Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Bài tập tình huống chuyên viên chính học viện hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.75 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Trang
- Lời nói đầu………………………………………………………….1
I- NỘI DUNG TÌNH HUỐNG………………………………….….6
1.1.Hoàn cảnh ra đời của tình huống………………………….6
1.2.Mô tả tình huống…………………………………………..6
II- PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG ………………………….………9
2.1.Mục tiêu phân tích tình huống…………………………….9
2.2.Cơ sở lý luận………………………………………………9
2.3.Phân tích diễn biến, nguyên nhân, hậu quả của tình huống.10
III- XỬ LÝ TÌNH HUỐNG………………………………………...14
3.1.Mục tiêu xử lý tình huống………………………………...14
3.2.Đề xuất phương án xử lý tình huống………………………14
3.3.Lựa chọn phương án xử lý tình huống………………….…16
IV- KIẾN NGHỊ…………………………………..............................18
4.1.Kiến nghị với Đảng, Nhà nước………………………..…..18
4.2.Kiến nghị với cơ quan chức năng…………………………18
V- KẾT LUẬN……………………………………………………....20
- Tài liệu tham khảo………………………………………………….21


LỜI NÓI ĐẦU
Khen thưởng và kỷ luật là hai mặt của quá trình giáo dục, đều được thực
hiện theo quy định của pháp luật. Về mặt hình thức tuy có khác nhau, nhưng bản
chất đều nhằm mục đích giáo dục con người hướng thiện. Nếu như khen thưởng
là biện pháp tôn vinh danh dự, là đòn bẩy kích thích, khơi dậy tính tự giác, tích
cực, tiềm năng sáng tạo của con người thì kỷ luật là biện pháp cưỡng chế, hình
thức xử phạt cần thiết đối với những hành vi vi phạm của cá nhân, tổ chức,
nhằm giáo dục, răn đe đối với cộng đồng. Trên cơ sở đó giữ vững sự đoàn kết
thống nhất giữa ý chí và hành động, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Trong thực tiễn, khen thưởng và kỷ


luật đều là những nhân tố tích cực, cả hai mặt này phải được tiến hành song song
để bổ sung thúc đẩy lẫn nhau, góp phần xây dựng một đội ngũ cán bộ, công
chức giỏi về nghiệp vụ chuyên môn và có tính tổ chức kỷ luật cao. Tránh
khuynh hướng xem nhẹ kỷ luật sẽ làm cho hiệu lực và hiệu quả quản lý hành
chính nhà nước bị hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Đồng
thời khi tiến hành xử lý kỷ luật đối với những hành vi vi phạm của cá nhân, tổ
chức phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, công khai, dân chủ và được thực
hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Khiếu nại là một quyền cơ bản của công dân, mang tính hiến định. Công
dân có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết
định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức
khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Làm tốt công tác giải quyết khiếu nại không chỉ góp phần
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân, mà còn là tiền đề cơ bản, nhằm
ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chính quyền, nhất là đối
với địa phương, cơ sở.
Luật khiếu nại tố cáo ngày 02/12/1998 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật khiếu nại tố cáo ngày 15/6/2004 quy định cán bộ, công chức có

2


quyền khiếu nại quyết định kỷ luật của người có thẩm quyền khi có căn cứ cho
rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích của mình.
Việc xử lý, kỷ luật đối với cán bộ, công chức và người lao động vi phạm
không phải là vấn đề mới phát sinh, mà nó đã gắn liền với công tác quản lý hành
chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội.
Hơn nữa, hệ thống pháp luật của nhà nước ta đã và đang được củng cố, bổ sung,
hoàn thiện; nhưng vẫn còn những yếu tố thiếu đồng bộ, còn nhiều khe hở. Bởi
vậy càng không thể xem nhẹ việc xử lý, kỷ luật và đảm bảo quyền khiếu nại, tố

cáo của cán bộ, công dân. Thực hiện tốt điều này góp phần quan trọng vào việc
giữ gìn kỷ cương, phép nước, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây
dựng xã hội văn minh, tiến bộ.
Trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước có đội ngũ công chức đa dạng,
đông đảo được tuyển chọn, phân bổ thực hiện chức năng quản lý bằng nguồn lực
và phương thức nhà nước, thể hiện bản chất xã hội, chức năng xã hội của nhà
nước. Để đạt mục tiêu đó, cùng với cải cách bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ,
cần tăng cường kỷ luật và trách nhiệm của công chức trong quản lý nhà nước.
Kỷ luật nhà nước theo nghĩa rộng là những yêu cầu của nhà nước đối với
công chức nhà nước mang tính bắt buộc thực hiện và trật tự thực hiện những yêu
cầu đó. Trong quản lý nhà nước, kỷ luật được đề cập từ nhiều hướng. Một là,
với ý nghĩa khách quan, kỷ luật là toàn bộ các quy tắc hành vi trong hoạt động
của công chức do nhà nước ban hành, chứa đựng các quy định về hành vi được
thực hiện, cấm thực hiện và về khuyến khích và xử phạt trong thực hiện hành vi.
Hai là, từ góc nhìn chủ quan, kỷ luật là sự tuân thủ, sử dụng, thi hành, áp dụng
đúng các quy tắc hành vi đã ban hành. Ba là, kỷ luật nhà nước liên hệ với kỷ luật
của các tổ chức mà công chức nhà nước tham gia trên nguyên tắc trách nhiệm
công vụ và ngoài công vụ. Như vậy, nhà nước ban hành các quy tắc hành vi, còn
công chức phải hiểu và chấp hành các quy tắc ấy. Kỷ luật là sự thống nhất giữa
ban hành và thực hiện. Có quy tắc thì mới có quy chuẩn để thực hiện. Nhiều quy
tắc mà không thực hiện thì mọi ấn định đấy đều vô nghĩa.
3


Do vậy, trước hết, phải xây dựng hệ thống quy tắc thống nhất và phù hợp
với đời sống nhà nước và xã hội. Cơ quan quyền lực và hành chính nhà nước
ban hành các quy phạm kỷ luật, cơ quan nhà nước các cấp nghiên cứu, vận dụng
và chấp hành các quy phạm ấy trong thực tiễn. Vận dụng trên nguyên tắc không
có kỷ luật riêng cho thủ trưởng cũng như người dưới quyền. Tất nhiên, từng loại
chức vụ, công việc có quy định kỷ luật tương ứng. Như vậy, kỷ luật nhà nước

mang tính pháp lý, liên quan đến ý thức pháp luật và sử dụng pháp luật trong
quản lý nhà nước.
Thứ hai, kỷ luật nhà nước là do tuân thủ, sử dụng, thi hành, áp dụng quy
định pháp luật về tổ chức và hoạt động của một cơ quan, tổ chức nhà nước trong
trật tự công việc, trật tự thực hiện nghiệp vụ, trật tự thực hiện quyết định. Vì
vậy, pháp luật là cơ sở pháp lý của kỷ luật nhà nước, kỷ luật được thực hiện trên
nguyên tắc hợp pháp. Trong chiến tranh, pháp luật có đặc thù, nên xuất hiện
quan niệm chấp hành mệnh lệnh vô điều kiện. Còn trong hoà bình thì chấp hành
mệnh lệnh có điều kiện, được giới hạn trong khuôn khổ pháp luật. Không thể đặt
cấp dưới vào hoàn cảnh chấp hành mệnh lệnh trái pháp luật, làm cho họ vi phạm
pháp luật nặng nề hơn.
Thứ ba, kỷ luật được thể hiện qua bảo vệ lợi ích của nhà nước, địa
phương, tổ chức và cá nhân. Công chức nhà nước có nghĩa vụ phục vụ mang
tính nhà nước để đảm bảo, bảo vệ quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của các đối
tượng được pháp luật quy định. Đó là nghĩa vụ trước nhân dân. Ai không tôn
trọng điều này là thiếu tính kỷ luật của tổ chức nhà nước. Chậm trễ trong việc
giải quyết việc của dân là thiếu kỷ luật, tệ hại hơn là dựa vào lý do khách quan
để trì hoãn. Muốn trở thành người có kỷ luật nhà nước, theo cách nói của
phương Tây, là hãy bỏ lại tất cả những gì gắn với cá nhân, tổ chức, tôn giáo,
vùng, miền mà mình tham gia ở ngoài công sở, để trong công vụ chỉ còn động
theo pháp luật và đạo đức công vụ.
Thứ tư, chấp hành mệnh lệnh hợp pháp, hợp lý là có kỷ luật. Nhưng cần
lưu ý rằng đặt con người và quan hệ chấp hành mệnh lệnh của quyền lực thường
4


gây cho họ cảm giác mất tính độc lập của nhân cách. Cần làm rõ bản chất trực
thuộc trong quản lý nhà nước dân chủ không phải là sự trực thuộc của một con
người vào người khác, mà là vào sự nghiệp chung của xã hội; vì thế cần biết
cách thực hiện sự trực thuộc bằng tinh thần tự quản và văn hoá cá nhân. Nô lệ cá

nhân vào cá nhân không đồng nghĩa trực thuộc trong quyền lực nhà nước. Có
được quyền lực nhờ uy tín khác hẳn có uy tín nhờ quyền lực. Người ta có thể
mến mộ mà không tôn trọng, có thể không mến mộ, không tôn trọng mà chỉ sợ
hãi. Trong quản lý nhà nước nhiều khi kỷ luật hiện hữu do người ta sợ. Đó là cái
gì ở bên ngoài không làm xuất hiện nhiệt tình của con người. Trong quan hệ
giữa thủ trưởng và nhân viên có thể không hoà hợp, có thể do tự ái, tự kiêu,
không muốn dưới quyền người khác. Điều này có thể khắc phục dần. Nếu tính
cách không hợp nhau thì nên tách họ ra. Lãnh đạo khi ra mệnh lệnh cần nghĩ đến
nhân cách của người nhận lệnh để tránh đụng độ về tâm lý. Không nên đề cao
mình bằng cách hạ uy tín của người khác. Thật công phu và lâu dài mới có môi
trường kỷ luật, còn phá vỡ nó thì khá nhanh chóng. Đòi hỏi công chức phục vụ
nhà nước, chứ không phục tùng thủ trưởng bất kỳ lúc nào và ở đâu. Trước thủ
trưởng mọi cá nhân dưới quyền không cảm thấy mình nhỏ mọn và tự thủ tiêu
bản lĩnh của mình.
Quy phạm kỷ luật được áp dụng đối với công chức từ khi xuất hiện quan
hệ phục vụ nhà nước giữa họ với cơ quan, tổ chức nơi họ thực thi công vụ. Phạm
vi của kỷ luật nhà nước chỉ trong công vụ, không chi phối đời tư hoặc việc thực
hiện nghĩa vụ công dân của họ. Quy phạm kỷ luật bắt buộc đối với tất cả công
chức. Do phạm vi ảnh hưởng của vi phạm kỷ luật thì lãnh đạo phải chịu kỷ luật
nặng hơn nhân viên.
Hình thức kỷ luật trong quản lý nhà nước có đặc trưng khác biệt với quản
trị của các tổ chức xã hội là ở sự thực hiện chức năng của nhà nước bằng quyền
lực nhà nước. Đó là trật tự với hệ thống thủ tục nghiêm ngặt gắn với pháp luật
và uy tín pháp lý của nhà nước. Các quy phạm, quy tắc điều chỉnh hành vi công
vụ tạo thành kỷ luật phục vụ nhà nước. Theo đó, mỗi công chức phải hoàn thành
chức năng ở một địa điểm, trong một thời hạn và bằng những phương pháp do
5


pháp luật quy định phù hợp với lượng thẩm quyền được trao. Vì vậy, trước tiên

cần quy chế hoá chức vụ và từ đó vi phạm kỷ luật phục vụ sẽ có hình thức kỷ
luật khác nhau theo địa vị của từng chức vụ. chức danh.
Thực hiện pháp lệnh cán bộ, công chức, trong những năm qua các xã, thị
trấn trên địa bàn huyện Thuận Châu rất coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực trình độ chuyên môn cao, tận
tuỵ phục vụ nhân dân, trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi công việc có những cán bộ, công chức
thiếu tu dưỡng, rèn luyện thường xuyên nên đã vi phạm kỷ luật lao động và bị
cấp có thẩm quyền xử lý kỷ luật buộc thôi việc.
Đây là một vụ việc xảy ra tại huyện Thuận Châu, có tính nhạy cảm, liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của cán bộ, công chức xã; họ cho rằng quyết
định kỷ luật của cấp có thẩm quyền là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của mình; do đó cần được quan tâm giải quyết kịp thời để được nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Hành chính Nhà nước tại cơ sở, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Trong tình huống này có một số chi tiết được hư cấu, song
cơ bản gần với thực tiễn đã xảy ra, do đó xin phép không nêu đích danh.

6


I- NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

1.1.Hoàn cảnh ra đời của tình huống
Thực hiện Quyết định số 3253/QĐ-UBND ngày 20 tháng 01 năm 2008
của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La về việc giao chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị, nghiệp vụ năm 2008. Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Thuận
Châu phối hợp với Trường Chính trị tỉnh tiến hành mở lớp Trung cấp Lý luận
Chính trị tại huyện. Sau gần hai tháng học tập, anh Lò Văn A là cán bộ kế toán
xã B đã tự ý bỏ học 07 ngày mà không có bất cứ lý do gì. Trung tâm bồi dưỡng

chính trị huyện đã thông báo cho xã B, đồng thời tiến hành các thủ tục theo quy
định đề nghị Ban Thường vụ Huyện ủy ra quyết định buộc thôi học đối với anh
A. Sau khi nhận được công văn và quyết định buộc thôi học của anh A, Hội
đồng kỷ luật xã B đã tiến hành xem xét và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp
huyện Quyết định kỷ luật công chức Lò Văn A với hình thức buộc thôi việc. Căn
cứ vào hồ sơ đề nghị của Hội đồng kỷ luật xã B và Hội đồng kỷ luật cấp huyện,
Chủ tịch UBND huyện đã Quyết định buộc thôi việc đối với công chức Lò Văn
A do vi phạm nghiêm trọng kỷ luật lao động của cán bộ, công chức. Sau khi
nhận được quyết định kỷ luật buộc thôi việc anh A làm đơn khiếu nại lên tỉnh,
cho rằng quyết định kỷ luật đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình. Qua quá trình trao đổi, tôi rất hiểu băn khoăn, trăn trở của gia
đình anh A và hứa sẽ tập trung nghiên cứu để có tác động trong việc giải quyết
sự việc của anh A theo đúng quy định của pháp luật.
Như đã hứa với anh A, tôi đã dành thời gian nghiên cứu hồ sơ. Sau đây là
những nghiên cứu về sự việc và đề xuất cách giải quyết giải quyết của tôi.
1.2.Mô tả tình huống
Do yêu cầu công việc, đầu năm 2011, anh Lò Văn A 30 tuổi là cán bộ kế
toán xã B được cử đi học lớp Trung cấp lý luận chính trị do Trung tâm bồi
dưỡng chính trị phối hợp với Trường chính trị tỉnh tổ chức tại huyện. Những
ngày đầu đến trường, anh A đã gặp anh Lò Văn C- 25 tuổi, một người quen cũ,
là thanh niên ở xã D.
7


Sau gần 2 tháng học tập tại huyện, họ có điều kiện gần gũi và trở nên thân
tình với một số đối tượng thường xuyên tham gia vào các cuộc cờ bạc, rồi bỗng
một ngày kia anh A tự ý bỏ học, mà không để lại bất cứ lý do gì, duy nhất chỉ có
vài lời nhắn gửi gia đình đừng phí công tìm kiếm họ.
Hơn một tuần đã trôi qua, không hề có thông tin gì về học viên trên.
Trung tâm bồi dưỡng chính trị đã tiến hành các thủ tục theo quy định đề nghị

Ban Thường vụ huyện uỷ ra quyết định buộc thôi học đối với anh A vì tự ý bỏ
học không có lý do chính đáng quá thời gian 7 ngày/tháng (vi phạm điểm c Điều
85 Bộ luật lao động: “ Người lao động tự ý bỏ việc bảy ngày trong một tháng
hoặc 20 ngày trong một năm mà không có lý do chính đáng” thì chịu hình thức
kỷ luật sa thải).
Sau khi nhận được công văn và quyết định buộc thôi học của anh A, hội
đồng kỷ luật xã B đã triệu tập đầy đủ thành phần theo quy định, tiến hành xem
xét và đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp huyện Quyết định kỷ luật công chức
Lò Văn A với hình thức buộc thôi việc. Căn cứ vào hồ sơ và đề nghị của Hội
đồng kỷ luật xã B và Hội đồng kỷ luật cấp huyện, chủ tịch UBND huyện đã
Quyết định buộc thôi việc đối với công chức Lò Văn A do vi phạm nghiêm
trọng kỷ luật lao động của cán bộ, công chức.
Tưởng chừng sự việc đến đây là kết thúc, nhưng thật éo le, việc ra đi tìm
nơi làm ăn mới và trốn nợ của anh A và anh C không thành, chẳng những không
tìm được việc làm mà họ còn vấp phải không ít khó khăn, trắc trở. Không còn có
sự lựa chọn nào khác, sau hơn một tháng họ lại cùng nhau trở về địa phương.
Tại đây, ngoài việc chịu áp lực của dư luận xã hội, sự lạnh nhạt và phản ứng gay
gắt của gia đình, người thân, anh A còn bị mất việc làm, không có thu nhập,
cuộc sống bấp bênh, tư tưởng bất ổn định và thế là anh A làm đơn khiếu nại lên
tỉnh, cho rằng quyết định kỷ luật đó trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Vì đơn khiếu nại về Quyết định kỷ luật của anh A gửi vượt
cấp nên cơ quan cấp tỉnh đã chuyển về cho cơ quan có thẩm quyền cấp huyện
xem xét, giải quyết và thông báo kết quả cho anh A. Vụ việc này cần giải quyết
8


nhanh chóng, nếu để kéo dài sẽ gây áp lực với anh A, dễ gây mất đoàn kết, làm
cho tình hình cơ sở mất ổn định, ảnh hưởng tới uy tín của cán bộ quản lý cơ sở
và cơ quan có thẩm quyền quyết định cấp huyện.


9


II-PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG

2.1.Mục tiêu phân tích tình huống
Mục tiêu của tình huống là giải quyết tình huống theo hướng bảo vệ lợi
ích chính đáng của người lao động được quy định trong Bộ Luật lao động, Luật
khiếu nại, tố cáo; Thông tư 01/2006/TT-BNV ngày 13.01.2006 của Bộ Nội vụ
hướng dẫn việc giải quyết khiếu nại kỷ luật công chức trong cơ quan hành chính
Nhà nước, đồng thời qua đó nhấn mạnh việc kỷ luật cán bộ, công chức phải
được tiến hành đúng thẩm quyền, đảm bảo nguyên tắc, xử lý đúng tính chất,
mức độ vi phạm của cán bộ, công chức theo đúng quy định của pháp luật; góp
phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu của tình huống là giải quyết khiếu nại Quyết định kỷ luật buộc
thôi việc của UBND huyện đối với anh Lò Văn A dựa vào các quy định của
pháp luật.
2.2.Cơ sở lý luận
Muốn xử lý đúng sự việc cần phải xác định mức độ sai phạm của người
lao động đươc quy định trong Bộ Luật lao động; quyền của cán bộ, công chức
được quy định trong Luật cán bộ, công chức cũng như vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan đến sự việc như:
Quyết định buộc thôi việc của Chủ tịch UBND huyện có đúng thẩm
quyền không ? trình tự, thủ tục, nguyên tắc, mức độ xử lý kỷ luật có đúng quy
định của Bộ Luật lao động; Luật Khiếu nại, tố cáo; Nghị định 35/NĐ-CP ngày
17.3.2005 của Chính phủ; Thông tư 01/2006/TT-BNV ngày 13.01.2006 của Bộ
Nội vụ hướng dẫn việc giải quyết khiếu nại kỷ luật cán bộ, công chức trong cơ
quan hành chính Nhà nước không ?
Vi phạm của người lao động thuộc quy định nào của Bộ Luật lao động;
Nghị định 35/NĐ-CP ngày 17.3.2005 của Chính phủ cũng như các quy định của

cơ quan, đơn vị không ? nếu có thì những quy định của cơ quan, đơn vị có phù
hợp với pháp luật không ? việc khiếu nại của anh A có đúng trình tự, thủ tục, có
10


đúng thẩm quyền, nghĩa vụ của cán bộ, công chức khi tham gia khiếu nại
không ? nếu có vi phạm thì vi phạm quy định nào ?
Với quan điểm khách quan, dựa vào quy định của pháp luật để phân tích
diễn biến, nguyên nhân, hậu quả của tình huống.
2.3.Phân tích diễn biến, nguyên nhân, hậu quả của tình huống
Trở lại địa phương, anh A đã được tập thể lãnh đạo xã B gặp gỡ, trao đổi
và công bố quyết định kỷ luật buộc thôi việc anh A của chủ tịch UBND huyện
Thuận Châu, đồng thời yêu cầu anh A bàn giao công tác chuyên môn cho anh
Lường Văn H.
Cầm quyết định kỷ luật của mình, anh A rất bức xúc cho rằng quyết định
kỷ luật này là trái pháp luật vì Hội đồng kỷ luật có thẩm quyền các cấp đã xử lý
kỷ luật anh khi vắng mặt đã xâm phạm đến quyền và lợi ích của mình, biểu
hiện: Hình thức kỷ luật buộc thôi việc với anh là quá nặng so với hành vi vi
phạm; không cho anh được hưởng chế độ khi thôi việc và các quyền lợi khác.
Đây chính là nguyên nhân chủ quan dẫn đến việc anh A làm đơn khiếu nại về
quyết định kỷ luật của người có thẩm quyền đối với mình.
Trước hết phải khẳng định rằng việc anh A viết đơn khiếu nại về quyết
định kỷ luật của mình khi nhận thấy bất hợp lý là việc làm thuộc quyền lợi của
cán bộ, công chức (theo quy định tại Điều 1 Luật khiếu nại tố cáo đã sửa đổi, bổ
sung năm 2004- 2005). Quyết định kỷ luật buộc thôi việc anh A do chủ tịch
UBND huyện ký, nếu theo quy định của luật khiếu nại, tố cáo thì đơn khiếu nại
của anh A phải được gửi chủ tịch UBND huyện, là người có thẩm quyền giải
quyết. Nhưng ở đây anh A đã gửi đơn khiếu nại vượt cấp, điều này đã gây nên
những rắc rối cho việc nắm bắt, giải quyết khiếu nại của anh A đối với cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền, vi phạm nghĩa vụ của công chức khi tham gia khiếu nại

(quy định tại thông tư 01/2006/TT-BNV ngày 13/01/2006 của Bộ nội vụ hướng
dẫn việc giải quyết khiếu nại kỷ luật công chức trong cơ quan hành chính Nhà
nước).

11


Tại thời điểm xem xét kỷ luật, anh A không có mặt ở nơi cư trú. Chính vì
vậy mà hội đồng kỷ luật xã B đã không gửi giấy triệu tập cho anh A trước 7
ngày và cũng không gửi giấy báo về nơi anh cư trú theo quy định. Nếu như thực
hiện đúng quy trình mà anh A vẫn vắng mặt thì việc giải quyết kỷ luật đối vơi
anh A khi vắng mặt là hoàn toàn phù hợp theo quy định của pháp luật. Trong
trường hợp này, Hội đồng kỷ luật xã B khi xem xét, kỷ luật anh A đã tiến hành
đầy đủ các bước, đúng thẩm quyền, đảm bảo nguyên tắc khách quan, công khai,
dân chủ. Nhưng đối chiếu với quy định thì việc xử lý kỷ luật anh A chưa chặt
chẽ, chưa đảm bảo đúng quy trình được pháp luật quy định (vi phạm điểm 4Điều 14 Nghị định số 35/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ về việc xử lý
cán bộ công chức).
Thực tế xét thấy vi phạm này chưa đến mức gây hậu quả nghiêm trọng
đến quyền lợi của cán bộ, công chức. Tuy nhiên cũng cần được rút kinh nghiệm
một cách nghiêm túc để tăng cường pháp chế XHCN ở cơ sở.
Bản thân anh A khi đang công tác tại xã B, do có nhiều cố gắng hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, nên đã được Đảng uỷ xã cử đi học lớp Bồi dưỡng
đối tượng Đảng, được kết nạp Đảng và sau này được xã cử đi học nâng cao trình
lý luận chính trị. Đây chính là sự quan tâm của tổ chức đối với công tác cán bộ,
nhất là cán bộ cơ sở, ngày càng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Lẽ ra
anh A phải thấy được vinh dự và trách nhiệm của mình trước tổ chức, coi việc đi
học như đi làm, phải có thái độ chấp hành nghiêm túc nội qui, kỷ luật học tập,
hơn thế nữa cố gắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Trái lại, do không tự
chủ được bản thân, thiếu tự giác rèn luyện thường xuyên, nên anh A đã tự đánh
mất mình, xem thường tổ chức. Việc anh A tự ý bỏ học không có lý do chính

đáng đồng nghĩa với việc anh tự ý bỏ nhiệm sở. Do đó, xét về tính chất, mức độ
của hành vi vi phạm, đối chiếu với quy định của Nghị định thì hình thức kỷ luật
buộc thôi việc đối với công chức Lò Văn A là hoàn toàn đúng đắn (Theo điểm đ
mục 2 điều 25- Nghị định số 35/NĐ-CP cuả Chính Phủ về xử lý, kỷ luật cán bộ,
công chức).
12


Mặt khác, anh A là cán bộ công chức xã nên phải có trách nhiệm và nghĩa
vụ thực hiện tốt những quy định của pháp lệnh cán bộ, công chức. Anh A đã có
gia đình, thế nhưng đã từ bỏ hạnh phúc và trách nhiệm đối với gia đình để chạy
theo lối sống buông thả, trái với đạo đức truyền thống, giao du chơi bời với
những đối tượng xấu và tham gia đánh bạc. Thực chất hành vi của anh A đã vi
phạm quy định của pháp luật; hành vi này của anh A bị gia đình và xã hội lên
án. Mặc dù trong thực tế chưa có căn cứ cụ thể để khẳng định anh A tham gia
đánh bạc, nhưng xét về hiện tượng và dư luận xã hội thì hành vi của anh A đã vi
phạm về phẩm chất đạo đức cán bộ, công chức. Không những thế anh A còn lôi
kéo thêm anh C cùng mắc khuyết điểm, gây mất ổn định trật tự xã hội, tổn hại
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, làm mất cán bộ của xã...
Trên thực tế, khi xem xét, xử lý kỷ luật với anh A, căn cứ vào Nghị định
số 35/NĐ-CP ngày 17/03/2005 của Chính phủ thì riêng việc anh A tự ý bỏ học
không có lý do chính đáng đã đủ điều kiện kỷ luật buộc thôi việc. Do đó Hội
đồng kỷ luật cấp xã cũng không xem xét thêm đến nội dung này, tuy nhiên đây
chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc vi phạm kỷ luật lao động, tự ý bỏ học
của anh A.
Tại điểm 1 Điều 28 Nghị định số 35/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính
phủ về xử lý kỷ luạt cán bộ công chức có quy định trường hợp cán bộ, công
chức kỷ luật buộc thôi việc không được hưởng chế độ khi thôi việc và quyền lợi
khác, anh A cũng thuộc diện đối tượng này, cơ quan có thẩm quyền quyết định
kỷ luật anh A đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong trường

hợp này anh A sẽ được cơ quan Bảo hiểm xã hội xác nhận thời gian làm việc và
đã đóng bảo hiểm xã hội để thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội cho anh A theo
quy định của pháp luật.
Như vậy, quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với anh A- Công chức xã
B được tiến hành theo đúng thẩm quyền, đảm bảo nguyên tắc, xử lý đúng tính
chất, mức độ vi phạm của cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật. Trong
quá trình xử lý, kỷ luật anh A, có một số khâu chưa đảm bảo đúng quy định của
13


pháp luật (xuất phát từ lý do khách quan), nhưng xét thấy chưa gây hậu quả
nghiêm trọng đối với quyền lợi của người lao động. Sự việc này cần được quan
tâm giải quyết kịp thời, hợp tình, hợp lý, nếu không sẽ gây hậu quả không tốt
vừa mất cán bộ, vừa gây nên những bức xúc, mất đoàn kết nội bộ và mất ổn định
trật tự ở địa phương.

14


III- XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

3.1.Mục tiêu xử lý tình huống
Đây là một tình huống hết sức nhạy cảm, liên quan đến việc xem xét,
đánh giá cán bộ, công chức và quyền lợi đối với người lao động, liên quan đến
tiêu chuẩn và phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức, do vậy việc giải quyết
phải đảm bảo:
- Công tâm, khách quan, dân chủ, đúng người, đúng việc, đúng tính chất
và mức độ vi phạm.
- Có tác dụng giáo dục, răn đe đối với cán bộ, công chức vi phạm nói
riêng, cảnh tỉnh cán bộ, công chức xã B và các xã khác trong toàn huyện nói

chung.
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước ở cơ sở và
cấp huyện.
- Đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của công chức và người lao động.
- Xử lý tốt tình huống sẽ giữ được mối đoàn kết lâu dài và ổn định trật tự
trên địa bàn xã, tăng cường pháp chế XHCN.
- Đảm bảo thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Qua xử lý phải nâng cao được năng lực công tác cho cán bộ quản lý cơ
sở.
3.2.Đề xuất phương án xử lý tình huống
Qua phân tích thực tế sự việc xảy ra như trên, xin được đề xuất 2 phương
án giải quyết như sau:
* PHƯƠNG ÁN 1:

Huỷ quyết định kỷ luật đối vơí anh A, làm lại thủ tục theo đúng quy trình
xử lý, kỷ luật cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật.
- Ưu điểm phương án 1:
15


+ Đáp ứng được quyền khiếu nại của công dân
+ Xử lý, kỷ luật cán bộ, công chức được thực hiện theo đúng quy
trình quy định theo Nghị định số 35/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ.
- Hạn chế của phương án 1:
+ Phải tiến hành qua nhiều bước xử lý, làm lại thủ tục, mất thời gian, kỷ
luật công chức không kịp thời, làm hạn chế tác dụng giáo dục.
+ Cứng nhắc, không phù hợp với thực tế vì căn cứ vào tính chất, mức độ
vi phạm của anh A, sau khi thực hiện phương án này, hình thức kỷ luật vẫn giữ
nguyên, không có gì thay đổi.
+ Hiệu lực, hiệu quả của quyết định quản lý hành chính nhà nước của cấp

có thẩm quyền bị hạn chế.
* PHƯƠNG ÁN 2:

Giữ nguyên quyết định kỷ luật đối với anh A, Hội đồng kỷ luật xã B mời
anh A lên làm việc để phân tích làm rõ những nội dung mà anh A đã khiếu nại
trong đơn. Đồng thời làm thủ tục đề nghị Bảo hiểm xã hội xác nhận thời gian
công tác, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội cho anh A theo đúng quy định của
pháp luật.
- Ưu điểm phương án 2:
+ Nâng cao nhận thức pháp luật cho công dân, tăng cường pháp chế
XHCN.
+ Giữ được mối đoàn kết lâu dài ở cơ sở, ổn định tình hình ở địa phương.
+ Đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả của quyết định quản lý hành chính nhà
nước của cấp có thẩm quyền.
+ Nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ cơ sở.
- Hạn chế của phương án 2:
+ Nếu xử lý không tốt dễ tạo khoảng cách, gây mâu thuẫn, mất đoàn kết
giữa cán bộ quản lý cơ sở với anh A.
16


Qua xem xét cụ thể, có thể nhận thấy phương án 2 có ưu điểm hơn, vừa
giải quyết tốt được những nội dung đề cập trong đơn của người khiếu nại bằng
phương pháp tích cực, ít căng thẳng, thông qua việc phân tích làm công tác tư
tưởng, giúp anh A nhận thấy rõ vi phạm của mình và rút ra bài học cho bản thân.
Trên cơ sở đó, tự giác chấp hành nghiêm chỉnh quyết định kỷ luật của cấp có
thẩm quyền.
3.3.Lựa chọn phương án xử lý
Từ nhận định trên, phương án 2 đã được quyết đinh lựa chọn, vì đây là
phương án tối ưu nhất, phương án này được tổ chưc thực hiện gồm các bước

sau:
- Triệu tập Hội đồng kỷ luật xã B với đầy đủ thành phần theo quy định và
mời anh A lên gặp gỡ trao đổi. Hội đồng kỷ luật công khai xin lỗi anh A về việc
xem xét, xử lý kỷ kuật anh A chưa được thực hiện đúng quy trình theo quy định
của pháp luật, nhưng cần phân tích làm rõ:
+ Việc làm này không phải là cố ý vi phạm mà do quan niệm giản đơn tại
thời điểm xử lý, kỷ luật anh A không có mặt ở nơi cư trú.
+ Vi phạm này chưa đến mức nghiêm trọng đối với quyền lợi người lao
động, không có tác dụng làm thay đổi hình thức kỷ luật đối với anh A.
- Tập trung phân tích làm rõ từng nội dung khiếu nại đã được đề cập trong
đơn, để anh A thấy rõ được những điều đúng, sai, nguyên nhân, hậu quả của vi
phạm, những căn cứ để xử lý, kỷ luật buộc thôi việc với anh của cơ quan có
thẩm quyền là hoàn toàn hợp lý, đúng quy định của pháp luật.
- Khẳng định rõ khiếu nại, tố cáo là quyền của công dân, nhưng phải tuân
thủ theo quy định của pháp luật và giữ vững kỷ cương xã hội. Trong đơn khiếu
nại của anh A có những nội dung được đề cập không đúng sự việc hoặc chỉ đúng
một phần, đơn khiếu nại gửi vượt cấp có thẩm quyền giải quyết. Điều này chứng
tỏ anh A đã vi phạm nghĩa vụ của công chức khi tham gia khiếu nại, yêu cầu anh

17


A phải rút kinh nghiệm và điều chỉnh hành vi của mình theo đúng quy định của
pháp luật hiện hành.
- Làm thủ tục đề nghị Bảo hiểm xã hội huyện xác nhận thời gian làm việc
và thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội để thực hiện chế độ bảo hiểm cho anh A
theo đúng quy định của pháp luật.
Sau khi thực hiện phương án này đã cho kết quả hết sức khả quan, những
mực tiêu của tình huống đặt ra đều được giải quyết trọn vẹn. Bản thân anh A đã
nhận thức rõ được mức độ, tác hại của vi phạm, thấm thía với khuyết điểm của

mình, tự giác chấp hành quyết định kỷ luật của cấp có thẩm quyền, coi đây là bài
học đắt giá đối với bản thân. Thông qua giải quyết sự việc này đã củng cố, nâng
cao ý thức pháp luật cho anh A, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cho những
người làm công tác quản lý nói chung, đó là trong quá trình tổ chức thực thi
pháp luật phải linh hoạt, sáng tạo, chặt chẽ, tỉ mỉ, đúng quy trình, tránh máy móc
và quan niệm giản đơn, vì nếu như vậy sẽ đưa đến những hậu quả đáng tiếc
trong quá trình thực thi quản lý hành chính nhà nước.
Do làm tốt công tác tư tưởng, anh A đã tự nguyện xin rút đơn khiếu nại,
hứa với Hội đồng kỷ luật và cán bộ quản lý xã B, tích cực tu dưỡng, rèn luyện
để trở thành người công dân tốt ở địa phương, góp phần vào công việc xây dựng
địa phương văn minh, tiến bộ, đáp ứng xu thế phát triển chung của toàn xã hội.

18


IV- KIẾN NGHỊ

4.1.Kiến nghị với Đảng, Nhà nước
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bằng chủ trương,
đường lối của Đảng. Đảng phải thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc
thực hiện chủ trương, đường lối của mình.
Cần tăng cường tổ chức việc giáo dục pháp luật đến tận cơ sở; làm cho
mọi người thông hiểu pháp luật. Thực hiện “Sống và làm việc theo hiến pháp và
pháp luật”. Giáo dục pháp luật cho công dân phải được thực hiện ở mọi lúc, mọi
nơi, mọi lứa tuổi. Các bộ luật cơ bản của nước ta phải được đưa vào thành môn
học ngoại khóa cho học sinh phổ thông và tổ chức sinh hoạt theo tình huống
tháng hoặc tuần/lần, để sau này các em có một số kiến thức cơ bản, không chỉ
góp phần nào cho sự hiểu biết về pháp luật của bản thân mà còn tham gia thuyết
phục cho người thân trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Cán bộ quản lý các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở phải có kiến

thức quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật, cần sử dụng nhiều hình thức
và biện pháp để giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật của mọi tầng lớp dân cư
và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân. Từng bước củng cố quan niệm “ công dân
được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, còn nhà nước chỉ được làm
những gì mà pháp luật cho phép”.
4.2.Kiến nghị với cơ quan chức năng
Trong quá trình tổ chức thực thi pháp luật các cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền phải chú ý tôn trọng nguyên tắc, thực hiện đúng quy trình, đúng
thẩm quyền, đúng tính chất và mức độ của sự việc. Không làm tắt hoặc bỏ qua
các bước trung gian, nhất là những nội dung, những khâu liên quan đến quyền
dân chủ của cán bộ, công dân.
Giải quyết kịp thời, hiệu quả đơn, thư khiếu nại của cán bộ, công dân;
tránh tình trạng điểm nóng xảy ra, nhất là đối với những vấn đề bức xúc, nhạy
cảm trên địa bàn.
19


Tăng cường phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
tự giác chấp hành pháp luật của công dân, tăng cường pháp chế XHCN. Quản lý,
triển khai thực hiện có hiệu quả tủ sách pháp luật ở cơ sở xã, phường, thị trấn để
mỗi công dân có thói quen tự giác sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Thường xuyên tạo điều kiện nâng cao trình độ về mọi mặt nhất là kiến
thức quản lý nhà nước cho cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở .

20


V- KẾT LUẬN

Thông qua việc xử lý tình huống nêu trên, có thể nhận thấy rằng việc xử

lý kỷ luật đúng mức đối với cán bộ, công chức và người lao động nói chung là
hình thức cần thiết, tạo cơ hội cho mọi người làm việc tốt hơn, cống hiến nhiều
hơn, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật trong việc thực hiện nội quy, quy chế của
ngành và đơn vị công tác.
Đối tượng tác động là con người, do đó để làm tốt công tác này trong thực
tiễn đòi hỏi các nhà quản lý, các cấp có thẩm quyền quyết định nắm chắc về chế
độ chính sách, về quyền và nghĩa vụ của công chức và công dân, quá trình tổ
chức thực thi pháp luật phải đảm bảo chặt chẽ, đúng nguyên tắc, đúng quy trình
theo quy định của pháp luật. Hạn chế thấp nhất việc xử lý oan sai và đơn thư
khiếu nại, nhất là đơn thư vượt cấp. Góp phần thực hiện quan điểm quyết tâm
đổi mới công tác cán bộ, nhằm xây dựng được những con người “vừa hồng, vừa
chuyên” phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước.
Việc xử lý, kỷ luật đối với cán bộ, công chức và người lao động vi phạm
không phải là vấn đề mới phát sinh, mà nó đã gắn liền với công tác quản lý hành
chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, tồn tại cùng với sự phát triển của xã hội.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường, mặt trái của nó dễ tạo ra những cơ hội
thuận lợi cho những vi phạm pháp luật tiềm ẩn đa dạng, phức tạp. Hơn nữa, hệ
thống pháp luật của nhà nước ta đã và đang được củng cố, bổ sung, hoàn thiện;
nhưng vẫn còn những yếu tố thiếu đồng bộ, còn nhiều khe hở. Bởi vậy càng
không thể xem nhẹ việc xử lý, kỷ luật và đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của
cán bộ, công dân. Thực hiện tốt điều này góp phần quan trọng vào việc giữ gìn
kỷ cương, phép nước, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng xã
hội văn minh, tiến bộ./.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
--------


1. Tài liệu bồi dưỡng về Quản lý hành chính nhà nước của học viện hành
chính.
2. Luật khiếu nại- tố cáo năm 1998 và 2004.
3. Bộ Luật lao động.
4. Thông tư 01/2006/TT- BNV ngày 03.01.2006 của Bộ Nội vụ Hướng
dẫn việc giải quyết khiếu nại kỷ luật công chức trong cơ quan hành chính Nhà
nước.
5. Nghị định 35/NĐ-CP ngày 17.3.2005 của Chính phủ về việc xử lý cán
bộ, công chức.
6. Một số tài liệu liên quan khác.

22



×