Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

LUẬN văn thạc sĩ - TƯ TƯỞNG của lê NIN về QUẢN lý xã hội xã hội CHỦ NGHĨA và sự vận DỤNG của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.06 KB, 94 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

3
TƯ TƯỞNG V.I.LÊNIN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Tiền đề lý luận và cơ sở thực tiễn hình thành, phát triển

12

tư tưởng V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa
1.2. Nội dung tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về quản lý xã

12

hội xã hội chủ nghĩa
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG TƯ

21

Chương 2

TƯỞNG V.I.LÊNIN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY
2.1. Quá trình nhận thức, vận dụng tư tưởng V.I.Lênin về

50


quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản
Việt Nam từ Đại hội VI đến nay
2.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng

50

V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

64
85
86


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quản lý xã hội là hoạt động tất yếu khách quan gắn liền với sự tồn tại,
phát triển của xã hội loài người, có vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia dân tộc. Quản lý xã hội là đòi hỏi khách quan do tính chất xã
hội của lao động của con người, do sự cần thiết phải giao tiếp trong quá trình
lao động, phải trao đổi sản phẩm lao động. Khi tính chất, trình độ của lao động
sản xuất ngày càng cao, phân công lao động càng diễn ra mạnh mẽ càng đòi hỏi
phải có hoạt động tổ chức, điều tiết, sắp xếp các quá trình này một cách trật tự,
nhằm thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và xã hội. Phương tiện để thiết lập và
duy trì trật tự này và tính tổ chức chính là công tác quản lý.
Mỗi quốc gia dân tộc trên con đường phát triển luôn phải giải quyết
phức hợp các vấn đề nội tại của nước mình. Sự đa dạng bộ phận, lĩnh vực
hoạt động, tính chất lao động của đời sống xã hội đòi hỏi phải có sự phối

hợp, điều hành một cách nhịp nhàng. Để đất nước ổn định, phát triển người
ta đã phải tính đến sự lựa chọn mô hình và phương thức vận hành sao cho
hợp lý, muốn thế cần có những cảnh báo và cần có những điều tiết xã hội,
điều chỉnh luật pháp, thể chế, chú trọng sự ổn định, sự cân bằng, sự giao
thoa giữa những lĩnh vực, những lực lượng trong xã hội. Chức năng của
quản lý xã hội là thực hiện các nhiệm vụ đó.
Mỗi chế độ chính trị - xã hội khác nhau, quản lý xã hội có trình độ,
phương thức, hình thức, mục đích quản lý khác nhau. Sự khác nhau về
phương thức, trình độ quản lý xã hội do trình độ phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội và mục đích quản lý mà giai cấp cầm quyền quyết định. Chủ nghĩa xã
hội ngay từ khi ra đời, với bản chất ưu việt của nó đã xác định quản lý là
một nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu và thường xuyên. Theo quan điểm chủ
nghĩa Mác – Lênin, cơ sở vật chất – kỹ thuật của xã hội xã hội chủ nghĩa là
nền sản xuất công nghiệp hiện đại, chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa bị xóa bỏ,
3


chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập, tạo ra cách tổ
chức lao động và kỷ luật lao động mới, thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động - nguyên tắc phân phối cơ bản nhất, thực hiện công bằng, bình
đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người phát triển
toàn... Để xây dựng một xã hội tốt đẹp, tiến bộ, văn minh nói trên đòi hỏi
càng phải quản lý tốt mọi mặt, mọi khâu của quá trình phát triển, để phát
triển xã hội, giải phóng sức lao động, giải phóng con người, làm cho con
người có cuộc sống tốt hơn.
V.I.Lênin - lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản, trực tiếp lãnh đạo
cách mạng Nga, đã có những cống hiến to lớn cả ở phương diện lý luận và
thực tiễn về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa. Ngay trước và trong những
năm đầu tiên sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga
vĩ đại, V.I.Lênin đã nhận rõ vai trò quản lý xã hội, những khó khăn, thách

thức về kinh tế, chính trị, xã hội đối với một chính quyền non trẻ. Người đã
sớm nghiên cứu, xác định những nguyên lý, nội dung, phương pháp khoa
học về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa; vận dụng thành công vào quản lý xã
hội ở nước Nga Xô viết và còn là cơ sở để các đảng cộng sản cầm quyền ở
các nước nghiên cứu, tiếp thu vận dụng vào quản lý xã hội ở nước mình.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng ta luôn vận dụng trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào hoạch định, thực thi đường lối cách mạng và đã đem lại nhiều thành tựu
to lớn. Hiện nay, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đời
sống chính trị - xã hội thế giới diễn biến phức tạp, xu thế toàn cầu hóa, hội
nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong nước thời cơ, thách thức đan xen. Do đó, việc nghiên cứu và vận dụng
tư tưởng V.I.Lênin nói chung, về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực, góp phần cung
cấp luận cứ khoa học để Đảng hoạch định các chủ trương, chính sách, đưa ra
4


các quyết sách đúng đắn nhằm lãnh đạo quản lý xã hội tốt hơn, hiệu quả
hơn. Với những lý do đó, việc chọn vấn đề nghiên cứu: Tư tưởng V.I.Lênin
về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa và vận dụng của Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay có ý nghĩa lý luận, thực tiễn thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề
quản lý xã hội, tư tưởng của V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa,
trong đó tiêu biểu là:
* Nhóm các công trình nước ngoài:
Tiến sỹ triết học Maccô Maccôp (sách tham khảo nước ngoài), Chủ nghĩa
xã hội và quản lý [42]; cuốn sách đã nêu bật được những cống hiến của
V.I.Lênin vào lý thuyết quản lý xã hội, trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác

– Lênin về quản lý xã hội, tác giả đã tập trung phân tích cơ cấu, những nhân tố
tác động, đặc điểm tính hệ thống, chủ thể của quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa.
Viện sỹ A.M.Ru-Mi-an-txép (chủ biên), Chủ nghĩa cộng sản khoa học –
Từ điển [59], trong đó, tác giả đã đề cập đến khái niệm quản lý xã hội một cách
khoa học, bản chất, nhiệm vụ, chủ thể quản lý xã hội trong xã hội chủ nghĩa.
Cuốn sách Quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa một cách khoa học, do Viện
Thông tin khoa học xã hội dịch và xuất bản [68], đã nêu lên những luận điểm
của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về quản lý xã hội; trình bày hệ thống,
nguyên tắc và phương pháp quản lý xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cách
mạng khoa học hiện đại.
Baravia A, trong cuốn sách Các quan hệ trong quản lý xã hội xã hội chủ
nghĩa [3], tác giả đã nêu lên những đặc trưng bản chất của các quan hệ quản lý
với tính cách là một bộ phận cấu thành của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
Vạch ra những quan điểm phương pháp luận trong quan hệ quản lý.
Moiseev N.N, Chủ nghĩa xã hội và tin học [52], trong ấn phẩm này, tác
giả đã bàn đến cơ chế quản lý và tổ chức của chủ nghĩa xã hội; những nguy cơ
5


nảy sinh cùng với sự phát triển và tiến bộ của khoa học kỹ thuật; nguyên nhân
và giải pháp trong quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tư Mã An, 72 phép quản lý kiểu Trung Quốc [1], tác giả đã tiếp cận
quản lý trên cơ sở lấy con người làm gốc, bàn đến văn hóa quản lý, đưa ra yêu
cầu quản lý xã hội một cách linh hoạt, mềm dẻo; các khâu quản lý cần tuân
thủ: từ lãnh đạo, sách lược, giao quyền, thực thi, kiểm soát, quan sát.
* Nhóm các công trình, bài viết trong nước:
Ở nước ta, đã có nhiều công trình, ấn phẩm, bài viết nghiên cứu tư
tưởng của V.I.Lênin về các vấn đề chính trị - xã hội, quản lý xã hội xã hội chủ
nghĩa và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam dưới các góc độ khác
nhau, tiêu biểu như:

Nhà xuất bản Thông tin lý luận (1985), V.I.Lênin về bộ máy của Đảng
và nhà nước [57]; đây là ấn phẩm tập hợp những bài nói, bài viết, thư từ của
V.I.Lênin đề cập những quan điểm, vài trò, nhiệm vụ, chức năng của bộ máy
Đảng, Nhà nước và phương pháp hoạt động hoàn thiện tổ chức đào tạo bồi
dưỡng cán bộ cho bộ máy Đảng và Nhà nước Xô viết.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia cùng với Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh (1998), V.I.Lênin bàn về kiểm kê, kiểm soát [55], cuốn sách đã
tập hợp những đoạn trích, câu trích từ các trước tác của V.I.Lênin, nêu bật tư
tưởng của V.I.Lênin về vai trò, nội dung, phương thức của nhiệm vụ kiểm kê,
kiểm soát trong công tác quản lý.
Tiến sỹ Phan Thanh Khôi - chủ nhiệm đề tài (2000), Nghiên cứu một số
tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin trên cơ sở nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội khoa học [18], Ban đề tài đã đề cập đến tư tưởng của
V.I.Lênin về nhiệm vụ quản lý xã hội, vấn đề quản lý đất nước, quản lý kinh
tế, thực trạng, biện pháp cải tổ bộ máy nhà nước trong các tác phẩm của
V.I.Lênin viết sau cách mạng Tháng Mười.

6


Tiến sĩ Lê Đại Nghĩa (2002), trong bài báo Lênin bảo vệ và phát triển
tư tưởng của Mác, Ăngghen về tôn giáo [54], tác giả đã làm rõ sự phát triển tư
tưởng V.I.Lênin về tôn giáo, giải quyết vấn đề tôn giáo; vận dụng trong giải
quyết vấn đề tôn giáo dưới chủ nghĩa xã hội và ở Việt Nam.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2003), V.I.Lênin - Bàn về dân chủ
trong quản lý xã hội [56], cuốn sách đã tổng hợp những đoạn trích, những bài
viết của V.I.Lênin về dân chủ, đó là vấn đề dân chủ tư sản, dân chủ vô sản và
vấn đề tự quản – một hình thức dân chủ vô sản.
Giáo sư Đỗ Tư (2004), trong cuốn sách Tư tưởng chính trị của
V.I.Lênin từ cách mạng Nga đến cách mạng Việt Nam [67], tác giả đã phân

tích những phạm trù cơ bản trong hệ thống lý luận chính trị của V.I.Lênin, từ
đó khẳng định những giá trị trường tồn trong tư tưởng của Người và ý nghĩa
của vấn đề này đối với cách mạng Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới.
Giáo sư Tương Lai, trong bài Đôi điều suy nghĩ về vấn đề nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực trong quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ
và công bằng [21], tác giả đã đề cập đến vấn đề quản lý sự phát triển xã hội trên
nguyên tắc tiến bộ và công bằng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đinh Xuân Lý (2010), Đề tài khoa học cấp nhà nước
KX02.21/06-10, Đảng lãnh đạo phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
thời kỳ đổi mới: một số vấn đề lý luận và thực tiễn [22], đã nghiên cứu đưa ra
luận cứ, các yếu tố tác động, thực trạng năng lực lãnh đạo của Đảng đối với phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trên một số lĩnh vực.
Kỷ yếu hội thảo khoa học kỷ niệm 145 năm ngày sinh V.I.Lênin (2015),
Phát triển và vận dụng sáng tạo di sản tư tưởng V.I.Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam [20], trong ấn phẩm này, các bài tham luận hội thảo của các
nhà khoa học đã nghiên cứu tư tưởng V.I.Lênin về quản lý nhà nước và quản lý

7


xã hội trên một số lĩnh vực, công tác kiểm kê, kiểm soát trong quản lý xã hội,
chống quan liêu, tham nhũng, xây dựng phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ.
Nguyễn Anh Tuấn (2010), Luận văn thạc sỹ triết học, chuyên ngành
Chủ nghĩa xã hội khoa học, Quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới [66],
trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa, tác
giả đã chỉ ra phương hướng vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới.
Tóm lại, trong các công trình nêu trên, tư tưởng V.I.Lênin về quản lý xã
hội xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được

nghiên cứu dưới các góc độ, các khía cạnh khác nhau:
- Trong đó, có công trình bàn đến tư tưởng V.I.Lênin về quản lý xã hội
xã hội chủ nghĩa ở chỗ đã nêu lên lên những cống hiến của Người về lý luận
quản lý thông qua các tác phẩm của ông, ý nghĩa của những tư tưởng này đối
với cách mạng Việt Nam.
- Có công trình nghiên cứu quan điểm, chủ trương lãnh đạo của Đảng
đối với phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, làm rõ Đảng ta đã vận
dụng những tư tưởng V.I.Lênin để đề ra các chủ trương, đường lối lãnh đạo
quản lý, phát triển đất nước.
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống, toàn diện tư tưởng của V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa và
vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, nhất là ở cấp độ luận văn
thạc sỹ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu nội dung tư tưởng cơ bản
của V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa; sự vận dụng của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay; từ đó đề xuất
phương hướng nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng V.I.Lênin về quản lý xã
hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta giai đoạn hiện nay.
8


* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tiền đề lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng V.I.Lênin
về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa;
- Nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng của V.I.Lênin về quản lý xã hội
xã hội chủ nghĩa, và sự vận dụng của Đảng ta trong quản lý xã hội từ Đại hội
Đảng lần thứ VI đến nay;
- Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng
V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa vào quản lý xã hội ở nước ta giai

đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng của V.I.Lênin về quản lý xã hội
xã hội chủ nghĩa và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng của
V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa dưới góc độ chính trị - xã hội
thông qua một số tác phẩm của Người (chủ yếu giai đoạn từ năm 1917 đến
1924); và sự vận dụng tư tưởng V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội xã hội chủ
nghĩa của Đảng ta từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay .
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở hệ thống
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu
lịch sử tư tưởng và phương pháp liên ngành của các môn khoa học, trong đó
tập trung sử dụng các phương pháp: Phương pháp kết hợp lôgic và lịch sử;
phương pháp nghiên cứu tác phẩm kinh điển chủ nghĩa xã hội khoa học;
phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết; phương pháp phân loại, hệ thống
hoá; phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài

9


- Góp phần khẳng định tính khoa học, cách mạng, những đóng góp quý
báu của tư tưởng V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa; sự vận dụng
đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay;
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp luận cứ khoa học để
Đảng, Nhà nước tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng V.I.Lênin vào hoạch
định, thực thi quản lý đất nước đúng đắn, hiệu quả;
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng

dạy và học tập ở các học viện, nhà trường về các nội dung có liên quan.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo.

10


Chương 1
TƯ TƯỞNG V.I.LÊNIN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Tiền đề lý luận và cơ sở thực tiễn hình thành, phát triển tư
tưởng V.I.Lênin về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa
Sự ra đời của mọi tư tưởng, lý luận và học thuyết khoa học một mặt là
sự kế thừa có chọn lọc những tinh hoa tri thức khoa học mà nhân loại đã tích
lũy trong quá khứ, mặt khác đó là sự tổng kết từ kinh nghiệm thực tiễn mà
khoa học đó quan tâm, phản ánh. Sự hình thành, phát triển tư tưởng V.I.Lênin
về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài quy luật đó. Kế
thừa tinh hoa tư tưởng của nhân loại trước đó, trực tiếp là tư tưởng của
C.Mác, Ph.Ăngghen về quản lý xã hội; từ thực tiễn tình hình nước Nga sau
thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển tư
tưởng về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa và cùng với Đảng Bôn sê vích Nga
lãnh đạo nhân dân hiện thực hóa những tư tưởng đó trong quản lý nước Nga
xôviết.
1.1.1. Tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen về quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng về quản lý xã hội có từ rất sớm, ngay từ khi xã hội loài người
xuất hiện, để xã hội tồn tại và phát triển đã cần phải có quản lý. Do cách tiếp
cận con người, mối quan hệ của con người khác nhau dẫn đến tư tưởng về
quản lý xã hội cũng khác nhau qua các thời kỳ lịch sử. Các tư tưởng về quản
lý xã hội trong lịch sử đã đề cập đến quản lý xã hội ở các khía cạnh khác nhau

về mục tiêu, chức năng, nội dung và phương pháp quản lý, vai trò của tổ chức
trong quản lý.
Trước Mác, một số đại biểu thời kỳ phương Tây cổ đại, điển hình như
Đêmôcrit, Platon, Aristốt, Rútxô đã đề cập đến quản lý xã hội. Thời kỳ
phương Tây cận đại, các học thuyết quản lý xã hội ra đời với các trường phái
khác nhau, nổi bật là các học thuyết quản lý cổ điển. Kế thừa các hạt nhân
11


hợp lý, tinh hoa tư tưởng của các nhà tư tưởng trước đó, C.Mác, Ph.Ăngghen
đã có những lý giải khá toàn diện và sâu sắc các quá trình xã hội nói chung và
nhiều hiện tượng xã hội cụ thể khác của một giai đoạn quan trọng trong lịch
sử phát triển của xã hội loài người - giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản và
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong những bài viết, tác phẩm khác nhau,
C.Mác, Ph.Ăngghen đã đề cập đến quản lý với tính cách là một hoạt động lao
động đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định tính chất phổ biến của hoạt động
quản lý đối với quá trình phát triển xã hội; chức năng điều hoà hoạt động
của các tổ chức và các cá nhân của quản lý xã hội. Theo các ông, mọi hoạt
động xã hội dù ở quy mô lớn hay nhỏ đều phải có sự quản lý: “Tất cả mọi lao
động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn
thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa các hoạt động cá
nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn
bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của khí quan độc lập của nó. Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần
phải có nhạc trưởng. Các chức năng chỉ đạo, giám sát và điều hòa ấy trở thành
những chức năng của tư bản, khi lao động phụ thuộc vào tư bản đó trở thành
lao động hiệp tác” [43, tr.480].
Hoạt động của cá nhân luôn nằm trong một hệ thống, một tổ chức, có
quan hệ với tổ chức và chịu sự chỉ đạo, giám sát, quản lý chung; do vậy để

các hoạt động này “ăn khớp, hoà điệu nhịp nhàng” với nhau để tạo thành
“một bản hoà tấu” hay của dàn nhạc nhất thiết phải có sự quản lý.
Quản lý ra đời là một đòi hỏi khách quan của thực tiễn phát triển xã
hội, nó nằm trong mối quan hệ tỷ lệ thuận với sự phát triển của xã hội và tổ
chức. Xã hội càng phát triển, các tổ chức càng lớn và phức tạp thì hoạt động
quản lý càng cần thiết và phải mang tính khoa học. Hoạt động lao động quản
lý “tất nhiên phải xuất hiện một khi mà quá trình sản xuất trực tiếp đã mang
12


hình thái của một quá trình kết hợp có tính chất xã hội và một khi nó không
phải là lao động riêng lẻ của những người sản xuất độc lập” [45, tr. 502].
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
là hình thái khái kinh tế xã hội có năng suất lao động cao, phát triển toàn diện
trên các lĩnh vực. Năng suất của lao động quản lý không được đo bằng năng
suất lao động của các hoạt động lao động trực tiếp mà được đo bằng năng suất
lao động tập thể. Sức sản xuất vượt trội và dẫn đến năng suất vượt trội của tập
thể lao động trong tổ chức với tư cách là một hệ thống chỉnh thể là do sự “chỉ
đạo, giám sát và điều hoà” để qua đó các hoạt động đơn lẻ của cá nhân mang
tính “quy củ và có trật tự” của hoạt động quản lý.
C.Mác cho rằng mục đích của hoạt động quản lý là đảm bảo sự trật tự,
quy củ của hoạt động của các cá nhân riêng lẻ và các lĩnh vực hoạt động xã
hội khác nhau: “Tính quy củ và trật tự ấy chính là sự củng cố về mặt xã hội
của phương thức sản xuất, và do đó có sự giải phóng tương đối của phương
thức sản xuất ấy khỏi sự chi phối của ngẫu nhiên đơn thuần và của sự tuỳ tiện
đơn thuần” [45, tr. 503]. Ông đã xác định rõ mục đích của quản lý sản xuất,
và trên cơ sở đó là mục đích của quản lý toàn bộ đời sống xã hội là đảm bảo
tính an toàn, giữ gìn chất lượng và sự phát triển của hệ thống bằng cách gạt bỏ
ở mức độ cao nhất của nhân tố chủ quan, những ngẫu nhiên, tuỳ tiện của các
hoạt động riêng lẻ của hệ thống.

Hoạt động quản lý nhằm định hướng hoạt động của các cá nhân, các bộ
phận của tổ chức phù hợp với mục đích chung của tổ chức, làm thế nào để
mục đích chung này trở thành động cơ bên trong của mỗi cá nhân để thúc đẩy
sản xuất: “Mục đích chung phải là động cơ trên ý niệm, thúc đẩy bên trong
của sản xuất” [46, tr. 49] nó “quyết định phương thức hành động của họ giống
như một quy luật và bắt ý chí của họ phải phục tùng nó” [43, tr. 267].
Trong tư tưởng của C.Mác, chúng ta thấy rõ mối quan hệ biện chứng
giữa chức năng và mục đích của quản lý thông qua sự hợp tác. Quản lý thực
13


hiện các chức năng kế hoạch, chỉ đạo, giám sát và điều hoà tốt thì sẽ tạo ra sự
hợp tác tốt và hợp tác tốt sẽ tạo ra năng suất lao động vượt trội. Đến lượt
mình, năng suất vượt trội sẽ thúc đẩy tinh thần hợp tác của các cá nhân và do
đó, các chức năng quản lý được thực hiện dễ dàng. Mối quan hệ biện chứng
này được đặt trên nền tảng con người là một động vật xã hội.
C.Mác dẫn chứng thêm: “Khi có nhiều cánh tay tham gia cùng một lúc
vào cùng một công việc không thể phân chia được… lao động của từng người
riêng rẽ không thể nào đạt tới kết quả của lao động chung, hoặc chỉ đạt tới sau
một thời gian rất lâu, hoặc với quy mô rất nhỏ. Ở đây, vấn đề không phải là
chỉ nâng cao sức sản xuất cá nhân bằng sự hiệp tác, mà còn tạo ra một sức sản
xuất tự nó đã là một sức sản xuất tập thể rồi…Chưa nói đến một sức mới, xuất
hiện khi nhiều sức hợp nhất lại thành một sức chung, trong phần lớn các công
việc sản xuất, ngay sự tiếp xúc xã hội cũng đã đẻ ra thi đua, cũng kích thích
nguyên khí (antimal spirit) làm tăng năng suất cá nhân của từng người riêng
rẽ, khiến cho 12 người trong một ngày lao động chung 144 giờ cung cấp được
một tổng sản phẩm lớn hơn rất nhiều so với 12 công nhân riêng rẽ mỗi người
làm việc 12 giờ, hoặc so với một công nhân làm trong 12 ngày liên tiếp. Đó là
vì con người ta, do bản tính, nếu không phải là một động vật chính trị như
Aristôt nói, thì dẫu sao cũng là một động vật xã hội” [43, tr.473].

Với sự phát triển và mở rộng của sản xuất xã hội, hoạt động quản lý
cũng trở nên phức tạp mà bản thân người chủ tư liệu sản xuất – tư bản không
thể đảm đương hết được. Các nhà tư bản dần dần chuyển giao lao động quản
lý cho những người đi làm thuê và lao động quản lý bắt đầu trở thành lao
động làm thuê. C.Mác nói: “thì giờ đây nhà tư bản lại chuyển giao cái chức
năng trực tiếp và thường xuyên giám sát những công nhân riêng rẽ và những
nhóm công nhân cho một loại người làm thuê đặc biệt. Giống như một đạo
quân, một khối đông công nhân cũng hoạt động dưới sự chỉ huy của cùng một
tư bản cũng cần có những sĩ quan công nghiệp (giám đốc, managers) và
14


những hạ sĩ quan (giám thị, foremen, overlookers), những người này nhân
danh tư bản mà chỉ huy trong thời gian lao động. Công việc giám thị được cố
định lại thành chức năng riêng của những người đó” [43, tr.482].
Trong quá trình nghiên cứu sự hình thành và phát triển của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã phân biệt sự khác nhau giữa
người làm công tác quản lý và người chủ sở hữu tư liệu sản xuất: “Nói
chung, những xí nghiệp cổ phần đã phát triển… có xu hướng làm cho
chức năng của lao động quản lý ngày càng tách rời quyền sở hữu tư
bản”[45, tr.953].
Trong quản lý xã hội, C.Mác quan tâm quản lý mối quan hệ của các
giai cấp, tầng lớp. Trong giai cấp, Người chú trọng đến 3 mối quan hệ: thứ
nhất, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất xã hội; thứ hai, quan hệ về tổ chức
công việc; thứ ba, quan hệ về phân phối sản phẩm làm ra. Trong ba mối quan
hệ này, quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất xã hội là cơ bản, quan trọng nhất,
quyết định các mối quan hệ khác. Theo phân tích của C.Mác, sự tồn tại chế độ
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã tạo ra sự khác biệt trong phân phối sản
phẩm làm ra, nên tất yếu dẫn đến sự khác biệt về tài sản giữa các nhóm xã
hội, vì vậy đã nảy sinh sự phân chia xã hội thành các giai cấp, tầng lớp khác

nhau. Trong đó, C.Mác quan tâm nghiên cứu sự phân chia xã hội thành hai
giai cấp đối kháng, thống trị và bị trị. C.Mác đã đánh giá sự phân chia giai cấp
trong chủ nghĩa tư bản như sau: “… đặc điểm của thời đại chúng ta, của thời
đại giai cấp tư sản, là đã đơn giản hóa những đối kháng giai cấp. Xã hội ngày
càng phân chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp lớn hoàn toàn
đối lập nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản” [44, tr. 44].
Về nguyên tắc và biện pháp quản lý xã hội, C.Mác đã đề cập đến quản
lý theo cơ cấu lãnh thổ của các loại hình nhà nước đơn nhất, nhà nước liên
bang. Khi nghiên cứu quan điểm của Pru- đông và Ba-cu-nin về chế độ liên
bang, C.Mác cho rằng để xây dựng một xã hội mới, chúng ta cần có sự chỉ
15


đạo, lãnh đạo tập trung; chế độ liên bang là cần thiết nhưng về nguyên tắc
phải vượt ra khỏi quan điểm tiểu tư sản của chủ nghĩa vô chính phủ.
Trong Chương II, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác,
Ph.Ăngghen đã đưa ra 10 biện pháp nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và xây
dựng chủ nghĩa cộng sản. Đây được xem như là những phác thảo về biện
pháp quản lý, xây dựng chế độ xã hội mới:
“Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước;
Áp dụng thuế luỹ tiến cao; Xoá bỏ quyền thừa kế; Tịch thu tài sản của tất cả
những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn; Tập trung tín dụng vào
tay nhà nước thông qua một ngân hàng quốc gia với tư bản của nhà nước và
ngân hàng này sẽ nắm độc quyền hoàn toàn; Tập trung tất cả các phương tiện
vận tải vào trong tay nhà nước; Tăng thêm số công xưởng nhà nước và công
cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cấy cầy và cải tạo ruộng đất trong một kế
hoạch chung; Thực hành nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người, tổ chức
các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp; Kết hợp nông nghiệp, thi
hành những biện pháp nhằm làm mất dần sự khác biệt thành thị và nông thôn;
Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xoá bỏ việc sử

dụng trẻ em làm trong các khu công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục
với sản xuất vật chất” [44, tr.16].
Trong quá trình nghiên cứu tổng kết phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, nhất là sau sự kiện Công xã Pari, hai ông tiếp tục bổ sung, phát triển
lý luận quản lý. Các ông khẳng định, Công xã Pari là mô hình đầu tiên của
chế độ mới, phương thức quản lý mới với nhiều ưu việt mới: “Hãy nhìn vào
Công xã Pari chuyên chính vô sản là thế đấy”.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn hình thành, phát triển tư tưởng V.I.Lênin về
quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa
Thực tiễn thế giới những năm đầu thế kỷ XX và tình hình kinh tế, xã
hội của nước Nga xôviết giai đoạn từ năm 1917 đến năm 1924 là cơ sở
16


quan trọng để V.I.Lênin đưa ra các quan điểm, tư tưởng về quản lý xã hội.
Bản thân V.I.Lênin cùng với Đảng Bônsêvích cũng luôn tích cực hoạt
động, tìm tòi, sáng tạo trong tổ chức, quản lý xã hội mới.
* Thế giới những năm đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển thành
chủ nghĩa đế quốc, tình thế cách mạng vô sản đã xuất hiện, V.I.Lênin sớm
nghiên cứu, chỉ đạo cách mạng vô sản; quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa.
Do sự vận động của các yếu tố kinh tế, chính trị - xã hội, vào những
năm cuối của thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển thành
chủ nghĩa đế quốc, sự kiện đó đã chấm dứt thời kỳ phát triển tương đối hoà
bình của thế giới những năm 70, 80 của thế kỷ XIX. Vào thời kỳ này, kinh tế
của các nước đế quốc đạt tới qui mô sản xuất hết sức to lớn, dẫn đến hình
thành các liên hiệp tư bản độc quyền như: cácten, xanhđica, tơrớt, côngxoócxiom. Chủ nghĩa đế quốc tăng cường phát xít hoá bộ máy nhà nước, đẩy
mạnh chiến tranh xâm lược các nước chậm phát triển, tranh giành thị trường
thế giới, vơ vét tài nguyên và sức người ở các nước thuộc địa.
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918) kết thúc, các quốc gia
bước vào thời kì khôi phục kinh tế. Nhu cầu mở rộng thị trường của các nước

phát triển đã làm gia tăng tính cạnh tranh giữa các quốc gia. Trong nội bộ các
nước phát triển, các tổ chức, các liên đoàn xuất hiện và lên tiếng bảo vệ quyền
lợi người lao động và tạo ra nhiều áp lực đối với chủ doanh nghiệp và nhà nước.
Trong thời gian trước cách mạng Tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin đã
hoạt động cách mạng ở nhiều nước, khi đi sang các nước Đức, Anh, Thụy
Điển, Phần Lan, Người có điều kiện tiếp cận với với các tư tưởng quản lý xã
hội của C.Mác, Ph.Ăngghen, F.W.Taylor, H.L.Gantt, Henri Fayol, Max
Weber. Quan sát thực tiễn quản lý xã hội ở các nước này V.I.Lênin đã rút ra
nhiều kinh nghiệm quý báu. Tác phẩm Nhà nước và cách mạng bắt đầu viết
trong điều kiện phong trào cách mạng Nga chưa giành được chính quyền,
song trong tác phẩm V.I.Lênin đã phác thảo, dự báo những vấn đề cơ bản về
17


quản lý xã hội sau khi giành được chính quyền về tay giai cấp công nhân và
nhân dân lao động.
* Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi, nước Nga bắt tay
vào cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trong điều kiện nền kinh tế yếu kém,
lạc hậu, khó khăn về nhiều mặt. Thực tiễn đó cho phép và đòi hỏi V.I.Lênin
cùng Đảng Bôn sê vích Nga phải đặc biệt quan tâm vấn đề quản lý xã hội mới
- xã hội xã hội chủ nghĩa.
Về kinh tế, sản xuất công nghiệp thì đình trệ, diện tích đất nông nghiệp
giảm xuống còn khoảng 1/2 so với năm 1913, mùa màng thất bát, nạn đói,
bệnh dịch hoành hành. Chiến tranh đế quốc (1914 – 1918) rồi đến nội chiến
và can thiệp vũ trang của nước ngoài (1918 – 1920) đã tàn phá toàn bộ nền kinh
tế quốc dân, đã đẩy lùi nền kinh tế quốc dân trở lại trình độ kinh tế của nước Nga
sa hoàng giữa thế kỷ XIX. Năm 1920, sản lượng công nghiệp chỉ bằng 1/7 mức sản xuất
năm 1913, sản lượng nông nghiệp chỉ bằng hơn1/2. Trong hai năm (1920 – 1921), hạn
hán liên tiếp và nạn dịch súc vật làm cho nền nông nghiệp càng thêm tiêu điều;
bọn tư bản ra sức phá hoại sản xuất, tổ chức phá hoại ngầm, đóng cửa xí nghiệp.

Giao thông vận tải bị đình trệ vì bị tàn phá và thiếu nhiên liệu; đất nước trong
tình trạng phá sản về tài chính, phát hành tiền giấy không ngừng tăng lên. Nạn
đói và dịch bệnh diễn ra hầu như khắp đất nước, nhất là các thành phố. Đất nước
lâm vào khủng hoảng về kinh tế [61, tr. 35].
Về chính trị - xã hội, văn hóa: Cách mạng Tháng Mười năm 1917 thành
công, sự ra đời của Nhà nước Xô viết là nhân tố quan trọng trong quản lý,
điều hành xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, do mới
ra đời, chính quyền xô viết non trẻ cũng đứng trước nhiều nguy cơ và thách
thức. Cuối năm 1918, quân đội 14 nước đế quốc câu kết với lực lượng phản
cách mạng trong nước mở cuộc tấn công vũ trang nhằm tiêu diệt nước Nga
Xô viết. Trong suốt 3 năm (1918-1920), nhân dân Nga đã tập trung toàn bộ

18


sức lực tiến hành cuộc chiến đấu chống thù trong, giặc ngoài trong những
điều kiện vô cùng khó khăn để giữ vững Chính quyền Xô viết.
Trong xã hội khối liên minh công nông đứng trước nguy cơ bị tổn
thương nặng. Điều này xuất phát từ việc trong những năm chiến tranh, nông
dân vui lòng thực hiện chế độ trưng thu lương thực thừa, với chính sách cộng
sản thời chiến, bởi vì lúc đó họ ý thức được rằng nếu bọn Bạch vệ chiến thắng
nghĩa là sẽ khôi phục lại chính quyền của bọn địa chủ, họ sẽ bị tước đoạt lại
ruộng đất mà cách mạng đã đem lại cho họ. Nhưng khi cuộc nội chiến và can
thiệp của nước ngoài đã bị đập tan, hòa bình đã lập lại thì họ không còn đồng
tình với chính sách đó nữa. Lợi dụng tình trạng bất bình của nông dân, bọn Cu
lắc và các thế lực phản cách mạng khác trong nước, ngoài nước tổ chức
những cuộc phiến loạn ở nhiều vùng. Chúng đã lôi kéo được một bộ phận
nông dân vào cuộc phản loạn, nghiêm trọng nhất là cuộc phiến loạn phản cách
mạng xảy ra ở Crôn–stat vào đầu tháng 3 năm 1921.
Nguy cơ của chính quyền xô viết còn ở chỗ giai cấp công nhân - giai

cấp lãnh đạo cách mạng cũng bị suy yếu. Một bộ phận công nhân đã rời bỏ
hàng ngũ giai cấp công nhân do nhiều nhà máy và công xưởng đã bị chiến
tranh tàn phá hoặc không có lương thực, nguyên liệu, nhiên liệu. Họ chạy
về nông thôn để tránh nạn đói hoặc chuyển sang sản xuất thủ công. Vì vậy,
cơ sở xã hội của chính quyền vô sản bị suy yếu; trong khi đó, thế lực tự
phát tiểu tư sản lại tăng lên, điển hình như bọn Đê-ni-kin, Côn-tsắc và I-uđê-nich câu kết lại với nhau.
Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội của nước lúc bấy giờ đã
phản ánh cả vào trong Đảng Bôn sê vích Nga. Một bộ phận cán bộ, đảng viên
sinh ra dao động. Sự bất đồng trong Đảng về công đoàn, cuộc tranh luận rồi đi
đến cuộc đấu tranh bè phái, đòi tự do bè phái trong Đảng. Các nhóm đối lập
đã tỏ rõ lập trường chính trị của chúng là chống Đảng, chống ban lãnh đạo
mác xít của Đảng mà đứng đầu là V.I.Lênin.
19


* Những hoạt động chủ yếu của V.I.Lênin sau Cách mạng Tháng Mười
năm 1917 đến năm 1924
Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười cùng với sự ra đời của nhà nước
Xô viết đã làm cho Đảng Bônsêvích đã trở thành đảng cầm quyền trong một
nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử mới, từ
năm 1917 đến năm 1924, V.I.Lênin có những hoạt động chính sau:
Từ năm 1917 đến cuối năm 1920, V.I.Lênin cùng với Đảng Bônsêvích
Nga tập trung lãnh đạo xây dựng Đảng, bộ máy nhà nước Xô viết, đánh tan sự bao
vây của 14 nước đế quốc và bọn Bạch vệ. Do kết quả của cách mạng Tháng
Mười, thế giới hình thành hai hệ thống đối lập nhau, chiến tranh giữa các nước đế
quốc vẫn diễn ra, V.I.Lênin đã khởi Sắc lệnh về Hòa bình và Sắc lệnh Ruộng đất
nhằm nêu cao nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội
khác nhau và nhằm thủ tiêu chế độ địa chủ; chủ trương ký Hoà ước Brétlitốp với
Đức tháng 3 năm 1918, rút nước Nga ra khỏi chiến tranh đế quốc.
V.I.Lênin vạch rõ thực chất và những ưu thế hết sức lớn của Chính

quyền xôviết, một hình thức của chuyên chính vô sản. Theo Người, phải
chuyển trọng tâm vấn đề dân chủ từ chỗ thừa nhận về mặt hình thức những
quyền tự do đến chỗ bảo đảm thực tế cho những người lao động được
hưởng quyền tự do. Người cũng đã quan tâm xây dựng những nguyên tắc
cơ bản của nền dân chủ xô viết trong Hiến pháp xô viết đầu tiên; Ngày 12
tháng Mười hai năm 1918, Người soạn thảo Sơ thảo quy chế về công tác
quản lý của các xôviết, đặt ra những yêu cầu đối với các cơ quan, cá nhân
làm nhiệm vụ quản lý của nhà nước.
Tại Đại hội VII của Đảng Bônsêvích đã thông qua nghị quyết đổi tên
đảng thành Đảng Cộng sản (B) Nga, Đại hội bầu Tiểu ban Dự thảo cương lĩnh
do V.I.Lênin đứng đầu. Đại hội VIII năm 1919 của Cộng sản (B) Nga đã
thông qua cương lĩnh mới, trong đó có quy định những nhiệm vụ của Đảng trong
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Từ tháng Chạp năm
1919 đến tháng Tư năm 1920, V.I.Lênin tổng kết kinh nghiệm của Đảng về tổ
20


chức bảo vệ Tổ quốc và củng cố chế độ Nhà nước xôviết, đồng thời đã phát triển
thêm lý luận mácxít về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tính tất yếu và
những nhiệm vụ của chuyên chính vô sản. Đến cuối năm 1920, nhân dân Xôviết
đã đẩy lùi được cuộc tấn công cuối cùng của khối đồng minh đế quốc.
Từ năm 1921 đến đầu năm 1924, V.I.Lênin cùng Đảng Cộng sản (B)
Nga lãnh đạo đất nước thực hiện nhiệm vụ cơ bản là xây dựng cơ sở vật chất
cho chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hòa bình. Vấn đề xây dựng kinh tế được
V.I.Lênin, Đảng quan tâm đặc biệt. V.I.Lênin đề ra nhiệm vụ bức thiết là phải
khôi phục nông nghiệp, ban hành chính sách kết hợp điều tiết của Nhà nước
với lợi ích riêng của nông dân, nâng cao sản lượng và năng suất các hộ nông
dân. Người cũng chủ trương đưa tư bản nước ngoài có sự điều tiết, kiểm soát
của chính quyền Xô viết vào kế hoạch điện khí hóa nước Nga.
Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I.Lênin soạn thảo được Đại hội X

của Đảng Cộng sản (B) Nga thông qua, từ tháng Ba đến tháng Sáu năm 1921
là thời gian nước Nga Xô viết chuyển chính thức sang thực hiện Chính sách
kinh tế mới với những phương pháp mới trong kinh doanh, tổ chức sản xuất
và lao động, đưa kinh tế hàng hóa vào nước Nga, thúc đẩy sự phát triển công
nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp. Trong việc thành lập Liên bang Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết năm 1922, V.I.Lênin đã làm rõ nguyên tắc bình
đẳng, tự nguyện, đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Những năm cuối đời, V.I.Lênin dành thời gian cho việc tổng kết kinh
nghiệm hoạt động chính trị, quan tâm việc chấn chỉnh lại sự lãnh đạo của
Đảng, cải tiến hình thức, phương pháp quản lý của Nhà nước đối với xã hội.
Trong giai đoạn từ năm 1917 đến năm 1924, V.I.Lênin đã viết nhiều tác
phẩm liên quan quản lý xã hội, tiêu biểu là những tác phẩm sau: Nhà nước và
cách mạng (viết từ tháng 8, 9-1917 đến tháng 12-1918), Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền xô viết (4-1918), Bệnh ấu trĩ tả khuynh và tính tiểu
tư sản (1918), Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky (10-1918), Bàn về
21


“dân chủ” và chuyên chính (12-1918), Bàn về nhiệm vụ của công đoàn
(1918), Sáng kiến vĩ đại (7-1919), Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên
chính vô sản (10-1919), Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản
(1920), Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên (1920), Bàn về thuế lương thực
(1921), Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục
chính trị (1921), Thà ít mà tốt (1923)....
1.2. Nội dung tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về quản lý xã hội xã
hội chủ nghĩa
Với tư cách là người đứng đầu Đảng Cộng sản (b) Nga, trực tiếp là Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng dân ủy, cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất; kế thừa
và phát triển tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen về quản lý xã hội trong điều kiện
tiến hành xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước Nga xô viết; xuất phát t ừ

yêu cầu quản lý xã hội mới đặt ra một cách bức thiết hàng ngày, hàng giờ,
V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển toàn diện, sâu sắc tư tưởng quản lý xã hội của
C.Mác, Ph.Ăngghen về tính tất yếu, bản chất, chủ thể, nội dung, phương thức
quản lý xã hội; nguyên tắc quản lý, năng lực, trình độ, văn hóa của người cán
bộ quản lý…Và hơn thế, Người đã cùng Đảng Bôn sê vích Nga hiện thực hóa
những tư tưởng đó trong quản lý xã hội Nga xô viết, đem lại những kì tích
đáng tự hào.
1.2.1. V.I.Lênin xác định vai trò, mục đích của quản lý xã hội xã hội
chủ nghĩa
Ngay sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, V.I.Lênin nhận
thức sâu sắc cần thiết phải tập trung vào nhiệm vụ quản lý đất nước. Trong
tiến trình của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giành chính quyền về tay
giai cấp công nhân mới chỉ là giai đoạn đầu, cách mạng muốn giành được
thắng lợi triệt để phải không ngừng tiến lên, củng cố và xây dựng chế độ xã
hội mới. V.I.Lênin khẳng định: “Đây là lần đầu tiên mà một đảng xã hội chủ
nghĩa đã có thể hoàn thành được, trên những nét chủ yếu, việc giành chính
quyền và đè bẹp bọn bóc lột, đã có thể trực tiếp bắt tay vào việc giải quyết
22


nhiệm vụ quản lý. Chúng ta phải tỏ ra là những người thực hiện được một
cách xứng đáng nhiệm vụ rất khó khăn (và rất cao cả) ấy của cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Chúng ta phải suy nghĩ kỹ rằng muốn quản lý được tốt thì
ngoài cái tài biết thuyết phục, biết chiến thắng trong cuộc nội chiến, còn cần
phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn”[32, tr.209].
Khi nhiệm vụ đấu tranh giành chính quyền của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động đã hoàn thành, V.I.Lênin đề nghị phải chuyển trọng tâm
của cuộc đấu tranh cách mạng từ việc “tước đoạt kẻ đi tước đoạt” sang
quản lý xã hội và phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong báo cáo “Những
nhiệm vụ trước mắt của Chính quyền Xôviết”, V.I.Lênin viết: “Ngày nay,

nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung tâm. Chúng ta,
Đảng Bôn-sơ-vích, chúng ta đã thuyết phục được nước Nga. Chúng ta đã
giành được nước Nga từ trong tay bọn nhà giàu... Bây giờ, chúng ta phải
quản lý nước Nga” [32, tr. 209].
Theo V.I.Lênin, mục đích quan trọng nhất của quản lý xã hội mới là để
tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Bởi “xét đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu
nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới” [34, tr.25]. V.I.Lênin nhấn mạnh
mục đích của việc tổ chức quản lý xã hội mới: “Trong bất cứ cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa nào khi giai cấp vô sản đã làm xong nhiệm vụ giành được
chính quyền rồi, và trong chừng mực mà nhiệm vụ tước đoạt những kẻ đi tước
đoạt và nhiệm vụ đập tan sự phản kháng của chúng đã hoàn thành trên những
nét chủ yếu và cơ bản, - thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đề
lên hàng đầu, đó là thiết lập một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản,
nghĩa là nâng cao năng suất lao động, và do đó (và nhằm mục đích đó) phải tổ
chức lao động theo một trình độ cao hơn” [32, tr.228, 229].
V.I.Lênin cho rằng sau khi giành được chính quyền, để hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục sản xuất, nâng cao năng suất lao động nhất
thiết phải tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ hàng đầu
23


đang đặt ra với Chính quyền xô viết theo V.I.Lênin là quản lý nhà nước, mà
trước hết là quản lý kinh tế; đây là động lực quan trọng, là điểm mấu chốt để
tạo ra năng suất lao động cao, khẳng định sự thắng thế so với chế độ tư bản chủ
nghĩa, để đánh đổ chủ nghĩa nghĩa tư bản trong lòng xã hội mới. Mục tiêu của
quản lý xã hội xã hội chủ nghĩa là nhằm phát triển có kế hoạch nền sản xuất,
của tất cả các quan hệ xã hội và văn hóa để đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn các
nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân và phát triển toàn diện cá nhân.
V.I.Lênin bàn về quản lý trên phương diện quản lý nhà nước đối với

toàn bộ đời sống xã hội, đặc biệt là vai trò của Chính quyền xôviết. Tuy
nhiên, chỉ sau hơn 4 tháng tồn tại của Chính quyền xô viết, với thực tiễn quản
lý chính trị, kinh tế, Người đã nhận thấy công việc của Chính quyền xô viết
không thể chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị mà còn cần phải chuyển sang quản
lý kinh tế: “...Thông thường danh từ “quản lý” gắn liền chính là và trước hết
là với hoạt động chủ yếu hay thậm chí thuần tuý mang tính chất chính trị. Thế
nhưng, chính cơ sở, chính thực chất của chính quyền xô viết, cũng như chính
thực chất của sự quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ
nghĩa lại là ở chỗ các nhiệm vụ chính trị giữ địa vị phụ thuộc so với các
nhiệm vụ kinh tế. Và bây giờ, nhất là sau kinh nghiệm thực tiễn của hơn 4
tháng tồn tại của chính quyền xô viết ở Nga, chúng ta phải thấy hoàn toàn rõ
rằng nhiệm vụ quản lý nhà nước trước hết và trên hết được quy lại nhiệm vụ
thuần tuý kinh tế, hàn gắn những vết thương do chiến tranh gây ra trên đất
nước, khôi phục lại các lực lượng sản xuất - nói tóm lại, nhiệm vụ đó được
quy thành nhiệm vụ tổ chức lại nền kinh tế” [32, tr.162].
V.I.Lênin yêu cầu đồng thời với việc tăng cường quản lý xã hội mới
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phải kiên quyết
chống lại tính vô chính phủ tư sản và tiểu tư sản, nâng cao ý thức giác ngộ xã
hội chủ nghĩa. Người nhấn mạnh rõ thêm hai chức năng quan trọng của
chuyên chính vô sản: “giai cấp tư sản chỉ có thể bị lật đổ, khi nào giai cấp vô
24


sản trở thành giai cấp thống trị đủ sức trấn áp sự phản kháng không thể tránh
khỏi, tuyệt vọng của giai cấp tư sản và đủ sức tổ chức hết thảy quần chúng lao
động và bị bóc lột để xây dựng một chế độ kinh tế mới” [30, tr. 32]. Trong bối
cảnh Chính quyền Xô viết mới ra đời còn non trẻ, hoạt động trong điều kiện
sự can thiệp, bao vây của 14 nước đế quốc, sự chống phá điên cuồng của các
thế lực phản động trong nước, Nhà nước phải giữ vững được lòng tin của nhân
dân, phải không ngừng vững mạnh. V.I.Lênin chỉ ra: “Chúng ta phải…gắng sức

xây dựng một nhà nước, trong đó công nhân tiếp tục lãnh đạo nông dân, duy trì
được lòng tin của họ đối với mình…bằng cách thực hành sự tiết kiệm nghiêm
ngặt nhất trong việc quản lý nhà nước” [41, tr.456]. Mặt khác, thực hiện quản lý
xã hội để khắc phục những thói quen và những truyền thống của giai cấp tư
sản, giai cấp tiểu tư sản – luôn có tư tưởng chống lại chế độ kiểm soát của nhà
nước và đều bảo vệ tính bất khả xâm phạm của “quyền tư hữu thiêng liêng”…
là cuộc đấu tranh của ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa chống lại tính tự phát
tư sản – vô chính phủ” [32, tr.225].
Quản lý xã hội theo V.I.Lênin phải hướng đến xây dựng giai cấp công
nhân ngày càng tiên tiến, có tính tổ chức và kỷ luật cao. Giai cấp công nhân
là giai cấp lãnh đạo cách mạng, việc xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh,
tiên tiến, mẫu mực có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc kiến thiết, xây dựng
đất nước sau khi giành được chính quyền. Từ thực tế sau nhiều năm chiến
tranh, thành phần giai cấp công nhân Nga có sự biến đổi theo chiều hướng
không tốt, cả về tư tưởng, tổ chức. V.I.Lênin chỉ ra: “Những nhiệm vụ trước
mắt của giai đoạn hiện nay nghĩa là kỷ luật vô sản, kiểm kê, tính tổ chức và
kiểm soát. Đấy là những nhiệm vụ đã trở thành tự nhiên đối với những người
xã hội chủ nghĩa sau khi đã giành được chính quyền…”[32, tr.298].
Để giữ vững bản chất cách mạng, tiên tiến, triệt để của giai cấp công
nhân cần thiết phải tăng cường quản lý quá trình tổ chức lao động, ý thức kỷ
luật, việc học tập chính trị của công nhân. V.I.Lênin viết: “chúng ta phải nâng
cao tinh thần kỷ luật của những người lao động, kỹ năng lao động của họ, tính
25


khéo léo của họ, phải tăng thêm cường độ lao động và tổ chức lao động tốt
hơn…việc quần chúng xây dựng những nguyên tắc mới của kỷ luật lao động
là một quá trình lâu dài, vì chủ nghĩa xã hội không thành công được nếu tính
kỷ luật tự giác của giai cấp vô sản không thắng được tình trạng vô chính phủ
tự phát của giai cấp tư sản” [32, tr.230,231].

1.2.2. V.I.Lênin làm rõ nội dung bản chất, nguyên tắc quản lý xã hội
xã hội chủ nghĩa
V.I.Lênin đã khẳng định quản lý xã hội dưới chế độ xã hội chủ nghĩa
khác bản chất với quản lý của chế độ tư bản chủ nghĩa. Quá trình quản lý đó
vượt ra khỏi khuôn khổ của chế độ dân chủ tư sản: “Đến đây lượng biến thành
chất”: tiến đến trình độ ấy thì chế độ dân chủ vượt khỏi khuôn khổ xã hội tư
sản, bắt đầu cải tạo theo chủ nghĩa xã hội. Nếu hết thẩy mọi người đều thật sự
tham gia quản lý nhà nước thì chủ nghĩa tư bản không thể đứng vững được
nữa” [30, tr.123].
Trong chủ nghĩa xã hội, quản lý xã hội thực sự dân chủ. V.I.Lênin cho
rằng chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước. Người viết: “các xôviết là
một hình thức và một kiểu chế độ dân chủ vô cùng cao hơn, chính là vì do chỗ
nó tập hợp được quần chúng công nông và lôi cuốn họ tham gia sinh hoạt
chính trị, nên đó là cơ quan gần dân nhất” [31, tr.126-127].
V.I.Lênin làm rõ sự khác nhau giữa chuyên chính vô sản và chuyên
chính tư sản trong quản lý xã hội là ở chỗ chuyên chính vô sản, vì lợi ích của
đa số người bị bóc lột và “chính quyền xôviết không phải là cái gì khác mà
chỉ là hình thức tổ chức của chuyên chính vô sản, chuyên chính của giai cấp
tiền phong đã phát động được hàng chục và hàng chục triệu người lao động
và bị bóc lột thực hiện một nền dân chủ mới và chủ động tham gia quản lý
nhà nước; những người lao động và bị bóc lột này đã nhờ kinh nghiệm của
bản thân mà thấy được đội tiền phong có kỷ luật và giác ngộ của giai cấp vô
sản là lãnh rụ đáng tin cậy nhất của họ” [32, tr.240].

26


×