Tải bản đầy đủ (.doc) (194 trang)

Đề cương bài giảng ôn tập môn Kỹ năng lãnh đạo quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (964.24 KB, 194 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LUẬT VÀ QUẢN LÝ XÃ HỘI

TẬP BÀI GIẢNG
MÔN NHỮNG VẤN ĐỀ LỚN CỦA THỜI ĐAI VÀ KHOA HỌC LÃNH
ĐẠO, QUẢN LÝ HIỆN ĐẠI

Thái Nguyên, năm 2014

Chương I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY
I. Khái niệm thời đại và nhận diện thời đại


1.1.Quan niệm về thời đại
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà sự chuyển biến của nó đang
thay đổi hàng giờ, nhiều vấn đề tưởng như đơn giản của thời gian trước (thập kỷ
trước, năm trước, tháng trước) thì đến nay đã trở lên phức tạp, khó lường.
Ngược lại nhiều vấn đề tưởng như không có lời giải của quá khứ hoặc phải tìm
kiếm lời giải khó khăn lâu dài thì đã được giải quyết nhanh chóng khó tin.
Chúng ta có thể chứng minh điều này qua các vấn đề ví dụ sau:
Ví dụ thứ nhất: Những năm 1990 ai đó nêu ra ra vấn đề
mọi người phải có nước sạch để uống và không khí trong lành
để thở đối với con người, hầu hết mọi người cho rằng đó là
điều vô bổ, lo xa. Vì không gì nhiều bằng nước và không khí –
Nhưng chỉ 20 năm sau mọi người sẽ tự trả lời được vấn đề này
và hiểu được tầm nhìn của người đặt vấn đề. Khi mà nước sạch
ngày càng trở nên hiếm hoi và không khí trong lành là khát
vọng của nhiều quốc gia (TP Bắc Kinh của Trung Quốc tháng
12/2012 phải ban bố tình trạng khẩn cấp về ô nhiễm không khí
và nước sạch, Châu phi năm 2010 có tới gần 5 triệu người chết


vì thiếu nước sạch...).
Ví dụ thứ hai: Bệnh lao, bệnh hủi, dịch tả... (giống như
HIV, ung thư ngày nay) là nỗi kinh hoàng cho con người đến
tận những năm 70 của Thế kỷ XX, nhưng ngày nay đây là
những vấn đề thông thường của mọi quốc gia và mọi tổ chức y
tế.
Ví dụ thứ ba: Vấn đề xử lý truyền tin, lưu giữ hình ảnh
và âm thanh trên cùng một phương tiện (băng đĩa than, băng đĩa
từ, phim nhựa...) hay vấn đề xử lý thông tin kép trên một
phương tiện truyền thông (truyền vừa thông tin âm thanh, vừa
hình ảnh..trên cùng đường truyền...) là rất khó khăn, vấp phải
nhiều vấn đề kỹ thuật về phương tiện thu phát, đường truyền.
Nhưng ngày nay với công nghệ số hóa, cáp quang, internet.. đã
2


giải quyết nhanh, gọn toàn diện và đồng bộ nhiều yêu cầu trên
ngay tức khắc...
Ví dụ thứ tư: Quan niệm truyền thống cho rằng giá trị của
hàng hóa chủ yếu phát sinh do sức lao động của người sản xuất
kết tinh trong đó, và chỉ có lao động mới đem lại giá trị lớn nhất
cho sản phẩm. Nhưng ngay nay trong thương mại thì giá trị gia
tăng của sản phẩm tăng thêm gấp nhiều lần trong chuỗi giá trị
thương mại - là do chính thương mại tạo ra. Giá trị thương mại
trong giao dịch làm gia tăng nhiều lần giá trị gốc của sản phẩm
và người tiêu dùng chấp nhận nó như một vấn đề đương nhiên.
Qua bốn ví dụ nhỏ đã thấy sự thay đổi gốc dễ của nhiều quan niệm cụ thể,
nếu không có một góc nhìn đúng đắn thì bản thân mỗi người sẽ không xác định
được mình đang đứng ở giai đoạn nào của văn minh nhân loại, đứng ở đâu trong
thế giới này và sẽ đi về đâu. Đối với một quốc gia, dân tộc lại càng có ý nghĩa

quan trọng hơn nhiều- đó là lựa chọn con đường đi cho mình, quyết định tương
lai, vận mệnh dân tộc. Nội dung mà chúng ta đang nói đến chính là: “vấn đề
thời đại’’. Vậy thời đại là gì, từ trước đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về
vấn đề này, điều đó tùy thuộc vào thế giới quan, lợi ích giai cấp, bối cảnh lịch
sử, tầm nhìn, giác độ nhìn nhận của người nêu ra vấn đề.
Từ cổ xưa các nhà triết học đã bàn đến nó ở cả phương Đông và phương
Tây: Phương Đông là các đại biểu Khổng Tử, Lão Tử, các ông thường trăn trở
về các vấn đề thời cuộc, về tương lai của một thế giới đại đồng...ở phương Tây
cũng có đại biểu: Platon, Aristop, Smill...vạch ra một thế giới con người tự do
và chủ thể của xã hội....các đại biểu triết học giai đoạn này hình thành nên khái
niệm thời đại chủ yếu là quan sát, chiêm nghiệm và kết luận từ trực quan cảm
tính, được nhấn mạnh qua các yếu tố bàn đến là: “ biết người biết mình – việc gì
cũng thắng” hoặc bàn về “chữ Thời”, là thời thế, thời cuộc trong kinh dịch,
trong binh pháp, trong kinh của nhà phật, kito giáo....hay một “nhà nước lý
tưởng” của Platon...

3


Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tri thức xã hội ngày càng nhiều
lên, khoa hoc kỹ thuật ra đời từ giai đoạn thấp dần đến cao, văn minh thay thế
cho lạc hậu, cổ hủ...tri thức xã hội đặc biệt là tri thức khoa học ngày càng góp
phần to lớn cải biến thế giới ảnh hưởng đến quan điểm, quan niệm, cách nhìn,
góc nhìn của các nhà triết học do đó nhiều quan điểm phân chia thời đại với các
cách tiếp cận mới hình thành. Trong lịch sử đã từng xuất hiện cách chia thời đại
khác nhau hàm chứa những quan niệm phong phú về phạm trù thời đại. Chúng
ta có thể kể đến các đại biểu sau đây:
- Nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng pháp Phurier 1772 – 1837 chia lịch
sử phát triển xã hội loài người thành bốn giai đoạn: Mông muội, dã man, gia
trưởng, văn minh.

- Nhà nhân chúng học Mỹ Moc Gan 1818 – 1881 chia lịch sử phát triển xã
hội loài người thành ba giai đoạn: Mông muội, dã man và văn minh.
- Nhà tương lai học Mỹ Anvin Topholo (sinh 1928) dựa vào trình độ phát
triển của công cụ của lực lượng sản xuất lại chia ra: Văn minh nông nghiệp, văn
minh công nghiệp.
Ngoài ra còn phải kể đến các đại biểu khác là Nhà xã hội học Italia Vicô
(1668-1744), nhà triết học Đức Ph. Hêghen (1770-1831).
Có thể nói đây chính là những cách tiếp cận khác nhau trong phân chia
thời đại mà cụ thể được đánh giá qua ba xu thế chính:
Một là: Từ đánh giá về yếu tố phát triển của lực lượng sản xuất thông
qua bước tiến của công cụ lao động tiêu biểu cho một thời đại để phân chia lịch
sử loài người, với cách tiếp cận này thì xã hội loài người đã trải qua 05 thời đại
là: Thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng, thời đại kim khí, thời đại công nghiệp và
thời đại điện tử - tin học (hậu công nghiệp). Sở dĩ có sự phân chia này là các
nhà tư tưởng đã nhìn nhận trực quan theo phương pháp lịch sử, tìm ra sự thay
thế nhau của các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất mà yếu tố động nhất –
như C.Mác nhận xét đó là “công cụ lao động”, song không chỉ công cụ lao
động là yếu tố để nhận diện thời đại mà bản thân trong sự tiến bộ của công cụ

4


lao động đó các yếu tố phi vật chất như ý thức, văn hóa, văn minh... phát triển
tương ứng.
Hai là: Tiếp cận từ các nền văn minh thì phân thành 03 thời đại: Thời
đại văn minh nông nghiệp, thời đại văn minh công nghiệp, thời đại văn minh
tri thức. Khái niệm văn minh được hiểu là: trạng thái tiến bộ về cả hai mặt vật
chất và tinh thần của xã hội loài người, tức là trạng thái phát triển cao của nền
văn hóa. Trái với văn minh là dã man. Song phân biệt dựa trên tiêu chí này đánh
giá bước chuyển (ranh giới của các thời đại với nhau là vô cùng khó khăn) tiêu

chí nền văn minh dường như nhấn mạnh yêu tố chuyến biến tinh thần nhiều hơn
các yếu tố vật chất.
Ba là: Tiếp cận qua việc phân chia sự phát triển và thay thế nhau giữa
các hình thái kinh tế xã hội, với cách tiếp cận này thì xã hội loài người đã trải
qua 05 thời đại lần lượt là: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản và cộng sản chủ nghĩa. Phần này đã tìm hiểu rõ qua triết học
Mác- Lê nin về học thuyết hình thái kinh tế xã hội.
Những cách phân chia này, tuy phản ánh khá rõ một mặt nào đấy của
lịch sử, nhưng không vạch ra được tính chất xã hội của từng giai đoạn lịch sử,
cũng như động lực thúc đẩy sự thay thế lẫn nhau giữa các thời đại trong tiến
trình vận động của xã hội loài người. Và xét về cá thể hóa của mỗi chủ thể không
cung cấp cho bản thân mỗi người những nhận thức tổng quát nhất có lợi cho mình để
phấn đấu thành công theo hoài bão, khát vọng mà cá nhân mong đợi.
1.2. Quan niệm vấn đề thời đại theo quan điểm học thuyết Mác -Lê nin
Trong một xã hội có nhiều trường phái, quan điểm khác nhau suy đến
cùng mỗi cá nhân đều phải tuân thủ một hệ quy chiếu nhận thức chuẩn; với
các ngành khoa học xã hội ở Việt Nam hệ quy chiếu đó là Chủ nghĩa Mác
-Lênin, do vậy quan điểm về vấn đề thời đại phải dựa trên quan điểm MácLênin là quan điểm chính thống vì tính chân chính khoa học của nó.
Chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét một cách khoa học vấn đề thời đại trên cơ
sở phương pháp luận duy vật biện chứng và học thuyết về các hình thái kinh tế xã hội. Ph. Ăngghen nhấn mạnh: "...Trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ
5


yếu của sản xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó
quyết định, đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của
sự phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ xuất phát từ đó mới cắt nghĩa
được lịch sử..."{5}. Các nhà kinh điển Mác xít cũng vạch rõ một trong những
tiêu chí cơ bản để nhận biết một thời đại cụ thể là xác định giai cấp nào đứng ở
vị trí trung tâm của lịch sử. Mâu thuẫn giữa giai cấp trung tâm với giai cấp đối
kháng với nó tạo thành động lực chủ yếu thúc đẩy sự vận động của thời đại.

Trên cơ sở nhìn nhận tiến trình của xã hội loài người như một dòng chảy
lịch sử - tự nhiên, phủ định biện chứng giữa các hình thái kinh tế - xã hội,
C.Mác và Ph. Ăngghen xác định mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất định, với quá
trình phát sinh, phát triển và bị thay thế của nó, đánh dấu một thời đại lịch sử.
Nhân loại đã, đang và sẽ trải qua 5 thời đại lịch sử là: thời đại nguyên thuỷ, thời
đại chiếm hữu nô lệ, thời đại phong kiến, thời đại tư bản chủ nghĩa và thời đại
của chủ nghĩa cộng sản.
Khái niệm thời đại, vốn đã được C.Mác và Ph.Ăngghen hiểu theo nghĩa
rộng bao hàm quá trình kéo dài hàng nhiều thế kỷ, được V.I. Lênin quy về hiểu
theo nghĩa hẹp. Lênin chỉ rõ: "Một thời đại được gọi là thời đại chính vì nó
bao gồm toàn bộ những hiện tượng và những cuộc chiến tranh muôn hình
muôn vẻ, điển hình cũng có mà không điển hình cũng có, lớn cũng có mà
riêng cho các nước chậm tiến cũng có. Lẩn tránh những vấn đề cụ thể ấy
bằng cách dùng những câu nói chung chung về "thời đại" là lạm dụng khái
niệm về thời đại" {4}.
Để không lạm dụng khái niệm "thời đại", Lênin đã cụ thể hoá mỗi thời đại
lịch sử lớn theo cách phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội của Mác và Ăngghen
thành nhiều thời đại nhỏ, tương ứng với từng giai đoạn nhất định. Lênin đã chia
thời đại TBCN đến giai đoạn ông sống thành 4 giai đoạn: giai đoạn trước 1789,
giai đoạn từ 1789 đến chiến tranh Pháp - Phổ (1870-1871), giai đoạn toàn thắng
của giai cấp tư sản và giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Tuy nằm trong một hình thái
kinh tế - xã hội, các giai đoạn (thời đại) này khác nhau căn bản về: đặc điểm bối
cảnh lịch sử, động lực, nội dung, tính chất và phương hướng vận động.
6


Sự kế thừa và phát triển của V.I. Lênin đối với lý luận Mác xít về thời đại
là cần thiết để đi tới một nhận thức đúng đắn và đầy đủ về thời đại. Phương pháp
tiếp cận lịch sử của V.I. Lênin khắc phục được hai sai lầm có thể xảy ra khi
nghiên cứu về thời đại: một là, lấy diễn biến, đặc điểm của một giai đoạn làm

đặc trưng cho cả một thời đại lịch sử dài; hai là, đưa ra quá sớm những khẳng
định đối với tương lai, mà đương thời mới chỉ tồn tại dưới dạng những dự đoán.
Hiện nay, chúng ta xây dựng nhận thức về thời đại trên nền tảng học
thuyết Mác xít về các hình thái kinh tế - xã hội và với quan niệm của V.I. Lênin
về thời đại. Với tính cách một khái niệm triết học, thời đại là một phạm trù cơ
bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Với tính cách một phạm trù lịch sử, thời đại
là một giai đoạn lịch sử được phân biệt với các giai đoạn lịch sử khác bởi đặc
điểm bối cảnh, mâu thuẫn, động lực, nội dung, tính chất và phương hướng vận
động cơ bản. Tiêu chí hàng đầu để nhận biết một thời đại cụ thể là xác định giai
cấp nào đứng ở vị trí trung tâm của lịch sử, có vai trò chủ yếu quyết định lôgích
vận động của xã hội loài người.
Phạm trù "thời đại" hiểu theo nghĩa rộng của Mác - Ăngghen, liên quan
trực tiếp đến vấn đề thế giới quan và phương pháp luận trên lĩnh vực lịch sử.
Hiểu theo nghĩa hẹp của V.I. Lênin, "thời đại" trở thành một thuật ngữ chính trị xã hội then chốt. Xét trên cả hai bình diện ngữ nghĩa, khái niệm thời đại, sự hiểu
biết về thời đại, cách thức đánh giá thời đại... tạo thành một trong những cơ sở
xuất phát điểm cho các đảng phái, nhà nước, tổ chức quốc tế ... hoạch định
đường lối chiến lược và sách lược của mình. Chính vì có vai trò, vị trí quan
trọng như vậy, "thời đại' đang trở thành một trong những tiêu điểm của cuộc đấu
tranh tư tưởng - lý luận hết sức phức tạp hiện nay.
Kết luận: Thời đại là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử
phân biệt những nấc thang phát triển xã hội loài người. Dựa trên những cơ sở
khác nhau, có thể có sự phân chia thời đại khác nhau. Việc nghiên cứu thời đại
lịch sử có một ý nghĩa to lớn. Có hiểu được thời đại chúng ta đang sống là thời
đại nào thì chủ thể mới có thể định ra đúng đắn chiến lược và sách lược và chỉ
trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của thời đại, chủ thể mới có thể tính
7


đến những đặc điểm chi tiết của xã hội, địa bàn mình đang sống, mới toan tính
cho sự thành bại của tổ chức và cá nhân. Nói cách khác như Hêghen: Mỗi dân

tộc có quyền có hình thái nhà nước đặc thù phù hợp với trình độ phát triển của
mình, nhưng thời đại có quyền cao hơn. Thời đại sẽ không thèm “đếm xỉa” đến
đặc thù của các quốc gia nếu các quyền này đi ngược lại xu thế phát triển của
nó. Dân tộc nào không nắm bắt được tinh thần thời đại và vươn lên hòa nhập
với thời đại thì bất hạnh là điều không tránh khỏi {3}.
Thời đại ngày nay mà môn học này đề cập được tiếp cận theo nghĩa hẹp
của Lê nin để chỉ một giai đoạn nhất định trước mắt của nhân loại khi mà những
tiêu chí cơ bản đã định hình rõ nét về đặc điểm bối cảnh lịch sử, động lực, nội
dung, tính chất và phương hướng vận động. Đó là thời đại của toàn cầu hóa và nền
kinh tế tri thức.
1.3. Nhận diện thời đại ngày nay
- Giai đoạn hiện nay của thời đại (nghĩa hẹp), được tính từ đầu thập kỷ 90
của thế kỷ XX, chứa đựng nhiều bước vận động quanh co, phức tạp của lịch sử,
nhìn từ nhiều giác độ khác nhau có thể thấy trong cùng một giai đoạn của thời
đại có những nhận định khác nhau về trực diện đánh giá:
+ Nhìn từ nền tảng vật chất của xã hội loài người, giai đoạn hiện nay
được đặc trưng bằng sự hiện diện mạnh mẽ của nền sản xuất hậu công nghiệp,
của nền kinh tế tri thức, của công nghệ thông tin…
+ Xét trên bình diện các xu hướng lớn của đời sống quốc tế, giai đoạn
hiện nay là giai đoạn của quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá và khu vực hoá.
+ Từ góc độ chính trị quốc tế, giai đoạn hiện nay của thời đại là giai đoạn
đấu tranh xung đột lợi ích của các tập đoàn lợi ích (giai cấp) trong nội bộ quốc
gia và đấu tranh dân tộc giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với tính chất và cường
độ ngày càng gay gắt, phức tạp xung quanh các vấn đề chủ quyền, lợi ích.
+ Xét về chủ thể chính của thời đại : Các nước Tư bản lớn vẫn quyết liệt
khẳng định và tái lập sự thống trị toàn cầu của mình bằng các lợi ích kinh tế
chính trị do nắm trong tay nguồn tài chính và nhân lực khổng lồ. Các quốc gia
dân tộc trên thế giới đang triển khai cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản (xu
8



thế đế quốc) với nội dung sinh động như: chống tự do hoá tư bản chủ nghĩa,
chống tư bản tài chính lũng đoạn, chống độc quyền tư bản toàn cầu, chống toàn
cầu hoá tư bản chủ nghĩa…
Thời đại (theo nghĩa rộng) xuất hiện từ những điều kiện vật chất khách
quan, trên cơ sở mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trên quy mô toàn thế giới. Thời đại ngày nay xuất hiện từ những điều kiện
vật chất do sự phát triển của nền sản xuất công nghiệp tạo ra và trên cơ sở các
mâu thuẫn cơ bản tồn tại ngay trong xã hội tư bản. Bởi vậy, những biến động
lịch sử những năm qua không hề làm thay đổi tính chất và nội dung của thời đại
ngày nay. Đó vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917; là
thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội, gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra
những tiền đề vật chất - kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã
hội trong tương lai.
2. Đặc điểm, xu thế vận động của thế giới trong thời đại hiện nay
2.1. Những đặc điểm mới trong giai đoạn hiện nay của thời đại
So sánh thời đại hiện nay (giai đoạn hiện nay) với giai đoạn trước đây được tính từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX về trước có nhiều đặc điểm mới nổi
bật, mang tính đặc trưng để phân biệt:
Một là: Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có bước phát
triển mạnh mẽ đạt được những kỳ tích to lớn, biến thế giới thành Phẳng, hình
thành nền kinh tế tri thức.
- Do nhu cầu của phát triển, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
diễn ra mạnh mẽ, đạt được nhiều kỳ tích tác động đến tất cả các lĩnh vực của
đời sống mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế hiện nay, cải cách cơ bản lối sống
và nhận thức của con người, thâm nhậm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.
Theo nhiều học giả: Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại là ở chỗ khoa học, công nghệ và sản xuất không còn là ba lĩnh
vực tách rời nhau. Trái lại, phát minh khoa học, chuyển hóa thành công nghệ

9


và đưa vào sản xuất đại trà ngày càng thống nhất trong một quá trình; khoảng
cách giữa các khâu nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu triển khai và ứng dụng vào
sản xuất ngày càng rút ngắn.
- Những thành tựu khoa học và công nghệ được ứng dụng rộng rãi
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, trở thành một bộ phận tất yếu của lực
lượng sản xuất. Trong nền sản xuất hiện đại, sản phẩm đổi mới rất nhanh, giá
thành giảm mạnh, nguyên vật liệu được sử dụng tiết kiệm, năng suất lao động
rất cao.
- Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là động lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển vĩ đại, đồng thời bản thân nó là lực lượng sản xuất
mới, hiện đại. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thế kỷ XX
đã thay đổi căn bản. Cách mạng khoa học và công nghệ trực tiếp hoặc gián
tiếp dẫn đến những biến đổi khó lường về kinh tế - xã hội, văn hoá, tư tưởng,
lối sống và cả kiến trúc thượng tầng chính trị của xã hội. Nó buộc các quốc
gia thuộc hệ thống xã hội khác nhau và cả cộng đồng thế giới phải thay đổi cơ
chế quản lý, phải cải cách hành chính, từ bỏ cơ chế, mô hình quản lý không
thích hợp để tương thích lẫn nhau trong một xã hội không thuần nhất. Công
nghệ thông tin đã biến đổi thế giới, biến thế giới thành “phẳng”.
- Khoa học, công nghệ, tri thức là tài sản cả loài người không của
riêng giai cấp, dân tộc nào. Vị trí của công nghệ và hàm lượng tri thức trở
thành yếu tố quan trọng nhất (hơn cả vốn, nguyên liệu, sức lao động) của hệ
thống sản xuất hiện đại tạo nên nền kinh tế tri thức.
Hai là: Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu khách quan của
chung nhân loại.
- Ngày nay toàn cầu hóa đã trở thành một xu thế của thế giới đương
đại. Toàn cầu hóa là một qúa trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở
nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phụ thuộc và chi phối lẫn nhau.

Nội dung của toàn cầu hóa mở rộng ra mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như
một đòi hỏi khách quan:

10


+ Toàn cầu hóa là hệ quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại, đặc biệt là của công nghệ thông tin. Toàn cầu hóa trước hết là biểu
hiện của sự xã hội hóa cao độ lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa đồng thời là
sự phát triển tất yếu theo chiều rộng và chiều sâu của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, mặc dầu không phải tất cả các nước tham gia toàn cầu hóa đều là
những nước tư bản. Trung tâm của toàn cầu hóa là các nước tư bản phát triển,
xứ sở của phần lớn công ty xuyên quốc gia trên thế giới.
+ Toàn cầu hóa là một quá trình phức tạp đầy mâu thuẫn, chứa đựng
cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực, cả thời cơ và thách thức đối với các quốc
gia, trong đó có các nước đang phát triển, chậm phát triển chịu nhiều thách
thức gay gắt hơn cả.
+ Toàn cầu hóa có tác dụng nhất định trong việc thúc đẩy xu thế hòa
bình, hợp tác để phát triển. Toàn cầu hóa tháo dỡ các rào cản đối với tự do
thương mại, làm cho giao lưu kinh tế diễn ra mạnh mẽ nhanh chóng. Toàn
cầu hóa tạo môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt buộc các nước phải có
tư duy năng động, có cơ chế quản lý, bộ máy quản lý hoạt động có hiệu quả.
Toàn cầu hóa và cách mạng thông tin tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc
tiếp cận nhanh chóng những thành tựu văn hóa, khoa học của loài người đồng
thời có điều kiện đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn minh nhân loại.
Bên cạnh tác dụng tích cực nói trên, toàn cầu hóa tạo ra những thách
thức và nguy cơ không nhỏ đối với các nước, nhất là các nước đang phát
triển. Toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc của các nước đang phát triển vào
bên ngoài về vốn, công nghệ và thị trường. Toàn cầu hóa kinh tế có tác động
trực tiếp đến lĩnh vực chính trị, đến an ninh quốc gia. Nó tạo ra nguy cơ các

nước đang phát triển bị lệ thuộc về kinh tế, từ đó sẽ dẫn đến lệ thuộc về chính
trị gây nguy hại đến chủ quyền và an ninh quốc gia.
Ba là: Cuộc đấu tranh về lợi ích là trung tâm của mọi xung đột giữa
các tập đoàn (giai cấp) và đấu tranh dân tộc tiếp diễn và ngày càng tăng lên.
Sau sự kiện Liên Xô tan rã mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc càng
phức tạp, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trên thế giới không dịu đi
11


mà tiếp tục diễn ra gay gắt dưới những hình thức mới. Nhưng cuộc đấu tranh
đó vẫn là động lực cho việc loại bỏ trật tự xã hội lỗi thời, bất công, xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ở các nước tư bản phát triển cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân
tộc xung đột tôn giáo vẫn tiếp diễn, song đấu tranh giai cấp xung đột sắc tộc,
tôn giáo vẫn nổi trội và gay gắt hơn đấu tranh dân tộc. Nội dung chính của
đấu tranh giai cấp mang hình thức mới đó là các phong trào công nhân lao
động chống các chính sách tăng cường áp bức bóc lột, xâm phạm lợi ích
người lao động của chính quyền đại diện lợi ích các công ty tư bản kếch xù.
Phong trào "chống toàn cầu hóa" lan mạnh khắp các nước tư bản phát triển.
Thực chất không phải là chống giao lưu quốc tế, tự do thương mại v.v... mà là
đấu tranh bảo vệ lợi ích sống còn của người lao động trước sự tấn công, sự
lấn tới của tư bản độc quyền.
Tại các nước xã hội chủ nghĩa cũ, do chế độ XHCN sụp đổ, quan hệ
giai cấp đã thay đổi căn bản. Người lao động bị bóc lột nặng nề, hàng triệu
người thất nghiệp đời sống khó khăn, điêu đứng. Đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc diễn ra dưới nhiều hình thức, chủ yếu là các hình thức đấu tranh
hợp pháp như biểu tình, bãi công, hội thảo, đấu tranh trên báo chí, trên các
diễn đàn khác...
Ở các nước đang phát triển, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc
đều sâu sắc, đa số các nước đang phát triển đứng trước hàng loạt vấn đề kinh

tế xã hội chính trị phức tạp như đói nghèo, bệnh tật, thất học, ô nhiễm môi
trường v.v... Vấn đề cơ bản và bức xúc nhất là vấn đề bảo vệ chủ quyền quốc
gia dân tộc trước chủ nghĩa đế quốc bá quyền, chủ nghĩa thực dân mới, trước
những mặt tiêu cực của toàn cầu hóa.
Độc lập dân tộc, bình đẳng dân tộc là vấn đề lớn nhất, bức xúc nhất
của thời đại hiện nay. Bóc lột dân tộc tiếp tục là điều kiện tồn tại của chủ
nghĩa tư bản độc quyền. Các dân tộc nhỏ yếu chậm phát triển không những bị
bóc lột mà còn có nguy cơ bị đẩy ra bên lề cuộc sống hiện tại. Hố ngăn cách
giữa "khu vực trung tâm" và "khu vực ngoại vi" của thế giới tư bản ngày
12


càng sâu rộng thêm. Các chính sách đế quốc tiếp tục được áp dụng đối với
các nước đang phát triển, trong đó nguy hiểm nhất là chính sách xâm lược
chia để trị, can thiệp trắng trợn vào nội bộ các nước. Mỹ đang thi hành chính
sách đế chế ngay trong thời đại văn minh.
Bốn là: Quan hệ giữa các nước lớn đang chi phối thế giới hiện đại nhân tố rất quan trọng tác động đến sự phát triển thế giới
Trong số hơn 200 quốc gia, một số cường quốc có sức chi phối lớn đối
với chính trị, kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế đương đại. Căn cứ vào sức
mạnh tổng hợp, ảnh hưởng thực tế, những quốc gia sau đây được cộng đồng
thế giới xem là nước lớn: Hoa kỳ, Canada, Braxin, Nga, Anh, Pháp, Đức,
Italia, Trung Quốc, Nhật Bản, ấn độ:
+ Các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển thế giới. 11 nước lớn chiếm 1/3 lãnh thổ và quá nửa dân số thế
giới, hơn 70% GDP của cả thế giới. Đa số nước lớn là những cường quốc hàng đầu
về kinh tế, khoa học, công nghệ, sức mạnh quân sự. Có 5 nước lớn là uỷ viên thường
trực Hội đồng bảo an LHQ. Nhóm G7 là những nước tư bản phát triển nhất.
+ Các nước lớn không phải một khối thống nhất mà là một tập hợp đầy mâu
thuẫn. Quan hệ giữa các nước lớn gồm nhiều loại: đồng minh, liên kết, không liên
kết, đối tác, đối thủ, đối thủ trực tiếp, đối thủ tiềm tàng... hết sức phức tạp.

Tập hợp nước lớn có thể chia hai loại: các nước lớn tư bản phát triển (G7),
đứng đầu là siêu cường Mỹ, và các nước lớn còn lại (Trung Quốc, Nga, ấn Độ,
Braxin). Hoa kỳ, đứng đầu các nước tư bản phát triển, là siêu cường duy nhất hiện
nay. Hoa kỳ chiếm 31,2% GDP thế giới, có chi phí quân sự chiếm hơn 40% chi phí
quân sự toàn cầu. Canada là nước tư bản lớn nhất, phát triển nhất sau Mỹ ở Tây bán
cầu. Anh, Pháp, Đức, Italia là những thành viên chủ chốt của EU, một trong ba trung
tâm tư bản thế giới. Về nhiều mặt có thể xem EU là một "nước lớn" vì các nước
trong EU đang "nhất thể hóa" về kinh tế và chính trị.
Trung Quốc, nước đông dân nhất thế giới (1,3 tỷ người), là nước XHCN
duy nhất trong câu lạc bộ các nước lớn. Tuy nhiên, Trung Quốc không đóng và
không muốn đóng vai trò một cường quốc XHCN như Liên Xô trước đây trong
13


quan hệ với các nước lớn khác. Trung Quốc vẫn là một nước đang phát triển,
nhưng là một trong những nước kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới, đã vươn
lên vị trí thứ 7 về GDP. Trung Quốc là nước duy nhất trong tương lai có khả
năng thách thức địa vị siêu cường độc tôn của Mỹ.
Liên bang Nga, nước có diện tích rộng nhất, tài nguyên phong phú
nhất thế giới, nước kế thừa Liên Xô cũ. Hiện nay Nga vẫn là cường quốc hàng
đầu về quân sự, song không còn địa vị siêu cường. Những lợi ích quốc gia và
quan điểm về lợi ích quốc gia của Nga, đặc biệt là lợi ích ngoài lãnh thổ Nga,
điển hình là việc sáp nhập bán đảo Crưm vào Nga thánh 3/2014 vừa qua, đã thay
đổi sâu sắc, mặc dầu Nga vẫn còn những lợi ích truyền thống.
Nhật Bản, cường quốc số hai về kinh tế đang tìm cách vươn lên địa vị
cường quốc quân sự, chính trị tương ứng với địa vị kinh tế, chủ yếu dựa vào
Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ. Việc triển khai một quân đội mạnh hoạt động
ngoài lãnh thổ Nhật Bản những thập kỷ trước gặp phải sự phản ứng của cộng
đồng các nước láng giềng; hiện nay lấy lí do tự vệ bảo vệ lãnh thổ nhất là các
vùng đảo tranh chấp với Trung Quốc Nhật bản đang có tham vọng xây dựng

một quân đội mạnh xứng tầm với vị thế kinh tế với những bước đi và lộ trình
phù hợp.
Ấn Độ, Braxin là những nước đang phát triển, không liên kết đang tìm
mọi cơ hội để vươn lên địa vị nước lớn phát triển. Mục tiêu chính trị trước
mắt của hai nước là trở thành uỷ viên thường trực Hội đồng bảo an.
Năm là: Nhân loại đang đứng trước những vấn đề toàn cầu hết sức
bức xúc đòi hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết
Chưa bao giờ nhân loại đang phải đối phó với rất nhiều vấn nạn đòi
hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Thế giới đứng trước
nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải
quyết nếu không có sự hợp tác đa phương như bảo vệ môi trường, hạn chế
bùng nổ dân số, đẩy lùi những bệnh dịch hiểm nghèo,chống tội phạm quốc
tế”. Những vấn nạn có từ lâu nhưng chưa bao giờ chúng trở thành vấn đề lớn,
14


nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của các quốc gia, tương lai của loài
người tuỳ thuộc một phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề này: Đó là sự
nóng lại của trái đất với vấn đề hiệu ứng nhà kính; vấn đề ô nhiễm môi trường
với việc xử lý rác thải; vấn đề khủng hoảng sinh thái; vấn đề bệnh tật như lây
nhiễm HIV-AIDS-SARS - Dịch cúm gia cầm; Vấn đề đói nghèo, già đi của
dân số một số nước, bất bình đẳng giới tính... Giải quyết những vấn đề này
phụ thuộc vào đường lối của mỗi quốc gia và do đó phong trào quần chúng
đòi giải quyết các vấn đề toàn cầu là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới.
2.2. Xu thế vận động của thế giới trong thời đại ngày nay
Nhìn vào thế giới hiện đại thấy đầy rẫy nhưng mối quan hệ đan xen, chi
phối, chằng chịt nhau, song nếu phân tích biện chứng nội tại chúng ta sẽ tìm ra
những quy luật, khuynh hướng chung điển hình đó là:

a. Xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển
Hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi
bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước dành ưu tiên cho
phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng
cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước; đồng thời tạo sự ổn định chính trị và
mở rộng hợp tác quốc tế. Nhân tố kinh tế ngày càng có vị thế quan trọng trong
quan hệ giữa các quốc gia. Chính sách đối ngoại mỗi nước nhằm phục vụ đường
lối, chính sách phát triển kinh tế nước mình, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế,
khai thác nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
b. Hợp tác ngày càng tăng, nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt
Các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp
tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực
khác. Hợp tác ngày càng tăng, nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Xu hướng này
trở thành đòi hỏi khách quan và bức bách với các nước trong cộng đồng quốc tế,
được tác động bởi xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ hiện
nay trên thế giới. Trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ phát triển,
mỗi nước không thể sống biệt lập, mà cần phải có chính sách liên kết, hợp tác để
15


phát triển. Cùng với việc mở rộng quan hệ chính trị đối ngoại với các nước trên
thế giới và khu vực, nhằm duy trì và củng cố hoà bình, ổn định, các nước còn
thực hiện liên kết kinh tế, giao lưu văn hoá, giáo dục, y tế, thông tin... tạo điều
kiện đẩy mạnh hợp tác. Hoà nhập thế giới tạo điều kiện để liên kết tốt hơn, giúp
các nước đứng vững trong cạnh tranh và phát triển.
c. Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh
chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền
văn hoá dân tộc. Trong quan hệ quốc tế hiện nay, để giành vị trí có lợi, các quốc
gia dân tộc đã điều chỉnh chính sách, tạo cơ hội tận dụng những thành tựu khoa

học - công nghệ và quá trình quốc tế hoá để phát triển kinh tế. Đối với các nước
đang phát triển, do sự phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển về trình độ công
nghệ, vốn và chất xám, nên họ đang đứng trước những thách thức lớn. Việc
nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và
can thiệp của nước ngoài là một xu thế tất yếu trong bối cảnh quốc tế hiện nay.
Cùng với việc khắc phục khó khăn để phát triển kinh tế - xã hội, nhiều nước
đang cố gắng giữ ổn định về chính trị, tạo môi trường hoà bình, thực hiện chính
sách hoà giải, hoà hợp dân tộc nhằm xây dựng một trật tự kinh tế quốc tế công
bằng, bình đẳng và hợp lý.
d. Xu hướng dân chủ hóa đời sống quốc tế như một khát vọng chung của
nhân loại
Sau sự sụp đổ của Liên Xô, hệ thống XHCN tan rã nhiều giá trị dân chủ,
tự do XHCN, bảo đảm quyền công dân trong khuôn khổ nhà nước XHCN bị
thay đổi, nhiều người “hồ hởi” đón chào dân chủ kiểu phương tây, dân chủ
TBCN...song đã nhanh chóng nhận ra bản chất thật sự của kiểu dân chủ mới
(Dân chủ hình thức, dân chủ pháp lý) mà không có bảo đảm cụ thể có thiên
hướng quay lại giá trị đã mất nhưng trên cơ sở tiếp nhận tinh hoa hợp lý của dân
chủ phương tây.
Trong đời sống quốc tế xu thế dân chủ hóa, bình đẳng và ngang quyền nổi
lên như đòi hỏi tất yếu. Bình đẳng và được tôn trọng đã trở thành khát vọng của
16


các quốc gia không phụ thuộc vào vị thế kinh tế, xã hội và địa chính trị. Nhiều tổ
chức liên kết giữa các quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ ra đời đan cài nhau tạo
nên mối quan hệ chằng chịt khó xác định vị thế.
e. Các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu
tranh trong cùng tồn tại hoà bình
Các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh
trong cùng tồn tại hoà bình. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt trong quan hệ quốc

tế và chi phối phương thức quan hệ giữa các nước trong quá trình hội nhập và
giao lưu quốc tế. Đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình giữa các nước
có chế độ chính trị - xã hội khác nhau là nguyên tắc, là phương pháp xử lý trong
quan hệ quốc tế hiện nay. Khi nhu cầu hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng
đặt ra đối với các dân tộc, thì môi trường hoà bình, ổn định và phát triển của các
dân tộc là điều kiện để hội nhập tốt hơn, hiệu quả hơn.
Tình hình thế giới với những đặc điểm và xu thế như đã nêu đã và đang
tác động mạnh trên nhiều mặt đến đường lối, chính sách đối nội cũng như đối
ngoại của các quốc gia dân tộc trên thế giới. Trong tình hình đó, hầu như tất cả
các nước đều tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hoá,
đa phương hoá các quan hệ quốc tế, tìm cách hội nhập ngày càng sâu rộng với
khu vực và thế giới vì mục tiêu phát triển.
2.3. Ý nghĩa của việc nhận diện thời đại
Đối với mỗi quốc gia dân tộc, chính đảng việc xác định đúng thời đại có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn vì: đây là vấn đề có tính nguyên tắc,
chiến lược, là vấn đề thuộc về thế giới quan, lập trường quan điểm. Bởi vì nếu
có xác định đúng đắn vấn đề thời đại thì mới hoạch định chiến lược và lãnh đạo
cách mạng thành công.
Đối với sinh viên: Nhận diện đúng đắn thời đại (thời điểm đang sống về
đặc điểm bối cảnh lịch sử, động lực, nội dung, tính chất và phương hướng vận động)
sẽ trang bị cho sinh viên những kiến thức để xác định được cái cần phải trang
bị “cái gì’’ cho hành trang tương lai. Phải thích ứng như thế nào trong một xã
17


hội biến đổi. Từ đó xây dựng cho mình động cơ, mục đích phấn đấu đúng đắn,
hun đúc lý tưởng để lập thân, lập nghiệp.
Nhận diện đúng vấn đề thời đại (thời thế, sự việc) để cho bản thân sinh
viên có niềm tin vào cuộc sống; tự giải quyết được các vấn đề tình huống cuộc
sống gặp phải sau này không trông chờ ỷ lại. Không bị lôi kéo, bị mắc sai lầm

vào những ảo tưởng của cuộc sống do xã hội tạo ra.
Nhận diện đúng thời đại là nhận thức đúng về bản thân mình từ đó có ý
thức và trách nhiệm xã hội để chung tay cùng xã hội giải quyết những vấn đề
cấp bách đặt ra.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tập bài giảng: Thời đại và những vấn đề lớn của thế giới hiện nay,
Học viện CT-HC Quốc gia HCM, NXB Chính trị Hành chính năm 2010.
2. Thomas L. Friendman: Thế giới Phẳng, NXB Trẻ, Hà Nội 2008.
3. Phạm Chiến Khu: Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hêghen;
Tạp chí Luật Triết học 06:25’PM – Thứ sáu 01/6/2007.
4. V.I. Lê nin: Toàn tập (tập 20), NXB Tiến bộ, M1980, tr112.
5. C,Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội. 1995, tr.523.
6. N.M. Voskresenskaia, Chế độ dân chủ nhà nước và xã hội, NXB Tri
thức, Hà nội 2008.
7. Nhicolai Zlobin, Trật tự thế giới mới thứ hai – Những vấn đề Địa –
Chính trị nan giải, NXB Chính trị Quốc gia HCM, 2012.
8. Pankaj Ghemawat, Tái hoạch định chiến lược toàn cầu, NXB Trẻ,
2009.
18


Chương II:
CÁCH MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ
1. Quan niệm về khoa học công nghệ
1.1. Khái luận chung
Cuộc cách mạng Khoa học công nghệ (KHCN) hiện nay là bước phát
triển nhảy vọt về chất so với hai các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật (KHKT)
trước đó, khi những tri thức khoa học và yếu tố kỹ thuật chuyển biến nhanh
chóng và trở thành một bộ phận khăng khít của công nghệ, thống nhất hữu cơ

ngay bên trong quy trình tạo ra vật chất hoặc phi vật chất. Đây là kết quả lần thứ
ba của cuộc cách mạng KHKT (nói cách khác Cách mạng KHCN là đỉnh cao
của Cách mạng KHKT), nó làm cho Số lượng của cải mà loài người sản xuất ra
nhiều chưa từng có trên cơ sở lực lượng sản xuất to lớn. Có được những kết quả
đó chính là nhờ sự phát triển đột biến của khoa học và công nghệ trong suốt nửa
thế kỷ qua. Chính KHCN không những làm cho nền sản xuất công nghiệp biến
đổi về chất, mà hơn nữa, còn đẩy nền kinh tế công nghiệp lùi dần vào lịch sử, để
xác lập nền kinh tế mới – kinh tế tri thức.
Vậy KHKT là gì và KHCN là gì là những vấn đề cần phải tìm hiểu cụ thể.
1.2.Khái niệm Khoa học kỹ thuật và cách mạng KHKT

19


Ngay từ khi con người hình thành với tính chất là cộng đồng người để
duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, con người đã phải lao động, phải sản
xuất ra của cải vật chất; họ đã biết tác động vào tự nhiên bắt tự nhiên bộc lộ ra
các quy luật vận động của chúng và con người nhận thức được. Nhận thức từ
trực quan đến khái quát thành lý luận, qua đó phục vụ con người chinh phục cải
tạo thế giới phục vụ cho bản thân họ. Trong các tri thức con người tích lũy được
tri thức khoa học là kim chỉ nam, dẫn đường cho tri thức nhân loại vươn lên
chinh phục tự nhiên, xã hội.
Tri thức khoa học được hình thành qua con đường nhận thức khoa học.
Khoa học là một dạng hoạt động lao động của con người, nó ra đời trong quá
trình chinh phục giới tự nhiên và khoa học giúp nâng cao hiệu quả hoạt động
của con người. Nói vắn tắt khoa học là hệ thống các kiến thức về các quy luật
của tự nhiên, xã hội và tư duy dựa trên những phương pháp được xác định để
thu nhận kiến thức. Đó là một hình thức hoạt động đặc thù, là hoạt động nhận
thức. Nó ra đời chỉ ở một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Trên quan điểm duy vật biện chứng, xuất phát từ đời sống hiện thực của

con người là sản xuất ra của cải vật chất, C.Mác đã phát hiện ra hai mặt không
tách rời nhau: Một là quan hệ giữa người với tự nhiên, mặt khác là quan hệ giữa
người với người trong sản xuất. “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ
với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau
theo cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau” Quan
hệ giữa người với tự nhiên trong sản xuất chính là lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người
trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất là toàn bộ các
lực lượng được con người sử dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất,
bao gồm: người lao động (với thể lực, tri thức và kỹ năng lao động nhất định) và
tư liệu sản xuất (công cụ lao động). Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất,
người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Bằng thể lực, tri thức
và kỹ năng lao động của mình, người lao động sử dụng tư liệu lao động, trước

20


hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật
chất phục vụ cho mình.
Cùng với quá trình phát triển của sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động
của con người nhất là trí tuệ ngày càng được nâng cao dần, con người khi tham
gia sản xuất không còn tác động trực tiếp vào đối tượng lao động mà ngày càng
thông qua các công cụ lao động mới, máy móc thiết bị - các nhân tố kỹ thuật. Kỹ
thuật thông thường được hiểu là toàn bộ các thiết bị, phương tiện, máy móc và
công cụ vật chất nằm trong tư liệu sản xuất để quản lý, khai thác, bảo quản và
chế tạo các sản phẩm dùng cho sản xuất và thỏa mãn các nhu cầu của đời sống
xã hội.
Trong sản xuất và đời sống khoa học và kỹ thuật không tách rời nhau mà
kết hợp với nhau thành một thể thống nhất, khoa học đi sâu nghiên cứu cấu trúc
vật chất như: cấu trúc nguyên tử, gen, xâm nhập với quy mô ngày càng lớn vào

khám phá vũ trụ và vào ngững cầu trúc siêu tinh vi...Chính vì vậy khoa học đã
khám phá ra ngày càng nhiều các quy luật của tự nhiên và sự sống, tạo ra những
nguyên liệu mới, vật chất mới không có trong tự nhiên, sử dụng năng lượng và
tài nguyên hiệu quả hơn, tìm ra những năng lượng tiềm ẩn vô cùng lớn như hạt
nhân, bức xạ...mang lại những thành quả to lớn về khai thác sử dụng tài nguyên,
về điều trị bệnh tật, về nhân giống mới, về năng xuất chất lượng, về biến đổi và
phục vụ các nhu cầu ngày càng tinh vi của con người. Khoa học kỹ thuật là việc
kết hợp tri thức khoa học và yếu tố kỹ thuật trong quá trình sản xuất, chinh phục
tự nhiên của con người. Những biến đổi dần dần từ lượng của khoa học kỹ thuật
nêu trên theo cấp độ càng nhanh theo tiến độ phát minh của tri thức khoa học đã
tạo ra một cuộc cách mạng mới trong KHKT.
Cách mạng hiểu theo nghĩa thông thường nghĩa là thay cũ, đổi mới với sự
ra đời của cái mới tiến bộ hơn cái cũ, ưu việt hơn cái cũ về chất. Cách mạng
khoa học kỹ thuật cũng vậy; đó là một sự thay đổi kỹ thuật cũ bằng một kỹ thuật
mới, tiến bộ hơn kỹ thuật cũ từ đó làm cho năng suất lao động tăng lên gấp
nhiều lần so với kỹ thuật sản xuất trước đây.

21


Tóm lại, cách mạng khoa học kỹ thuật là một bước tiến cao hơn so với
cuộc cách mạng công nghiệp thế kỷ XIX. Với cuộc cách mạng này thì con người
bước sang sang một phương thức sản xuất mới là tự động hóa thay cho cơ khí
hóa trước đây. Đó là sự đi tiếp của cách mạng công nghiệp đã loại bỏ yếu tố cơ
khí và sử dụng điện từ, con người không tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất.
1.3.Khái niệm KHCN và Cách mạng KHCN
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật đến một mức độ nhất định biến thành
cách mạng. Trong cách mạng KHKT con người làm chủ máy móc thiết bị, đối
tượng và công cụ, phương tiện sản xuất để thực hiện chúng, đồng thời cũng

thông qua đó phát hiện ra những quy trình để điều khiển chúng, đó là các “bí
quyết nghề, bí quyết ngành’’ đó là các kỹ năng mà người sản xuất, nghiên cứu
phát hiện ra, cùng với quá trình sáng tạo con người dần không còn trực tiếp thao
tác trực tiếp với máy móc nữa, sản xuất được nâng lên trình độ cao hơn “tự động
hóa’’. Ở đó, đối tượng lao động hoàn toàn là do chính hệ thống kỹ thuật tự vận
hành, hệ thống này hoạt động không cần có sự tham gia trực tiếp của con người
sản xuất. Con người, được giải phóng khỏi việc thực hiện những chức năng máy
móc, kỹ thuật, có khả năng để tiến vào lao động sáng tạo, trình độ văn hoá kỹ
thuật của con người được nâng cao. Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ đã
cho phép lực lượng sản xuất tiến những bước khổng lồ. Với những tiến bộ vượt
bậc, sức mạnh to lớn của mình, khoa học kỹ thuật giúp con người có điều kiện
tốt hơn để học tập, nghiên cứu phát triển trí tuệ và con người, với những hoạt
động của mình tác động ngược lại sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thúc đẩy
những tiến bộ xã hội.
Công nghệ, theo nghĩa truyền thống được hiểu là tập hợp các phương
pháp, quy trình, kỹ năng, kỹ thuật, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các
nguồn lực thành sản phẩm. Công nghệ bao gồm nhiều khâu như: điều tra,
nghiên cứu, thử nghiệm, sản xuất thử đến các vấn đề thông tin, tư vấn, đào tạo
tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm cuối cùng. Công nghệ cũng chính là bản
thân những thao tác khai thác, chế tạo, vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, kiểm tra
22


đó đều là mỗi phần của quá trình sản xuất chung nhằm vào một sản phẩm cuối
cùng nhất định.
Công nghệ gồm bốn thành phần THIO:
+ Thành phần kỹ thuật T (Technoware) hay gọi là vật tư thiết bị.
+ Thành phần con người H (Humanware) -lao động tay nghề.
+ Thành phần thông tin I (Inforware) hay gọi là thông tin tri thức.
+ Thành phần tổ chức quản lý O (Orgaware).

Bốn thành này có tác động qua lại với nhau và cùng thực hiện bất kỳ quá
trình sản xuất và dịch vụ nào. Khoa học trước đây được kết hợp với kỹ thuật
mang lại biến đổi to lớn thì nay chuyển dần sang kết hơp thống nhất và xuyên
thấm trong mọi thành tố của sản xuất tạo thành KHCN. Trong quá trình ứng
dụng cách mạng KHKT tạo ra các bước chuyển dần dần về lượng, quy định
chuyển sang chất mới sáng tạo vượt bậc với cấp độ nhanh chóng mặt của thành
tựu đã tạo ra cuộc cách mạng mới là cách mạng KHCN.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ là một giai đoạn phát triển của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nó bắt đầu hình thành và phát triển từ những
năm 80, 90 của thế kỷ XX. Các thành tựu khoa học và công nghệ kỳ diệu nhất
của thế kỷ XX mà con người đạt được là: con người bay vào vũ trụ, sử dụng
năng lượng nguyên tử, công nghệ gen, máy tính và mạng internet. Có thể nói
rằng cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng khoa học kỹ thuật là hai khái
niệm có gắn bó chặt chẽ với nhau. Nhờ có sự phát triển của khoa học kỹ thuật
tạo điều kiện cho sự ra đời của công nghệ mới và từ đó lại thúc đẩy các ngành
khoa học kỹ thuật phát triển hơn nữa bởi khoa học công nghệ là sự ứng dụng của
khoa học kỹ thuật để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn, trong hoạt động của
con người. Bản thân công nghệ đã chứa đựng trong nó thành phần kỹ thuật; một
trong bốn thành phần tạo nên công nghệ. Vì vậy khoa học kỹ thuật phát triển sẽ
làm cho khoa học con người phát triển theo.
2. Cách mạng khoa học công nghệ.
Để có bước chuyển về chất từ KHKT sang KHCN phải có những nhân tố
nhất định, đó là những nhân tố lý thuyết và thực tế cụ thể:
23


Những lý thuyết nền tảng cho cuộc cách mạng KHCN đương đại là:
+ Thuyết tương đối của nhà Bác học vật lý Albert Einstei
vạch ra quy luật phổ biến của không gian - thời gian, vật chất vận động… là thành tựu tri thức vĩ đại của con người trên con
đường tìm hiểu tính thống nhất của thế giới vật chất và mở

đường cho các khoa học cơ bản hiện đại (vật lý tầng cao, vật lý
thiên thể, hoá học phóng xạ…) và ra đời các ngành công nghệ
cao: công nghệ hạt nhân, vũ trụ…
+ Thuyết lượng tử do Max Planck phát hiện, là bước
nhảy vọt mang tính lịch sử trong nhận thức của con người về sự
vận động và tác dụng tương hỗ của thế giới vật chất vi mô. Nó
không những trở thành cơ sở lý luận của các ngành mới, như:
Vật lý ở trạng thái ngưng tụ, hoá học kết cấu, sinh vật học lý
thuyết; mà còn mở ra cánh cửa lớn dẫn đến sự ra đời của các
ngành công nghệ vi điện tử, quang điện tử, laser, vật liệu mới,
hạt nhân, nano…
+ Mật mã di truyền ADN do công của J.Watson và
F.Crick, chính là sự khám phá cấu trúc xoắn kép của phân tử
AND, giải mã bí ẩn di truyền của thế giới sinh vật phong phú,
mở ra kỷ nguyên sinh học phân tử, tạo tiền đề trực tiếp cho
những bước tiến như vũ bão của KH về sự sống, công nghệ sinh
học…
Chúng tạo thành trục “tam giác tư duy” khổng lồ của nhân loại để khám
phá thế giới vĩ mô, thế giới vi mô và thế giới sự sống. Trên cơ sở đó, cuộc cách
mạng KHCN phát khởi kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trở đi, dự báo kéo
dài đến giữa thế kỷ XXI.
Những thành tựu của khoa học lý thuyết (gọi là khoa học cơ bản) muốn trở
thành nhân tố sống trong nên sản xuất vật chất thì phải đưa vào thực nghiệm để
chứng minh kết quả tiếp theo. Phần nghiên cứu tiếp theo này gọi là khoa học kỹ
thuật. Đến đầu thế kỷ XX nhiều ngành nghiên cứu khoa học trở thành lực lượng
24


sản xuất trực tiếp – tức là khó phân biệt được nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu
triển khai ứng dụng, hay nói cách khác khó phân biệt phần khoa học với phần

công nghệ vì khoa học công nghệ xem lẫn nhau, hòa trộn nhau người ta dùng
khái niệm: “khoa học công nghệ’’. Sự bùng nổ của KHCN đang diễn ra hàng
ngày từ giữa thế kỷ XX đến nay được gọi là cách mạng KHCN.
Khái niệm Cách mạng hiểu theo nghĩa thông thường nghĩa là thay cũ, đổi
mới với sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn cái cũ, ưu việt hơn cái cũ về chất.
Cách mạng trong KHCN có những đặc điểm sau:
+ Cách mạng KHCN bao trùm mọi lĩnh vực, mọi ngõ ngách của đời sống
xã hội, từ những ứng dụng vĩ đại cho đến những ứng dụng thông thường, từ lĩnh
vực nhân văn nhất đến phi nhân văn – văn hóa nhất: ví dụ là tìm ra năng lượng
hạt nhân để phục vụ con người đã được áp dụng sản xuất bom nguyên tử, cộng
nghệ sinh học giải mã bản đồ gen con người để chữa bệnh đến, để chế bản vô
sinh. Chế tạo mạng điện tử, vi tính hóa tự động hóa trong mọi thiết bị phục vụ
con người như phương tiện đi lại (tàu ngầm, tàu sắt siêu tốc, máy bay) đến vật
dụng gia đình (máy điều hòa, ti vi, tủ lạnh, máy vi tính, điện thoại)...
+ Cấp độ biến đổi của công nghệ nhanh gấp hàng trăm lần trước đây, thế
hệ công nghệ sau được rút ngắn nhiều lần so với thế hệ trước. Năng lượng và tài
nguyên được sử dụng hiệu quả hơn nhiều, nền sản xuất đã đi tắt đón đầu bỏ qua
các khâu trung gian mang lại hiệu xuất to lớn.
+ Tài nguyên tri thức và công nghệ không còn mang tính chất cá nhân mà
xã hội hóa và phổ cập hóa sâu sắc. Chia sẻ thông tin KHCN đã trở thành yếu tố
bắt buộc của xã hội và văn minh. Cách mạng KHCN đã tạo ra một nền sản xuất
kinh tế mới – kinh tế tri thức.
+ Xã hội đã phá bỏ mọi khoảng cách vách ngăn chế độ chính trị, địa lý
không gian thời gian để san phẳng thế giới bằng xa lộ thông tin, bằng toàn cầu
hóa kinh tế. KHCN không chỉ áp dụng trong sản xuất mà còn mở rộng trong ứng
dụng quản lý xã hội, trong tạo lập môi trường chính trị - dân sự, trong thương
mại và kinh tế.
25



×