Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Quyền được học tập của trẻ em và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.63 KB, 13 trang )

Lời nói đầu
Giáo dục là một trong những chính sách hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm, chú trọng. Bởi vì, "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện; có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 2 Luật giáo dục năm 2005). Với ý nghĩa
đó, trẻ em có quyền được tiếp cận một nền giáo dục cơ bản, có chất lượng để trở
thành công dân có đức, có tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và công nghệ mới phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quyền học tập là một quyền tối quan trọng, là loại quyền trong lĩnh vực văn
hóa và liên quan đến tất cả các quyền kinh tế, xã hội. Xét theo khía cạnh nào đó,
đây cũng là quyền dân sự và quyền chính trị bởi quyền giáo dục được xem là trung
tâm để thực thi một cách có hiệu quả tất cả các quyền trên.
Đây là một quyền đương nhiên mà em được hưởng, mọi trẻ em không phân
biệt điều kiện và hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội học tập, được tạo điều
kiện để ai cũng được học hành.
Song vẫn còn nhiều vấn đề cần có sự quan tâm của cả xã hội, của mỗi gia
đình trong việc chăm sóc, tạo điều kiệ cho trẻ em – những mầm non tương lai của
đất nước được học tập để trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Quyền được học tập của trẻ em và trách
nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện”
Trong quá trình tìm hiểu tư liệu chắc chắn không khỏi nhầm lẫn và thiếu sót.
Vì vậy em rất mong thày ( cô) thông cảm.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


I.


Một số lý luận về quyền trẻ em và quyền được học tập của trẻ em
1. Quyền trẻ em
Quyền con người nói chung và quyền trẻ em nói riêng ngày nay trở thành vấn

đề quan tâm của cộng đồng quốc tế. Trẻ em ở tất cả các nước trên thế giới vẫn còn
sống trong những điều kiện khó khăn và chúng cần được quan tâm đặc biệt.
Quyền trẻ em là tất cả những gì cần có để trẻ em được sống và phát triển
một cánh toàn diện, lành mạnh và an toàn .Về mặt bản chất quyền trẻ em là quyền
con người được cụ thể hóa cho phù hợp nhu cầu và đặc trưng phát triển và tính cách
cuộc sổng của trẻ em.
Trẻ em là chủ thể của hiện tại và là những người xây dựng tương lai. Đó là
những đối tượng dễ bị tổn thương và có ảnh hưởng lâu dài về cả mặt sức khỏa cũng
như tâm lí . Việc nghi nhận quyền trẻ em nhằm đảm bảo cho trể em không chỉ là đối
tượng tiếp thu thụ động với người lớn mà trở thành chủ thể có quyền, có khả năng
tạo dựng cuộc sống phù hợp dảm bảo lợi ích được phát triển một cách toàn diện của
trẻ em. Việc quy định quyền của trẻ em còn là cơ sở đề các nhà làm luật xây dựng
các biện pháp để đảm bảo việc trẻ em được hưởng đúng các quyền đó.
Trẻ em là người chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí tuệ, chưa có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự. Do đó, để trẻ em làm chủ các quyền phù hợp với đặc điểm
tâm sinh lý của trẻ em thì Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam
quy định các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em, trong đó lựa chọn 10 nhóm
quyền cơ bản nhất, đặc trưng nhất đối với trẻ em. Luật đã quy định trẻ em có 10
quyền cơ bản của trẻ em từ Điều 10 đến Điều 20 của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em năm 2004 bao gồm các quyền như sau : Quyền được khai sinh và có
quốc tịch ; Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng ;Quyền sống chung với cha mẹ ;
Quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự ; Quyền
được chăm sóc sức khoẻ ; Quyền được học tập;Quyền vui chơi, giải trí, hoạt động
văn hoá, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch ; Quyền được phát triển năng khiếu;
Quyền có tài sản; Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt
động xã hội.

2


2. Quyền được học tập của trẻ em
Giáo dục là một trong những chính sách hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm, chú trọng. Bởi vì, "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện; có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" (Điều 2 Luật giáo dục năm 2005). Với ý nghĩa đó, trẻ
em có quyền được tiếp cận một nền giáo dục cơ bản, có chất lượng để trở thành
công dân có đức, có tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và công nghệ mới phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo điều 59 hiến pháp năm 1992 qui định : “ học tập là quyền và nghĩa vụ của
công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học
văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được nhà nước
và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học
phí, học bổng, nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn khác được học văn hóa và học nghề phù hợp”
Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 xác định giáo dục tiểu học ở Việt Nam
là phổ cập bắt buộc và miễn phí. Phổ cập giáo dục tiểu học vừa là quyền, vừa là
nghĩa vụ của trẻ em. Điều 1 luật phổ cập giáo dục tiểu học còn xác định rõ: “ Nhà
nước thực hiện chính sách giáo dục tiểu học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 5 đối với tất
cả các trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi”. Như vậy, mọi trẻ em trong
độ tuổi qui định đều có quyền và nghĩa vụ học tập để đạt được trình độ giáo dục phổ
cập. Ngoài ra, khoản 3 điều 6 luật này còn qui định “ trẻ em có khả năng phát triển
đặc biệt thì được học lớp 1 trước 6 tuổi hoặc học vượt lớp nhằm tạo điều kiện bồi
dưỡng cho những học sinh có năng khiếu được phát triển tài năng”.
2.1.


Trẻ em có quyền được học tập

Quyền học tập là một quyền tối quan trọng, là loại quyền trong lĩnh vực văn
hóa và liên quan đến tất cả các quyền kinh tế, xã hội. Xét theo khía cạnh nào đó,
đây cũng là quyền dân sự và quyền chính trị bởi quyền giáo dục được xem là trung
tâm để thực thi một cách có hiệu quả tất cả các quyền trên.
3


Theo khoản 1 điều 20 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948
trong đó nêu rõ “ mọi người đều có quyền được học tập, giáo dục phải miễn phí, ít
nhát là các bậc tiểu học và trung học cơ sở. Giáo dục tiểu học phải là bắt buộc,
giáo dục kĩ thuật và dạy nghề phải mang tính phổ thông và giáo dục đại học hay
cao học phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có khả năng”. Như vậy,
quyền được học tập là một trong những quyền trẻ em được hưởng, được xã hội tạo
điều kiện để cho học tập.
Theo khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ
em có quyền được học tập”. Đây là một quyền đương nhiên mà em được hưởng,
mọi trẻ em không phân biệt điều kiện và hoàn cảnh đều được bình đẳng về cơ hội
học tập, được tạo điều kiện để ai cũng được học hành.
Ngoài trẻ em bình thường thì tất cả trẻ em khuyết tật, trẻ em bị HIV, trẻ em
có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em lang thang...cũng đều được học chương trình giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, chương trình học của các em sẽ được
điều chỉnh phù hợp, linh hoạt với từng trẻ em trên cơ sở động viên, khuyến khích
trẻ em học tập tích cực, hiệu quả. Trẻ em dân tộc thiểu số có quyền sử dụng tiếng
nói, chữ viết của dân tộc mình cùng Tiếng Việt để thực hiện phổ cập giáo dục bậc
tiểu học.
Theo thông tư về giáo dục hòa nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành, mọi trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được học tập
bình đẳng trong các cơ sở giáo dục quốc dân.

Bên cạnh những qui định cho các trường hợp chung, luật phổ cập giáo dục
tiểu học còn qui định các trường hợp điều kiện bảo đảm quyền được phổ cập giáo
dục tiểu học cho các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Trẻ em vì lý do sức khỏe vì hoàn
cảnh gia đình khó khăn đặc biệt hoặc ở vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng xa
xôi hẻo lánh, vùng hải đảo và vùng có khó khăn có thể được phổ cập giáo dục tiểu
học ở độ tuổi lớn hơn ( điều 6 và điều 8 luật phổ cập giáo dục). Nhà nước và xã hội
có trách nhiệm quan tâm , giúp đỡ, tạo điều kiện cần thiết để trẻ em là con em liệt
sĩ, thương binh nặng, trẻ em tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn đặc biệt đạt được trình độ giáo dục tiểu học.
4


Ngoài giáo dục tiểu học còn có các bậc học khác mà trẻ em cũng được quyền
tiếp cận như giáo dục mầm non , giáo dục phổ thông. Theo điều 28 luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em “ cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ
thông phải có điều kiện cần thiết về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy
học để bảo đảm chất lượng giáo dục”. “Nhà nước có chính sách phát triển giáo
dục mầm non, giáo dục phổ thông, chính sách miễn, giảm học phí, cấp học bổng,
trợ cấp xã hội để thể hiện công bằng xã hội trong giáo dục”. Ngay cả những trẻ
chưa thành niên vi phạm pháp luật, nhà nước ta cũng dành cho các em một sự giáo
dục đặc biệt thông qua các trường giáo dưỡng. Theo qui định tại điều 64 luật giáo
dục năm 2005, trường giáo dưỡng có nhiệm vụ giáo dục người chưa thành niên vi
phạm pháp luật để các đối tượng này rèn luyện phát triển lành mạnh.
Học tập để đạt trình độ phổ cập trung học cơ sở là quyền và nghĩa vụ của
công dân nói chung, trẻ em nói riêng.
Điều 11 luật giáo dục năm 2005 qui định cùng với giáo dục tiểu học , giáo
dục trung học cơ sở là cấp học phổ cập, nhà nước quyết định kế hoạch phổ cập giáo
dục, bảo đảm các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục trong cả nước.
Việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được Đảng và nghị quyết của Quốc
hội ban hành số 41/QH10 ngày 9/12/2000. Thực hiện chủ trương đó, Chính phủ đã

ban hành Nghị định số 88/ CP ngày 22/11/2001 về thực hiện phổ cập giáo dục trung
học cơ sở theo đó đối tượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở là thanh niên, thiếu
niên Việt Nam trong độ tuổi từ 11 đến hết 18 tuổi, đã tốt nghiệp tiểu học, chưa tốt
nghiệp trung học cơ sở. Mục tiêu của phổ cập giáo dục trung học cơ sở là bảo đảm
cho hầu hết thanh niên, thiếu niên sau khi tốt nghiệp tiểu học tiếp tục học để đạt
trình độ trung học cơ sở trước khi hết tuổi 18, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực,bồi đưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
2.2.Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải
trả học phí
Theo quy định của pháp luật, giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với
mọi trẻ em từ sáu tuổi đến mười bốn tuổi (từ lớp 1 đến lớp 5). Vì vậy " Mọi công
5


dân trong độ tuổi quy định có nghĩa vụ học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập"
(Khoản 2 Điều 11 Luật giáo dục năm 2005).
Trẻ em tại cơ sở giáo dục mầm non có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục theo mục tiêu, kế hoạch giáo dục mầm non của bộ giáo dục và đào tạo,
được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không không phải
trả tiền tại cơ sở y tế công lập, được giảm phí đối với các dịch vụ giải trí, công cộng
( điều 84 luật giáo dục năm 2005).
Khoản 2 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trẻ em
học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả học phí”.
Qui định trên thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cơ hội
và quyền học tập của mọi trẻ em, không phân biệt trẻ em gái hay trẻ em trai, trẻ em
sinh ra trong gia đình khá giả với trẻ em nghèo, trẻ em bình thường với trẻ em
khuyết tật, bị HIV, trẻ em lang thang...tất cả các em đều được đến trường học bậc
tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải trả phí. Đồng thời, đây là
chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các em để trẻ em nào cũng được đến

trường, được sự dạy dỗ của thày cô.
Chính vì vậy, pháp luật nước ta cũng nghiêm cấm hành vi cản trở việc học tập của
trẻ em. Thể hiện ở điều 10 NĐ số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/8/2005 qui định chi tiết
một số điều của luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 qui định những
hành vi bị coi là cản trở việc học tập của trẻ em.
1. Dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc sử dụng vật chất, uy quyền để ép buộc trẻ
em phải bỏ học, nghỉ học.
2. Dụ dỗ, lôi kéo trẻ em bỏ học, nghỉ học.
3. Bắt trẻ em bỏ học, nghỉ học để gây áp lực, khiếu kiện, biểu tình trái pháp luật.
4. Phá hoại cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập, giảng dạy trong các cơ sở giáo
dục.

6


5. Cố tình không thực hiện nghĩa vụ đóng góp theo quy định, không bảo đảm thời
gian, điều kiện học tập cho trẻ em.
II. Trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện
Bên cạnh việc qui định trực tiếp quyền được học tập của trẻ em, các văn bản
pháp luật của VIệt Nam cũng chú ý đến việc qui định các chính sách để bảo vệ
quyền đó nhất là trách nhiệm , nghĩa vụ của gia đình, nhà trường, các cơ quan nhà
nước và các tổ chức xã hội.
Hiến pháp năm 1992 đã đề cao trách nhiệm của gia đình, cha mẹ trong việc
giáo dục con cái “ cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con cái thành những người
công dân tốt” (điều 64). Điều 34 luật hôn nhân và gia đình 2000 cũng nêu rõ: “ cha
mẹ có nghiã vụ chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về
thể chất trí tuệ và đạo đức. Trong bậc tiểu học, điều 18 luật phổ cập giáo dục tiểu
học qui định trách nhiệm của cha mẹ người đỡ đầu của trẻ em là ghi tên cho con
hoặc trẻ em được đỡ đầu đi học tại trường, lớp tiểu học trên địa bàn cư trú nơi
thuận tiện nhất, tạo điều kiện để con hoặc trẻ em được đỡ đầu hoàn thành giáo dục

tiểu học, kết hợp với nhà trường, tổ chức xã hội trong việc giáo dục con cái hoặc
trẻ em được đỡ đầu thực hiện giáo dục gia đình theo những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc.
Với các bậc học khác, cha mẹ, người giám hộ cũng có trách nhiệm nuôi
dưỡng, chăm sóc, tạo điều kiện cho con em hoặc người được giám hộ được học
tập, rèn luyện , tham gia các hoạt động của nhà trường ( điều 94 luật giáo duc năm
2005).
Khoản 1 Điều 16 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Gia
đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập; học
hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao
hơn”.
Như vậy, trách nhiệm giáo dục trẻ em trước tiên thuộc về gia đình cụ thể là
cha mẹ, người giám hộ trong việc tạo điều kiện cho trẻ em thực hiện quyền học tập,
học hết chương trình giáo dục phổ cập và cho trẻ học ở trình độ cao hơn. Bởi vì, trẻ
em được sinh ra và nuôi dạy trong môi trường gia đình. Các thành viên trong gia
7


đình đều phải có trách nhiệm chăm sóc cho các em lớn khôn về mặt thể chất và trí
tuệ, đồng thời có trách nhiệm dạy bảo các em những điều tốt đẹp, đạo nghĩa giáo
dục các em biết quan tâm, tôn trọng cuộc sống của những người khác trong gia đình
và cộng đồng. Do đó, trách nhiệm cha mẹ trong việc đảm bảo học tập của trẻ em đó
là:
Thứ nhất, cần tạo môi trường chăm sóc thuận lợi, cha mẹ nên một bầu không
khí yêu thương, đoàn kết, gắn bó quan tâm giữa các thành viên gia đình, cho dù
cuộc sống còn nhiều vất vả, nhưng khi có trẻ em trong gia đình thì các thành viên
phải cố gắng bỏ qua những mâu thuẫn, xích mích để cho trẻ em luôn luôn có cảm
tưởng rằng ngôi nhà của mình chính là tổ ấm. Từ đó, các em sẽ chú tâm vào việc
học tập hơn, nhiều trẻ em chỉ vì cha mẹ cãi nhau mà buồn chán dẫn đến tâm lý chán
nản, bỏ bê việc học hành, tệ hơn là các em bị bạn xấu dụ dỗ bỏ học đi lang thang.

Thứ hai, tạo điều kiện cho trẻ em được học tập, phát huy khả năng của trẻ.
Cha mẹ phải quan tâm, lắng nghe và trò chuyện với trẻ để hiểu và giúp đỡ trẻ trong
học tập Cha mẹ có thể cùng học với trẻ, xây dựng thời khóa biểu cho trẻ để trẻ
nghiêm túc, tập trung trong học tập hơn.
Với những trẻ em có thiên hướng xuất hiện một số năng khiếu, cha mẹ phải
biết phát hiện, khuyến khích tạo mọi điều kiện để ươm mầm tài năng. Việc chăm
sóc phát triển trí tuệ cho trẻ em có quan hệ chặt chẽ với việc giáo dục, xã hội hoá trẻ
em. Quan điểm giáo dục hiện nay coi gia đình là một trong ba môi trường giáo dục
trẻ em. Tuy nhiên gia đình vẫn là trường học đầu tiên và suốt đời của mỗi con
người. Đó là bởi vì gia đình có trách nhiệm, là tình cảm và cũng là quyền uy (ông
bà, cha mẹ, anh, chị). Gia đình thực hiện chức năng giáo dục thông qua 3 giai đoạn
phát triển của trẻ em: từ 1-3 tuổi, từ 3-6 tuổi và từ 6-18 tuổi. Cả ba giai đoạn trên,
trẻ em được giáo dục, dậy dỗ của gia đình, lớn lên chịu ảnh hưởng các chuẩn mực
trong gia đình và dần dần tiếp cận các chuẩn mực ngoài xã hội.
Thứ ba, để thực hiện tốt chức năng giáo dục, mỗi thành viên trong gia đình
tuỳ thuộc vị trí của mình ( ông, bà, cha, mẹ, anh, chị) phải trở thành những tấm
gương sáng cho con trẻ học tập, làm theo. Hiện nay, phong trào: ông bà, cha mẹ
8


mẫu mực, con cháu thảo hiền đang thực sự phát huy hiệu quả, tác động quan trọng
trong giáo dục của gia đình. Những hành vi mà trẻ tiếp nhận, học tập trong gia đình
không chỉ là những kinh nghiệm của người lớn mà bằng cả những tình cảm của
những người thân yêu nhất. Gia đình thông qua thái độ, tình cảm, tâm lý, mối liên
hệ thường xuyên bền vững với trẻ em, khéo léo truyền thụ cho chúng những hành vi
ứng xử trong nhà và ngoài xã hội. Không thể có sự hình thành và phát triển nhân
cách đầy đủ và hoàn thiện nếu không có một môi trường giáo dục gia đình thuận
lợi.
Tùy vào khả năng của trẻ mà có cách thức cũng như lựa chọn trong việc học
tập của trẻ. Nhiều gia đình luôn muốn con mình học thật nhiều để biết nhiều thứ

theo kịp bạn bè, rồi phải học ở trường danh tiếng giáo dục tốt mà không để ý đến
khả năng của trẻ. Do đó, cha mẹ cần quan tâm đến trẻ nhiều hơn để nắm bắt khả
năng học tập của trẻ từ đó có phương pháp cho trẻ học tập phù hợp.
Thứ tư, cha mẹ phải có trách nhiệm cho con em mình được đến trường học
tập. Trước tiên cần phải đăng kí khai sinh cho trẻ, nhiều bậc cha mẹ nhất là vùng
sâu, vùng xa do hiểu biết kém hoặc ở vùng xa xôi ngại đi đăng kí cho con nên con
đến tuổi đi học mà vẫn chưa có giấy khai sinh cho trẻ dẫn đến nhiều trường hợp trẻ
không được đến trường. Bên cạnh đó, cũng có những gia đình vì hoàn cảnh khó
khăn mà bắt con mình phải bỏ học ở nhà giúp đỡ gia đình. Nhiều em mơ ướ được
đến trường, được đi học như bao bạn khác mà không thành hiện thực được, tuổi các
em phải được đi học, đến trường đó là quyền của các em vậy mà các em phải ở nhà
trông em, phải lao động giúp gia đình. Những vùng dân tộc vẫn còn những hủ tục
lạc hậu đó là bắt trẻ em gái ở nhà, không cho đi học, điều này khiến cho trẻ không
được đến trường như bao trẻ khác. Mọi trẻ em đều được đến trường học tập không
phân biệt nam nữ, giàu hay nghèo, có bệnh HIV hay không bệnh....tất cả các em đều
được học tập như trẻ em bình
thường khác. Chính vì vậy, trách nhiệm của gia đình trong việc bảo đảm việc học
tập của trẻ em là rất lớn.

9


III.

Thực tiễn về quyền được học tập và trách nhiệm của gia đình trong việc
đảm bảo thực hiện

Hiện nay, tình trạng trẻ em nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa không được đến
trường là khá lớn. Có em thì chỉ học đến bậc tiểu học là phải nghỉ để ở nhà lo giúp
cha mẹ mặc dù các em rất muốn đến trường, đến lớp học cùng bạn bè. Mong ước

của các em chỉ là mong sao được ăn ngon hơn một chút, được mặc đẹp hơn một
chút và được cắp sách đến trường vì một ngày mai tươi sáng hơn. Những mong
muốn bình dị ấy thật bình dị và đó cũng là quyền của bao trẻ em bình thường khác
nhưng thật lớn đối với trẻ em nghèo, trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam.
Các em chỉ dám nghĩ mà không dám mơ bởi khi sinh ra, các em đã cảm nhận được
cái nắng, cái mưa của cuộc đời và chưa đến tuổi thành niên đã phải đương đầu với
những nỗi vất vả ấy. Cái nghèo, cái khổ khiến các em phải thiệt thòi nhiều thứ mà
trong đó quyền được học tập là thứ quan trọng nhất. Đó là những thứ mà các em
đáng có, sẽ phải có khi được sinh ra trong một xã hội văn minh này. Nhưng thay vì
“trẻ em như búp trên cành, biết ăn ngủ biết học hành là ngoan” thì các em phải lao
động, dốc hết sức lực của những đứa trẻ non nớt. Tuổi của các em không phải là lứa
tuổi phải lao động nặng, lẽ ra phải được vui chơi, học tập. Nhưng thực tế đời sống
đã đẩy các em đến với những con đường không thẳng với những bước chân không
nhẹ nhàng. Hay những ngày nắng gắt, một nhóm trẻ tranh nhau đánh giày, nhặt ve
chai, bán báo… để mong kiếm được từng đồng cho cuộc sống mưu sinh. Vậy
nguyên nhân từ đâu? Ai có trách nhiệm trong cuộc sống đầy gian khổ, đối mặt với
cuộc sống hàng ngày của các em đây? Gia đình hay toàn xã hội?
Thực tế, một số cha mẹ chỉ lo làm việc như thế nhưng ít ai quan tâm tới việc
học hành của chúng. Có đứa không biết chữ, có đứa mới chỉ học xong bậc tiểu học
phải nghỉ để đi kiếm thêm tiền, đi xa nhà vào đời với biết bao cám dỗ. Có đứa hiếu
học nhưng ngày ngày đến trường với suy nghĩ liệu mình có đi đến cuối được con
đường học vấn hay không? Làm như thế nào đây? Làm gì để tiếp tục học, tiếp tục
thực hiện những ước mơ, hoài bão mà em đã vẽ và ấp ủ.
10


Không chỉ các trẻ em bình thường không được học tập mà cả các em bị
nhiễm HIV cũng đang rơi vào tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử gây trở ngại cho
việc học tập của trẻ em nhiễm HIV rất nổi cộm ở các nhà trường, song chủ yếu là
do người lớn chứ trẻ em thì rất vô tư. Chỉ có rất ít trường học ở Việt Nam hiện nay

chấp nhận dạy dỗ trẻ em nhiễm HIV hòa nhập với trẻ em bình thường, còn đại đa số
là không chấp nhận. Nhưng việc không chấp nhận này không phải do các thày cô
giáo mà do sức ép của các bậc phụ huynh, nhiều người lôi kéo nhau tạo nên làn
sóng phản đối quyết liệt, không cho trẻ “có HIV” được học chung với con em mình.
Ngay tại Hà Nội, một vị đại biểu quốc hội cũng đã từng công khai phát biểu: “Nếu
tôi có cháu, tôi cũng không cho cháu tôi học ở lớp có trẻ nhiễm HIV”. Nếu chúng ta
không kịp thời có ngay những biện pháp ngăn chặn thì tình trạng kỳ thị, ngăn cản
việc học tập của trẻ “có HIV” sẽ bùng nổ thành “đại dịch” và đương nhiên sẽ thành
vấn đề nghiêm trọng. Các em bị HIV cũng có quyền được học tập như bao trẻ em
bình thường khác.
IV.

Kết luận

Để thế hệ trẻ hôm nay thực sự là những chủ nhân tương lai của đất nước,
trách nhiệm đầu tiên là của mọi gia đình, gia đình phải thực sự là tổ ấm, là nơi nuôi
dưỡng, hình thành nhân cách con trẻ, là thành trì an toàn, phòng chống các tệ nạn xã
hội xâm nhập vào gia đình và trẻ em. Cha mẹ phải tạo điều kiện cho con em mình
học tập để trở thành những công dân có ích cho xã hội.
Tài liệu tham khảo
1.Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004– NXB Lao động
2. Luật phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991 – NXB tư pháp
3. Luật giáo dục năm 2005 ( sửa đổi, bổ sung năm 2009)- NXB Lao động
4. NĐ số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/8/2005 qui định chi tiết một số điều của luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 qui định những hành vi bị coi là cản trở
việc học tập của trẻ em.

11



5. Lê thị Mai Hường – Quyền trẻ em trong lĩnh vực giáo dục theo Công ước của
Liên Hợp Quốc năm 1989 và pháp luật Việt Nam – HN 2011

12


Mục lục
II.

Một số lý luận về quyền trẻ em và quyền ..............................................1
1.Quyền trẻ em.........................................................................................1
2.Quyền được học tập của trẻ em...........................................................2
2.1 Trẻ em có quyền được học tập...........................................................3
2.2.Trẻ em học bậc tiểu học trong các cơ sở giáo dục công lập không phải

trả học phí.......................................................................................................5
II. Trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo thực hiện.........................7
III.Thực tiễn về quyền được học tập và trách nhiệm của gia đình trong việc đảm bảo
thực hiện............................................................................................10
IV.Kết luận

13



×