có thuế GTGT theo quy định của pháp luật
- Thuế suất được quy định rõ cho từng loại ngành nghề kinh doanh, từng chủng
loại hàng hóa, dịch vụ.
- Thuế GTGT ở khâu bán ra được xác định trên chứng từ hóa đơn hợp lệ của
chủ thể nộp thuế. Trường hợp chứng từ không phản ánh số thuế GTGT hoặc chỉ ghi
nhận giá thanh toán hàng hóa dịch vụ cũng được điều chỉnh cụ thể trong Luật.
Để áp dụng được phương pháp khấu trừ thuế, cần phải có những điều kiện luật
định như sau:
- Chủ thể nôp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch
toán kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo quy định hiện hành.
- Đăng ký thuế, đã được cơ quan thuế cấp mã số thuế theo đúng trình tự luật
định.
- Đăng ký với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ.
* Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm

5


Phương pháp trừ trực tiếp là phương pháp tính thuế mà theo đó “Số thuế phải
nộp bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ nhân với thuế suất thuế GTGT”
Để có được phần “giá trị tăng thêm”, pháp luật quy định GTGT “bằng giá
thanh toán của hàng hóa dịch vụ bán ra, trừ đi giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ
mua vào tương ứng”. Như vậy, nếu phương pháp khấu trừ thuế xác định trực tiếp theo
hiệu số thuế thì phương pháp tính trực tiếp xác định theo hiệu số kết quả kinh doanh

của chủ thể nộp thuế.
Thuế suất thuế GTGT được áp dụng phù hợp với ngành nghề kinh doanh, hàng
hóa dịch vụ mà chủ thể nộp thuế cung cấp.
3.4. Quy định về đăng ký, kê khai nôp thuế và quyết toán thuế, hoàn thuế GTGT
Về tổ chức đăng ký thuế, pháp luật thuế GTGT quy định các chủ thể đăng ký
thuế được cơ quan quản lý thuế chấp nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký
thuế và thông báo mã số thuế cho chủ thể nộp thuế. Mã số thuế được cấp duy nhất cho
một chủ thể nộp thuế và sử dụng suốt quá trình tồn tại của chủ thể nộp thuế.
Về quản lý giám sát quá trình nộp thuế: việc quản lý và giám sát quá trình kê
khai thu nộp thuế đối với thuế GTGT phân chia làm hai loại do đặc thù của đối tượng
chịu thuế. Đó là việc quản lý kê khai, nộp thuế với hoạt động kinh doanh thông thường
và hoạt động quản lý kê khai, thu nộp thuế đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Bên
cạnh việc quản lý thu nộp và kê khai thuế GTGT, chứng từ hóa đơn cũng là một nội
dung quan trọng của việc quản lý thuế GTGT. Theo Luật thuế GTGT, chứng từ hóa
đơn chính là chứng cứ xác định nghĩa vụ thực tế mà chủ thể nộp thuế phải thực hiện
đối với nhà nước.
Về hoàn thuế GTGT: hoàn thuế GTGT là việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại
số tiền thuế GTGT đã nộp vượt quá của chủ thể nộp thuế. Theo quy định của pháp
luật, hoàn thuế áp dụng trong các trường hợp sau:
- Trường hợp thứ nhất, đối với chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh thông
thường, các đối tượng được hoàn thuế GTGT chỉ có thể là đối tượng nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ thuế. Nếu các đối tượng này có “3 tháng liên tục trở lên có
số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết”, thì được trả lại phần thuế đã nộp vượt quá.
- Trường hợp thứ hai, hoạt động xuất khẩu hàng hóa, do hưởng thuế suất 0%,
cơ sở có hàng suất khẩu có thể được hoàn thuế theo tháng khi thuế đầu vào của hàng
hóa, dịch vụ xuất khẩu chưa được khấu trừ hết trên 200 triệu đồng.
- Trường hợp thứ ba, đối với việc đầu tư dự án có giá trị lớn, thường phát sinh
số thuế đầu vào lớn, nếu đó là các dự án của chủ thể đã đăng ký thuế, chưa thực sự
kinh doanh, thời gian đầu tư trên 1 năm, được xét hoàn thuế theo từng năm; nếu số
thuế đầu vào tương ứng trên 200 triệu, được xét hoàn thuế quý.

- Trường hợp thứ tư, hoàn thuế GTGT do thực hiện chính sách ưu đãi. Đối với
sự án sử dụng nguồn vốn ODA, hàng hóa mua bằng nguồn viện trợ nhân đạo, pháp
luật cho phép chủ dự án hoặc tổ chức cá nhân viện trợ nhân đạo được hoàn lại số thuế
GTGT đã trả tương ứng với hàng hóa, dịch vụ đã được cung cấp.
- Trường hợp thứ năm, quyết toán thuế khi chấm dứt hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp hoặc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp.
Việc hoàn thuế GTGT chỉ có thể thực hiện khi đối tượng nộp thuế nằm một
trong những trường hợp nêu trên và có hồ sơ hoàn thuế hợp lệ.

6


Ngoài các nội dung trên, Luật thuế GTGT còn đề cập đến công tác quyết toán,
kiểm toán thuế GTGT.
II. Thực tiễn áp dụng pháp luật Thuế GTGT
Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam tuy ra đời muộn và còn khá mới mẻ so với
các loại thuế khác, nhưng về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về lý luận của pháp luật
thuế GTGT cả cấu trúc bên trong lẫn biểu hiện bên ngoài. Nhìn chung, kể từ ngày
được ban hành và có hiệu lực thì pháp luật thuế GTGT đã đạt được một số thành tựu
đáng kể, đã có những ưu điểm vượt trội tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng luật
thuế này. Tuy vậy trong các quy định cụ thể của pháp luật thuế GTGT thì vẫn còn
những hạn chế nhất định cần được hoàn thiện hơn.
1. Ưu điểm
Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT đã thể hiện thái độ của nhà nước đối với tính
trung lập của thuế. Điều này được thể hiện ở chỗ những quy định của pháp luật thuế
GTGT đã tạo ra sự công bằng và bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế với nhau. Các
nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế đã được phân chia một cách hợp lý và chịu mức
thuế suất như nhau giữa các hàng hóa, dịch vụ có cùng mục đích sử dụng. Pháp luật
thuế GTGT đã giải quyết việc cân bằng mức thuế suất của các loại hàng hóa, dịch vụ
tạo ra sự bình ổn trong hoạt động kinh tế xã hội, thể hiện được tính trung lập của thuế

GTGT.
Thứ hai, luật thuế GTGT đã đảm bảo ở mức độ nhất định nguyên tắc công
bằng và hiệu quả pháp luật của hệ thống pháp luật. Các quy định của pháp luật thuế
GTGT đã phần nào thể hiện rõ nét nguyên tắc công bằng, mà biểu hiện cụ thể thông
qua những quy định mang tính phổ biến về đối tượng nộp thuế, cơ sở tính thuế. Tất cả
những chủ thể có đủ điều kiện ghi nhận theo luật thuế GTGT đều phải thực hiện nghĩa
vụ thuế đối với nhà nước cho dù họ là ai. Mặt khác pháp luật thuế cũng có nhiều quy
định tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng
cuối cùng như quy định những trường hợp hoàn thuế, quy định giá tính thuế có nhiều
ưu điểm nổi trội...
Thứ ba, hệ thống pháp luật thuế GTGT đã tạo ra cơ sở pháp lý hình thành
nguồn thu ổn định chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí.
Việc triển khai thực hiện luật thuế GTGT bảo đảm động viên số thu cho ngân sách nhà
nước không giảm hơn so với thuế doanh thu, không làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch
thu ngân sách nhà nước, đồng thời không gây biến động lớn về giá.
Thứ tư, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc thực hiện luật thuế GTGT
tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10%
vì toàn bộ thuế GTGT ở các công trình xây dựng cơ bản được hoạch toán riêng không
tính vào giá thành công trình, không phải khấu hao tài sản sau này được khấu trừ hoặc
hoàn thuế. Mặt khác, khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên
dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì
không thuộc diện chịu thuế GTGT.
Thứ năm, pháp luật thuế GTGT hiện hành mở rộng lưu thông hàng hóa và đẩy
mạnh xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp, cơ cấu lại nền kinh tế. Luật thuế
GTGT khuyến khích việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu thay vì luật thuế cũ khuyến
khích việc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu. Đặc biệt, luật thuế GTGT khuyến

7



khích việc sản xất kinh doanh những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như: nông
sản, lâm sản, thủ công mỹ nghệ.
Đặc biệt luật thuế GTGT đã bước đầu tác động đến công tác quản lý của doanh
nghiệp, tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy mua bán hàng hóa có hóa
đơn chứng từ ở các doanh nghiệp. Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hóa
đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế
đã giúp cho cơ quan chức năng của nhà nước và cơ quan thuế từng bước nắm được tốt
hơn thình hình sản xuất kinh doanh cũng như tăng cường kiểm tra giám sát đối với các
doanh nghiệp.
2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế GTGT hiện hành còn bộc lộ một
số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới:
Thứ nhất, về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Luật thuế GTGT
hiện hành quy định 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Quy định này
là phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua, tuy nhiên trong quá trình
thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số hàng
hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT sẽ không còn phù hợp do
không đảm bảo tính liên hoàn trong việc khấu trừ thuế đầu vào, đầu ra của doanh
nghiệp. Do đó, cần rà soát để chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên
hoàn của thuế GTGT và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó
cũng cần bổ sung cụ thể hoá các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật,
như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua,
bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển
nhượng vốn để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện và phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Thứ hai, về thuế suất thuế GTGT. Năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT,
ngoài thuế suất 0%, còn có 3 mức thuế suất: 5%, 10 % và 20%. Từ ngày 1 tháng 4 năm
2004; áp dụng Luật sửa đổi bổ sung: bỏ thuế suất 20%, chỉ còn 2 thuế 5% và 10%.
Trong đó 5 % là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu

vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện, trước những khó khăn của nền kinh tế, diện áp dụng
mức thuế suất 5% cũng được mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đó
dẫn đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất
này không những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách nhà nước .
Mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất 5% và 10% chưa rõ
ràng: vừa theo tên hàng hoá, dịch vụ, vừa theo công dụng hàng hoá, dịch vụ, vừa theo
tính chất của hàng hoá, dịch vụ, dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất,
nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Ví dụ: sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí
là tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí
không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
Mức thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các hàng hóa, dịch vụ thông thường
cho tiêu dùng là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều

8


khó khăn.
Thứ ba, về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế. Luật thuế GTGT hiện
hành quy định căn cứ khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào là hoá đơn GTGT mua hàng
hoá, dịch vụ. Thực tiễn quản lý thuế thời gian qua cho thấy quy định nêu trên chưa đầy
đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc
sử dụng hoá đơn ghi chép không trung thực với thực tế giao dịch và các loại hoá đơn
bất hợp pháp khác để gian lận trong khấu trừ, làm giảm số thuế GTGT phải nộp hoặc
tăng số thuế GTGT được hoàn khống rút tiền ngân sách, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ
thuế giữa các đối tượng nộp thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Trong thời gian
vừa qua đã xuất hiện một loại tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua, bán, sử dụng hoá
đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế GTGT của Nhà nước như một số đối tượng
đã lợi dụng sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp và quy định về điều kiện được

khấu trừ thuế, được hoàn thuế nêu trên để thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích
mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính
Thứ tư, hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. Ở nước ta thực hiện
thuế GTGT đã đáp ứng hai phương pháp tính thuế cả hai loại hoá đơn, áp dụng
phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện hạch
toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp thêm GTGT cả sử dụng hoá đơn thông
thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng thời hai cách tính thuế
GTGT và hai loại hoá đơn trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết,
song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các
hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế không
được khấu trừ đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của các đơn vị tính thuế theo
phương pháp trực tiếp, gây mất công bằng trong các thành phần kinh tế, hoặc nảy ra
tình trạng chống thuế. Ngoài ra, những bất cập trong kế toán thuế GTGT, trong chế độ
hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường... cũng gây nhiều khó
khăn cho công tác thu của ngành thuế và cho các hộ kinh doanh nhỏ.
Thứ năm, về hình thức văn bản. Thuế GTGT được thể hiện tại 3 văn bản Luật
khác nhau là Luật thuế GTGT năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế GTGT năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc
biệt và Luật thuế GTGT năm 2005. Mặt khác, năm 2006, Luật Quản lý thuế (đã được
Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ 01/7/2007) đã quy định các nội dung về quản lý
thuế như đăng ký, kê khai, nộp thuế, xử lý vi phạm để thay thế cho các quy định về
quản lý thuế trong các luật, pháp lệnh thuế đã được ban hành trước đây, trong đó có
Luật thuế GTGT. Với nhiều văn bản Luật cùng quy định về thuế GTGT nên chưa tạo
thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật.
III. Hướng hoàn thiện
1. Về thuế suất
Theo quy định hiện hành, thuế GTGT hiện nay có 3 mức thuế suất; 0%, 5% và
10%. Quy định các mức thuế suất khác nhau ảnh hưởng lớn đến tính công bằng và
hiệu quả của thuế GTGT. Với các mức thuế suất khác nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất và
giá thành các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau sẽ

khác nhau một cách tương đối. Do vậy, mà cần phải chú ý một số khía cạnh sau:

9


Thứ nhất, quy định thống nhất một mức thuế suất chuẩn đối với hàng hóa, dịch
vụ tiêu dùng trong nước. Việc quy định thống nhất một mức thuế suất chuẩn đối với
hàng hóa dịch vụ tiêu dùng trong nước sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu sau:
- Đảm bảo tính công bằng, hiệu quả của chính sách thuế nhằm góp phần tạo
môi trường đầu tư công bằng, bình đẳng khuyến khích các hoạt động sản xuất, kinh
doanh phát triển; xóa bỏ phân biệt đối xử về thuế suất giữa các loại hàng hóa sản xuất
trong nước và nhập khẩu, giữa các loại hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước với
nhau.
- Đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo sự bình đằng và tránh những bất
lợi trong điều kiện cạnh tranh quốc tế hiện nay.
- Đảm bảo mục tiêu bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước trong điều kiện
thực hiện các cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình đã ký kết với các nước,
đối tác trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, duy trì và mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu
và hàng hóa, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế.
Thứ ba, cần xóa bỏ phân biệt đối xử về thuế suất GTGT đối với hàng hóa,
nguyên, nhiên, vật liệu sản xuất trong nước và nguyên liệu nhập khẩu.
2. Về phương pháp tính thuế
Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hai phương pháp tính thuế GTGT là: phương
pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Phương pháp khấu trừ thường được áp dụng
cho các doanh nghiệp lớn, thực hiện chế độ hạch toán kế toán và hóa đơn chứng từ
đúng theo chế độ quy định. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phương pháp tính
thuế trực tiếp được áp dụng theo tỷ lệ trên GTGT được tao ra bởi doanh nghiệp. Tuy
nhiên, đối với các doanh nghiệp này, việc xác định GTGT tạo ra bởi doanh nghiệp
thường gặp nhiều khó khăn do họ không thực hiện chế độ kế toán và hóa đơn chứng

từ. Do đó, dẫn đến thực tế quy định tỷ lệ GTGT trên doanh thu, trong một phạm vi ý
nghĩa nhất định, thuế GTGT đã trở thành thuế doanh thu. Vì vậy, cần có những điều
chỉnh trong các phương pháp tính thuế như sau:
Thứ nhất, cải tiến và đi đến thống nhất sử dụng một phương pháp tính thuế
khấu trừ đối với các doanh nghiệp có quy mô phù hợp (doanh nghiệp lớn và vừa).
Theo khuyến cáo của các chuyên gia quốc tế (IMF), Việt Nam chỉ nên áp dụng một
phương pháp tính thuế khấu trừ đối với các doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ kế
toán, hóa đơn, chứng từ. Điều này hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tính nhất quán,
chính xác và phù hợp với thông lệ quốc tế trong xác định nghĩa vụ thuế phải nộp của
các đối tượng.
Thứ hai, nghiên cứu áp dụng chế độ thuế phù hợp đối với các doanh nghiệp
nhỏ. Hiện nay, bên cạnh thuế môn bài, lệ phí trước bạ, các doanh nghiệp nhỏ còn chịu
các loại thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập doanh nghiệp. Trên thực
tế, các doanh nghiệp này thường không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy
định về chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ. Do đó, việc xác định thuế đối với các đối
tượng này thường chủ yếu dựa trên ước tính hoặc khoán. So với các nước, hệ thống
thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ ở nước ta tương đối phức tạp, kém hiệu quả, gây
khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện cũng như chi phí lớn cả phía cơ quan
thuế và người nộp thuế. Trong thời gian tới cần nghiên cứu cơ chế xem xét việc quy

10


định thống nhất một loại thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ (chẳng hạn như thuế
doanh nghiệp nhỏ tính trên doanh thu) để đảm bảo tính đơn giản, dễ triển khai thực
hiện và nâng cao tính công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế.
3. Về khấu trừ thuế
Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại phát sinh những vướng mắc như: Có nhiều
tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến
khích sử dụng hoá đơn chứng từ. Đối với hàng hoá nông, lâm, hải sản không cần hoá

đơn, chỉ cần bản kê dẫn tới có trường hợp cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh
buôn chuyến, người thu gom trốn thuế, các doanh nghiệp không lấy hoá đơn bán hàng,
tạo kẽ hở để cơ sở kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế. Các doanh
nghiệp mua nông, lâm, hải sản sau đó sơ chế bán hàng trong nước thì được khấu trừ
thuế nhưng nếu xuất khẩu lại không được trừ thuế đầu vào. Do đó, giải pháp cho vấn
đề này là: Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng
hoặc cung ứng dịch vụ bị huỷ bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc
trường hợp giảm giá, các khoản thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng từ hợp lệ.
4. Vấn đề hoàn thuế GTGT
Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên
tiến độ hoàn thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những
doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của
tình hình trên một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan
thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Trước tình hình đó, Bộ tài chính
đã có các văn bản bổ sung là hoàn thuế trước kiểm tra sau và phải xử lý nghiêm những
trường hợp vi phạm. Các văn bản này đề cao trách nhiệm và quyền lợi của các doanh
nghiệp, của người nộp thuế trong việc hoàn thuế GTGT.
Tuy nhiên vấn đề hoàn thuế vẫn còn nhiều bấp cập về thủ tục cũng như thời
gian hoàn thuế. Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin được
hoàn thuế cà tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.
5. Một số quy định khác
Cần có quy định cụ thể về thời điểm xác định nghĩa vụ thuế GTGT. Điều này có
ý nghĩa quan trọng vì trong một số trường hợp, thời điểm giao nhận hàng hóa, dịch vụ
và thời điểm thanh toán tiền bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ có thể khác nhau.
Nếu không có những quy định cụ thể về thời điểm xác định nghĩa vụ thuế GTGT sẽ
gây ra những khó khăn trong công tác quản lý thuế và tập trung nguồn thu thuế vào
ngân sách nhà nước.
Cần có quy định về địa điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Thực tế công tác quản
lý thuế cho thấy một số doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn có nhiều chi
nhánh hoạt động trong phạm vi toàn quốc, có sự hoán chuyển trong địa điểm cung cấp

hàng hóa, dịch vụ. Điều này tạo ra sự không thống nhất và thiếu đồng bộ trong công
tác quản lý thuế cũng như ảnh hưởng đến quá trình phân chia nguồn thu ngân sách
hoặc hoàn thuế giữa các địa phương. Do đó, trong quá trình sửa đổi, bổ sung quy định
pháp luật về thuế GTGT, cần quy định rõ ràng, cụ thể về địa điểm cung cấp hàng hóa,
dịch vụ để xác định nghĩa vụ thuế chính xác giữa các tổ chức, chi nhánh trong cùng
một doanh nghiệp hoặc giữa các địa phương khác nhau.

11


Tiếp đó, cần có quy định cụ thể về tính thuế GTGT đối với hàng hóa của doanh
nghiệp sản xuất dùng để trả lương, tiêu dùng vào hoạt động không chịu thuế và làm
quà tặng. Đây là những vấn đề thực tế phát sinh trong công tác quản lý thuế ở nước ta
trong thời gian qua nhưng chưa có quy định thống nhất, cụ thể trong quy định pháp lý
dẫn đến sự không thống nhất trong xử lý thuế giữa các địa phương. Do đó, trong thời
gian tới cần nghiên cứu và có quy định cụ thể về các vấn đề nói trên để đảm bảo xây
dựng chính sách thuế GTGT đồng bộ và được thực hiện thống nhất trong phạm vi toàn
quốc.
6. Về quản lý thu thuế
Cùng với việc thiết kế và xây dựng chính sách thuế GTGT đơn giản và khả thi,
cần tăng cường công tác quản lý thuế để đảm bảo đưa chính sách thuế vào thực tiễn và
phát huy hiệu quả của chúng đối với nền sản xuất xã hội, trong đó tập trung vào các
vấn đề sau:
- Quy định thống nhất cơ quan hải quan tổ chức quản lý thu thuế GTGT đối với
hàng nhập khẩu cùng với thuế nhập khẩu; cơ quan thuế tổ chức quản lý thu thuế
GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước nhằm đảm bảo tính công khai,
minh bạch và rõ ràng trong trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý thu thuế.
- Tăng cường tính minh bạch, công khai của quy trình quản lý thuế GTGT, quy
định thống nhất trong Luật quản lý thuế; đẩy mạnh công tác thông tin; tuyên truyền,
giáo dục kiến thức chung về pháp luật thuế đến mọi đối tượng trong xã hội nhằm nâng

cao nhận thức của các tầng lớp dân cư trong xã hội về nghĩa vụ nộp thuế, từng bước
cải thiện tính tuân thủ pháp luật về thuế của các đối tượng.
- Tăng cường và hợp lý hóa quy trình quản lý hóa đơn, sổ sách, chứng từ kế
toán. Cải cách chế độ kế toán, thông tin báo cáo, hóa đơn chứng từ cho phù hợp với
từng loại hình doanh nghiệp và đối tượng nộp thuế nhằm đảm bảo rõ ràng, minh bạch
trong tính toán, xác định nghĩa vụ thuế và hoàn thuế để tránh những hiện tượng lợi
dụng kẽ hở pháp luật để trốn thuế hoặc chiếm dụng tiền hoàn thuế GTGT của Nhà
nước.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối tượng nộp thuế kết hợp
với tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng trong công
tác quản lý thuế nhằm đảm bảo thiết lập trật tự, kỷ cương trong quản lý thuế GTGT,
đặc biệt là khâu hoàn thuế GTGT.
- Khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ tư vấn thuế dưới cả hình thức Nhà
nước (do cơ quan thuế tổ chức) và tư nhân (do các doanh nghiệp tư vấn thuế tổ chức,
thực hiện) để đảm bảo nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế, đặc biệt là tiết
kiệm chi phí đối với người nộp thuế.
- Tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội
ngũ cán bộ thuế. Hiện nay, đại bộ phận đội ngũ cán bộ thuế chưa có kỹ năng chuyên
nghiệp, chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, khả năng
ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý thuế chưa phù hợp với yêu cầu cải cách hành
chính thuế. Thái độ và phong cách ứng xử của một bộ phận cán bộ thuế chưa thật sự
tận tụy, công tâm, chưa coi đối tượng nộp thuế là khách hàng để có thái độ, chất lượng
phục vụ tốt. Do đó, cần tổ chức lại và kiện toàn bộ máy cơ quan thiết kế hợp với tăng
cường đào tạo chuyên sâu về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ

12


thuế nhằm tạo ra cơ sở vững chắc về tổ chức bộ máy và con người để nâng cao hiệu
quả công tác quản lý thu thuế.


13


KẾT LUẬN
Mục tiêu tổng quát khi xây dựng chiến lược cải cách hệ thống thuế đó là
xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hóa công tác quản lý thuế nhằm
đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo nguồn lực tài chính
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; góp phần thực hiện
bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế. Do đó việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế nói chung và hệ thống pháp luật thuế GTGT
nói riêng là một yêu cầu tất yếu và để đạt được những mục tiêu đặt ra đối với
chiến lược cải cách hệ thống thuế thì còn rất nhiều việc phải làm.
Bài viết trên đã đưa ra được một số những ưu điểm, hạn chế của thực
trạng áp dụng pháp luật thuế GTGT ở nước ta, từ đó đã đưa ra một số giải pháp
nhằm khắc phục hạn chế đó.

14


Tài liệu tham khảo
1.

Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Thuế, Nxb. Công an nhân

dân, Hà Nội, 2009.
2.

Dự án Việt – Pháp về tăng cương năng lực đào tạo quản lý tài chính


công, học viện tài chính, Giáo trình luật tài chính, Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội,
2008.
3.

Luật Thuế Giá trị gia tăng.

4.

Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, thực trạng và hướng hoàn

thiện : Luận văn thạc sĩ luật học / Trần Thị Minh Hiền
.

15


16



×