Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Công tác tư tưởng của đảng cộng sản việt nam trong thời kỳ 1945 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.66 KB, 57 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác tư tưởng của Đảng là một bộ phận không thể tách rời trong
toàn bộ hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng. Thời kỳ nào, công tác tư
tưởng của Đảng cũng nhằm mục đích thống nhất ý chí và hành động của toàn
Đảng và toàn xã hội, động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân tự giác thực
hiện đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Đồng thời,
nó góp phần to lớn vào việc ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế - văn
hoá.
Nhìn lại chặng đường cách mạng của Đảng và nhân dân ta trong gần 80
năm qua, có thể nhận thấy công tác tư tưởng được Đảng ta hết sức coi trọng.
Vì thế nó luôn phát huy tốt vai trò tích cực của mình trước mọi hoàn cảnh,
góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của cách mạng.
Thời kỳ 1945 - 1954 là thời kỳ cách mạng Việt Nam phải trải qua
những khó khăn, thách thức hiểm nghèo để bảo vệ chính quyền cách mạng,
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với sự can thiệp
của đế quốc Mỹ. Để đánh thắng một kẻ thù lớn mạnh hơn gấp nhiều lần,
Đảng ta đã huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trên cơ sở phát huy
tối đa vai trò của công tác tư tưởng trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến
hành cuộc kháng chiến. Vượt qua những khó khăn, thách thức của điều kiện
thực tiễn cách mạng, những hoạt động tư tưởng chủ động, tích cực, đa dạng
về phương pháp, phong phú về hình thức trong thời kỳ này là một nhân tố
quan trọng thúc đẩy nhân dân ta làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Do đó, đây là một trong những
thời kỳ để lại nhiều kinh nghiệm lãnh đạo công tác tư tưởng rất có giá trị, cần
được nghiên cứu, tổng kết.

1


Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hôm nay, bên cạnh những thời cơ,


vận hội mới còn có không ít nguy cơ và thách thực mới. Tình hình và nhiệm
vụ mới của đất nước đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác tư tưởng nhằm “động viên và phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng và
bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.(1)
Việc nghiên cứu làm rõ công tác tư tưởng của Đảng trong từng thời kỳ
cách mạng nói chung, trong thời kỳ 1945-1954 nói riêng nhằm tổng kết kinh
nghiệm lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng là việc làm rất cần thiết và có ý
nghĩa. Vì nó không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác tư tưởng
trong thời kỳ mới mà nó còn góp phần khẳng định năng lực lãnh đạo toàn
diện của Đảng.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Công tác tư tưởng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong thời kỳ 1945 - 1954” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác tư tưởng của Đảng là một hoạt động có bề dày lịch sử, nó
được hình thành ngay từ khi Đảng mới ra đời, và gắn liền với từng bước phát
triển của Đảng ta cho tới ngày nay. Chính vì vậy, đã có nhiều công trình
nghiên cứu về công tác tư tưởng, nhất là từ sau Đại hội VI của Đảng trở lại
đây, với một số công trình tiêu biểu:
- Góp phần nghiên cứu cách mạng tư tưởng - văn hoá của tác giả Vũ
Khiêu - Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1984.
- Công tác tư tưởng - Hoàng Tùng, Nxb Sách giáo khoa, Hà Nội, 1986.
- Tìm hiểu về cách mạng tư tưởng - văn hoá, tác giả Tạ Quang Thành,
Nxb Sự Thật, Hà Nội 1990
1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biẻu tòn quốc lần thứ IX. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr.60, 61
1

2



- Một số vấn đề về công tác tư tưởng - Đào Duy Tùng, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1999
- Sơ thảo lược sử công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
1930-2000 - Ban tư tưởng văn hoá trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2000.
- Tuyển tập Đào Duy Tùng - 3 tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2001
- Một số vấn đề về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam Đào Duy Quát, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001
- Một số vấn đề về công tác tư tưởng và văn hoá - Trần Trọng Tân, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001
Ngoài ra, trên lĩnh vực công tác tư tưởng còn thu hút sự quan tâm,
nghiên cứu của nhiều đồng chí cán bộ lãnh đạo Đảng, nhiều nhà nghiên cứu,
học giả khác nhau trong cả nước với nhiều bài viết quan trọng, có tính lý luận
và thực tiễn cao được đăng trên các tạp chí của Đảng. Chính điều này góp
phần làm rõ các quan điểm của Đảng về công tác tư tưởng ở từng thời kỳ lịch
sử, trên các lĩnh vực khác nhau trong thực tiễn. Tiêu biểu như một số bài sau:
- Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Mười tại Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành Trung ương khoá VII.
- Bài phát biểu của đồng chí Lê Khả Phiêu trong cuộc gặp kỷ niệm 70
năm ngày truyền thống công tác tư tưởng - văn hoá.
- Bài phát biểu của đồng chí Nông Đức Mạnh -Tổng bí thư Đảng nhân
kỷ niệm 72 năm ngày truyền thống công tác tư tưởng - văn hoá.
- Bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Khoa Điềm tại Hội nghị tư tưởng
- văn hoá toàn quốc, tháng 3 năm 2003.

3


Nhìn chung những tài liệu đã công bố về công tác tư tưởng của Đảng

rất phong phú, đa dạng, làm rõ được quan điểm của Đảng, bám sát vào những
yêu cầu cụ thể, nhiệm vụ của từng thời kỳ nhất định, để từ đó giúp Đảng ta có
những định hướng lớn trong lãnh đạo công tác tư tưởng. Tuy nhiên, cho đến
thời điểm hiện nay, các công trình nghiên cứu mang tính hệ thống chuyên sâu
về công tác tư tưởng của Đảng dưới góc độ Lịch sử Đảng thì chưa có nhiều.
Đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác tư tưởng của Đảng
thời kỳ 1945 - 1954 dưới góc độ Lịch sử Đảng.
3. Phạm vi nghiên cứu
Công tác tư tưởng là một lĩnh vực hoạt động rất phong phú, đa dạng và
phức tạp. Việc nghiên cứu, làm rõ toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng trên
lĩnh vực này là một việc làm đòi hỏi sự đầu tư thời gian và trí tuệ của nhiều
nhà khoa học, nhiều nhà lãnh đạo Đảng, cùng nhiều Ban ngành phối hợp.
Trong khuôn khổ thời gian và mức độ của một khoá luận tốt nghiệp đại học,
tác giả chỉ tập trung làm rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng
thông qua những chủ trương lớn của Đảng về công tác tư tưởng và quá trình
thực hiện những chủ trương đó như thế nào trong khoảng thời gian từ 1945
đến 1954.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá quá trình Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng từ năm 1945
- 1954
- Làm rõ những đóng góp to lớn của công tác tư tưởng dưới sự lãnh đạo
của Đảng trong việc giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ sau cách mạng
tháng Tám năm 1945 và trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ (1945 - 1954)

4


- Từ đó rút ra những thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm và một số
phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng cho

các giai đoạn sau này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài chủ
yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic, phương
pháp đối chiếu, phương pháp thống kê kết hợp với phương pháp phân tích
tổng hợp, để luận giải những vấn đề của khoá luận.
6. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, và kết luận, khoá luận được kết cấu gồm 2
chương, 6 tiết:
Chương I: Lý luận chung về công tác tư tưởng
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hoạt động tư tưởng
II. Quan điểm Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng
III. Quan điểm và một số kinh nghiệm lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng
trước năm 1945
Chương II: Công tác tư tưởng của Đảng trong thời kỳ 1945 - 1954
I. Công tác tư tưởng của Đảng trong thời kỳ chính quyền cách mạng mới
thành lập (1945 - 1946)
II. Công tác tư tưởng của Đảng trong thời kỳ toàn quốc chống thực dân Pháp
và can thiệp Mỹ (1946 - 1954)
III. Một số kinh nghiệm lãnh đạo công tác tư tưởng của Đảng trong thời kỳ
1945 - 1954

5


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về hoạt động tư tưởng
Trong đời sống hiện thực cùng với quá trình sản xuất vật chất, xã hội
không ngừng diễn ra các quá trình tư tưởng. Quá trình tư tưởng bắt nguồn từ

khi con người hình thành ý thức, thì đã xuất hiện các nhu cầu về tinh thần và
lợi ích nhận thức. Nhằm đáp ứng nhu cầu đó, con người tự tổ chức sản xuất
tinh thần. Chính Mác là người đã chỉ ra rằng: Quá trình tư tưởng gắn liền với
quá trình hoạt động vật chất. Sự xuất hiện hệ tư tưởng còn phải gắn liền với
sự phân công lao động xã hội, có nghĩa là phải hình thành đội ngũ trí thức.
Bên cạnh đó, thì Ăngghen cũng đưa ra luận điểm của mình: “Hệ tư
tưởng là một quá trình do con người mệnh danh là nhà tư tưởng đã hoàn thành
một cách có ý thức…”, đây có thể coi là điểm mấu chốt cho lý luận và công
tác tư tưởng: phải có nhà tư tưởng thực hiện quá trình tư tưởng, biến tư tưởng
thành hệ tư tưởng của xã hội. Những lý luận về quá trình tư tưởng do Mác Ăngghen sáng lập đã trở thành cơ sở lý luận cho công tác tư tưởng của các
Đảng Cộng sản. Để mà từ đó mọi chính đảng, nhà nước đều phải tiến hành, tổ
chức, thực hiện và đánh giá công tác tư tưởng, coi đó như là hoạt động quan
trọng nhất của mình.
Trên cơ sở kế thừa các tư tưởng của Mác - Ăngghen, Lênin lãnh tụ kiệt
xuất của giai cấp vô sản, nhà tổ chức thực tiễn năng động, sáng tạo, đồng thời

6


là nhà lý luận thiên tài, nhà tư tưởng sáng suốt đã hết sức coi trọng và đánh
giá cao vị trí, vai trò của công tác tư tưởng - lý luận trong sự nghiệp cách
mạng XHCN. Người coi lý luận là điều kiện thiết yếu để hình thành và thúc
đẩy phong trào cách mạng. Lênin nhấn mạnh: “Không có lý luận cách mạng,
thì không có phong trào cách mạng” (1). Người còn khẳng định: “Chỉ đảng nào
được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sỹ tiên phong”(1). Theo Lênin, công tác tư tưởng phải kết hợp chặt chẽ
giữa công tác lý luận và công tác thực tiễn, không thể gò bó thực tiễn sinh
động theo lý luận ngày hôm qua. Bởi dù thế nào đi chăng nữa thì lý luận cũng
chỉ vạch ra được những nét cơ bản, chỉ tiến gần đến chỗ nắm được tính phức
tạp của thực tiễn cuộc sống, lý luận cách mạng phải đáp ứng được những

đường lối của giai cấp vô sản, phải trở thành lực lượng sản xuất vật chất góp
phần vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa lật đổ giai cấp tư sản, giải
phóng triệt để giai cấp vô sản và toàn thể nhân loại khỏi ách áp bức bóc lột.
Công tác tư tưởng chính là nhằm mục đích thực hiện sự chuyển hoá quan
trọng này của lý luận.
Cũng theo Người thì nhiệm vụ đầu tiên quan trọng nhất của công tác tư
tưởng là phải kéo phong trào công nhân ra khỏi khuynh hướng tự phát, công
tác tư tưởng phải làm nhiệm vụ truyền bá, giáo dục đưa học thuyết Mác vào
giai cấp công nhân. Nhiệm vụ tiếp theo của công tác tư tưởng là động viên,
phát huy tính chủ động sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động trên cơ sở
trình độ giác ngộ cách mạng đã được nâng cao. Công tác tư tưởng còn có
nhiệm vụ xây dựng cho giai cấp công nhân lòng tin tưởng và tình yêu sâu sắc
đối với sự nghiệp cách mạng, tinh thần kiên định, ý chí, nghị lực vượt qua khó
khăn để hoàn thành mục tiêu cách mạng.

1) V.I.Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1975, tập 6, tr.6
1) V.I.Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva 1975, tập 6, tr.30
1

7


Với cách tiếp thu và kế thừa của mình, V.I. Lênin đã phát triển lý luận
công tác tư tưởng bằng việc chuẩn bị và thực hiện cuộc cách mạng tháng
Mười vĩ đại và thực hiện tổ chức nhà nước kiểu mới Xô-Viết. Lênin cũng đã
thực hiện việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Ăngghen, thực hiện việc nghiên cứu
lý luận tuyên truyền và cổ động trên quy mô rộng lớn của nhà nước Xô - Viết.

II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng
Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Người là nhà

tư tưởng vĩ đại. Người tiếp thu tinh hoa về tư tưởng của nhân loại trên nền
tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền thống của dân tộc. Từ khi tiếp thu
bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như trong suốt
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là
người tổng tư lệnh tối cao, mà còn là một chiến sỹ tiên phong trong hoạt động
tư tưởng.
Ngay từ buổi đầu đi tìm đường cứu nước và cho đến cuối đời, Người đã
có nhiều nghiên cứu, phát hiện, đề xuất chỉ đạo công tác tư tưởng, không chỉ
là những vấn đề chiến lược mà cả những vấn đề cụ thể của công tác tư tưởng.
Theo Hồ Chí Minh muốn làm tốt công tác tư tưởng cần có quan điểm
thực tiễn, hiểu quần chúng, người làm công tác tư tưởng phải không ngừng
học tập và là tấm gương cho quần chúng noi theo. Người nhấn mạnh: “Lý
luận suông, vô ích” và “Lý luận thiết thực có ích” (1). Hồ Chí Minh phê phán
bệnh coi thường lý luận và bệnh lý luận suông. Người nhấn mạnh việc tổng
kết từ thực tiễn lịch sử để để khái quát lý luận và coi đó là lý luận chân chính.
Người cho rằng: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho
chúng ta trong công tác thực tế. Không có lý luận thì như nhắm mắt mà đi ”(2).
1) Hồ Chí Minh: Về công tác tư tưởng văn hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.366-378).
2) Hồ Chí Mịnh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, tr.233

1
2

8


Đồng thời, Người cũng nêu rõ lực lượng tiến hành công tác tư tưởng là mọi
cán bộ, đảng viên, vũ khí tự cải tạo tư tưởng là tự phê bình và phê bình, đấu
tranh tư tưởng là trường kỳ, gian khổ kết hợp giữa xây và chống.
Người nêu ra phương pháp tư tưởng tự phê bình và phê bình rất có hiệu

quả còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay: “Phê bình một cách thật thà, chân
thành, đúng đắn, chứ không phải để địch lợi dụng để nó phản tuyên truyền” (1)
Người còn để lại cho chúng ta di sản quý báu về các phương pháp chống lại
sự phá hoại về tư tưởng của các thế lực thù địch, chống lại chiến tranh tâm lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ không những kẻ thù tiến hành chiến tranh xâm
lược bằng quân sự, mà chúng còn gây chiến bằng tuyên truyền.
Những điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cho Đảng và nhân dân ta,
vẫn còn nguyên giá trị và càng có ý nghĩa to lớn hơn bao giời hết, khi Đảng ta
xác định “diễn biến hoà bình” là một nguy cơ của đất nước. Người trực tiếp
nghiên cứu, viết sách báo, tài liệu cổ động quần chúng tiếp thu chủ nghĩa Mác
- Lênin, Người khẳng định: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy, Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều những chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin” (2).
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng,
phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác và tư
tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhẵng thì không làm được
việc”(3) Công tác tư tưởng là việc quan trọng hàng đầu của Đảng, Đảng phải

3) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 7, tr.118

1

1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 2, tr.268

2

2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 7, tr.466


3

9


trực tiếp lãnh đạo và thường xuyên kiểm tra các hoạt động của công tác tư
tưởng.
Sự phát triển của thực tiễn xã hội và phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc luôn đặt ra yêu cầu khách quan về sự tiến lên mãi của Đảng và Người
đã chỉ rõ rằng phong trào cách mạng lôi cuốn hàng triệu người. Công việc
cách mạng là nghìn điều muôn loại phức tạp, khó khăn. Để cân nhắc mọi
hoàn cảnh phức tạp, nhìn rõ các mâu thuẫn, để giải quyết đúng các vấn đề, thì
chúng ta phải cố gắng học tập lý luận Mác - Lênin. Và trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa về sau này, nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, để thực hiện thành công sự nghiệp trên, Hồ Chí
Minh chỉ ra rằng: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải có hai mặt: Vật chất
và tư tưởng”(1) Đồng thời, Đảng phải giác ngộ tập hợp quần chúng nhân dân,
đưa lý luận cách mạng vào trong phong trào quần chúng, phải tiến hành công
tác tư tưởng. Đảng chỉ có thể phát huy vai trò lãnh đạo khi mọi cán bộ đảng
viên đầu tàu gương mẫu, thông suốt thống nhất ý chí và hành động trong toàn
Đảng.
III. Quan điểm và một số kinh nghiệm lãnh đạo công tác tư tưởng của
Đảng trước năm 1945
Qua 15 năm đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945), công tác tư
tưởng góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của Đảng và nhân dân ta.
Những bài học phong phú của công tác tư tưởng của Đảng trong thời gian này
cần được tổng kết sâu sắc để góp phần xây dựng lý luận về công tác tư tưởng,
để vận dụng và phát huy trong các giai đoạn cách mạng về sau. Đây là một
việc lớn, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu công phu gắn liền với tổng kết xây

dựng và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng.
1

1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 9, tr.279

10


Tuy nhiên, bước đầu công tác tư tưởng cũng đã đạt được một số thành tựu
đáng kể:
Thứ nhất, công tác tư tưởng góp phần quan trọng vào việc hình thành
đường lối chính trị, hình thành các chính sách của Đảng.
Ngay trong quá trình vận động thành lập Đảng, công tác tư tưởng đã
góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam (3/2/1930).
Đảng ta ra đời với Cương lĩnh vắn tắt, Chính cương, Sách lược vắn tắt
do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam
là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đánh đổ thực dân đế quốc để giành độc
lập cho dân tộc, mang lại ruộng đất cho dân cày. Qua các cao trào cách mạng,
dưới sự chỉ đạo của Đảng, công tác tư tưởng đã nhanh chóng đưa ra những
chủ trương, chính sách này đến với các cán bộ, đảng viên và quần chúng, để
cổ vũ tinh thần yêu nước của họ, mang lại niềm tin vào sự nghiệp cách mạng
nhất định sẽ thắng lợi.
Thứ hai, công tác tư tưởng góp phần xây dựng niềm tin trong nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng.
Với chức năng và nhiệm vụ chính của mình, trong suốt quá trình hoạt
động công tác tư tưởng đã chú trọng giáo dục từng bước hình thành hệ tư
tưởng Mác - xít cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Thông qua, đó mà xây
dựng niềm tin thắng lợi cho quần chúng. Trải qua các cao trào cách mạng

1939 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, nhân dân ta giành được những thắng
lợi to lớn, càng củng cố thêm sự tin tưởng trong nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng.
Nhờ có niềm tin vững chắc, nên trong thực tiễn thực dân Pháp càng đàn
áp phong trào cách mạng dã man bao nhiêu, thì lòng tin của nhân dân vào sự

11


lãnh đạo của Đảng lại càng được củng cố, mối quan hệ giữa Đảng và quần
chúng ngày càng gắn bó hơn. Cuộc cách mạng tháng Tám thắng lợi cũng
chính là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn hai triệu người Việt
Nam, Đảng đã xây dựng được khối đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng
khởi nghĩa thắng lợi. Để có được những thành công trong sự nghiệp cách
mạng cũng như xây dựng đất nước hiện nay, phải xây dựng niềm tin mãnh liệt
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng lợi của cách mạng. Đây
chính là sự thành công của những người làm công tác tư tưởng trong thời kỳ
này.
Thứ ba, công tác tư tưởng tích cực động viên nhân dân nhiệt tình, tham
gia vào quá trình đấu tranh giành chính quyền, giải phóng dân tộc do Đảng
lãnh đạo.
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho nước nhà, ngoài giai cấp công nông là động lực chính của cách mạng, Đảng còn tập hợp nhiều giai tầng khác
có tinh thần yêu nước vào phong trào cách mạng. Trong cao trào cách mạng
1930 - 1931, lần đầu tiên nhân dân ta kỉ niệm ngày quốc tế lao động, hình
thức đấu tranh hết sức phong phú như: rải truyền đơn, treo cờ đỏ, mít tinh, bãi
công, tuần hành... diễn ra trên khắp các địa bàn từ thành thị tới nông thôn và
đông đảo giai cấp, tầng lớp trong xã hội tham gia nhiệt tình, cao trào đã giành
được thắng lợi với đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Thời kỳ Mặt trận dân chủ,
nhân dân đấu tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình quần chúng đấu
tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn

vì độc lập và tự do.
Ở cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám, nhân dân cả nước đồng
loạt nổi dậy khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước. Có được thắng lợi vĩ đại như vậy là nhờ vào công tác tư
tưởng của Đảng trong thời kỳ này đã động viên, tạo dựng phong trào hết sức

12


sâu rộng với nhiều hình thức phong phú đa dạng, phục vụ đắc lực cho nhiệm
vụ chính trị của cuộc cách mạng.
Để có được thành công trong cách mạng, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng đất nước, chính là do trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn
luôn đặt công tác tư tưởng lên vị trí hàng đầu trong hoạt động lãnh đạo của
Đảng, cũng như trong chỉ đạo thực hiện. Cán bộ, đội ngũ làm công tác tư
tưởng đã đưa đường lối, chính sách của Đảng đến tận cơ sở, công tác tư tưởng
đã đạt hiệu quả tốt. Công tác tư tưởng đã góp phần to lớn bồi dưỡng hàng loạt
cán bộ về chính trị, lý luận và phẩm chất cách mạng.

13


CHƯƠNG II
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ 1945 - 1954
I. Công tác tư tưởng của Đảng trong thời kỳ chính quyền cách mạng mới
thành lập (1945 - 1946)
1. Tình hình đất nước sau cách mạng tháng Tám năm 1945 và những vấn
đề đặt ra đối với công tác tư tưởng của Đảng
Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí

Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
tuyên bố trước toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà đã ra đời. Đây là đỉnh cao kết quả thắng lợi của những cuộc
tranh đấu gian khổ, hy sinh xương máu giữa nhân dân ta chống chính quyền
phong kiến thực dân. Nó thể hiện khát khao bao đời nay của nhân dân được
sống trong hoà bình, tự do, nước nhà độc lập. Nhưng chính quyền nhân dân
non trẻ vừa mới được thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn thử
thách rất nghiêm trọng. Đất nước đang bị các thế lực đế quốc, phản động bao
vây, thù trong giặc ngoài chống phá quyết liệt.
Ở miền Bắc, khoảng 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch kéo vào với danh
nghĩa quân Đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Nhưng trên
thực tế, khi tiến quân vào Việt Nam, quân đội Tưởng đã kéo theo những lực
lượng tay sai phản động nằm trong hai tổ chức “Việt Quốc” và “Việt Cách”,
với những âm mưu, ý đồ thâm độc tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá
tan Mặt trận Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách mạng nhân dân, lập một
chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Đứng đằng sau trợ giúp cho quân
Tưởng là đế quốc Mỹ với mưu đồ đặt Đông Dương dưới chế độ “uỷ trị” - một
hình thức trá hình của chế độ thuộc địa thực dân kiểu mới của Mỹ.

14


Còn ở phía Nam, tình hình còn nghiêm trọng hơn rất nhiều. Lấy danh
nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, quân
đội Anh đã giúp thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta lần thứ hai.
Thêm vào đó, các thế lực phản cách mạng trong nước dựa vào quân đội
nước ngoài nhân cơ hội này cũng lần lượt nổi dậy chống phá chính quyền
cách mạng. Chưa bao giờ trên đất nước ta lại có nhiều thù trong giặc ngoài
như lúc này.
Trong lúc phải đối mặt với bao kẻ thù ngoại xâm, thì đất nước cũng

đang còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội.
Khó khăn chồng chất khó khăn. Nền kinh tế đất nước vốn nghèo nàn, lạc hậu
lại bị kiệt quệ nặng nề do các chính sách khai thác của thực dân Pháp - phát
xít Nhật. Ruộng đất bị bỏ hoang, hạn hán lũ lụt liên tiếp gây ra nạn đói đầu
năm 1945 cướp đi sinh mệnh của hai triệu đồng bào. Sản xuất công nghiệp
đình đốn, hàng hoá khan hiếm, ngoại thương đình trệ, tài chính cạn kiệt…Khó
khăn không chỉ dừng lại ở đó, mà trong xã hội lúc này còn chịu hậu quả, ảnh
hưởng bởi thứ văn hoá ngu dân do thực dân Pháp để lại còn khá sâu sắc với
hơn 90% dân số không biết chữ, tệ nạn xã hội rất trầm trọng và phổ biến.
Giặc ngoài, thù trong, khó khăn chồng chất chưa giải quyết được đang
là những thách thức đè nặng lên đất nước, chính quyền cách mạng trước tình
thế ngàn cân treo sợi tóc. Đẩy vận mệnh của dân tộc, tự do, độc lập nhân dân
vừa giành được đứng trước nguy cơ mất - còn.
Trước tình hình đất nước như vậy đã đặt ra cho Đảng, Chính phủ nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh những trọng trách và
nhiệm vụ quan trong, làm thế nào để giải quyết khó khăn, giữ vững chính
quyền non trẻ, ổn định xã hội…Muốn như vậy, điều trước tiên cần phải làm là
thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, ổn định tư tưởng trong quần chúng và
toàn xã hội, tuyên truyền giáo dục sâu sắc mọi tầng lớp nhân dân ý chí kiên

15


cường, bất khuất, quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững lời thề
trong Tuyên ngôn độc lập: “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập” (1). Đồng thời, cần cổ vũ
động viên nhân dân thực hiện ba nhiệm vụ lớn diệt: diệt giặc đói, diệt giặc
dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Thêm một lần nữa, lịch sử lại chứng minh bản lĩnh vững vàng, trí tuệ
sáng suốt đường lối đúng đắn của Đảng ta - lực lượng duy nhất lãnh đạo cách

mạng Việt Nam đi đến mọi thắng lợi. Hơn lúc nào hết, công tác tư tưởng lúc
này cần phải phát huy sức mạnh to lớn của mình trong việc tích cực xây dựng
và trang bị vũ khí tư tưởng tinh thần cho toàn Đảng, toàn thể quần chúng nhân
dân chống lại mọi âm mưu phá hoại chính quyền của kẻ thù, đẩy lùi khó khăn
trước mắt, để xây dựng đất nước lâu dài.
2. Công tác tư tưởng của Đảng thời gian từ 1945 - 1946
2.1. Tuyên truyền nâng cao ý chí chiến đấu của quần chúng nhân dân để
bảo vệ thành quả cách mạng
Nhận thấy rõ tầm quan trọng của công tác tư tưởng trong việc xây dựng
hệ tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, cũng như định hướng
tinh thần cho nhân dân, và ý nghĩa vô cùng quan trọng của nó trong các phong
trào cách mạng. Nên ngay sau ngày giành được chính quyền, Đảng đã quyết
định thành lập Bộ Tuyên truyền. Sự ra đời của Bộ Tuyên truyền đánh dấu một
bước mới trong lĩnh vực công tác tư tưởng của Đảng. Từ đây, công tác tư
tưởng được tập trung và chuyên sâu hơn, nhận được sự chỉ đạo sát sao, kịp
thời hơn của Đảng để có thể triển khai, và đáp ứng nhanh những nhiệm vụ
đang đặt ra trong tình hình mới sau ngày tổng khởi nghĩa.
Sau khi được thành lập, Bộ Tuyên truyền với chức năng và nhiệm vụ
chính của mình, đã nhanh chóng tiếp quản các cơ sở tuyên truyền, sử dụng tốt
1) Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.4

1

16


hơn hệ thống báo chí và tận dụng tối đa các đài phát sóng của chế độ cũ vào
việc tuyên truyền nâng cao ý chí chiến đấu của quần chúng nhân dân để bảo
vệ thành quả cách mạng.
Trước hết, công tác tư tưởng đã liên tục tố cáo âm mưu và tội ác của

thực dân Pháp gây ra với đồng bào miền Nam. Trong bản chỉ thị gửi các đồng
chí ở các xứ uỷ, tỉnh uỷ, tỉnh bộ (11-10-1946), Đảng ta đã vạch trần dã tâm
của thực dân Pháp khi chúng tiến hành kế hoạch thủ tiêu cán bộ cách mạng
của ta, ra sức tấn công bằng quân sự và khủng bố đồng bào ta ở Nam Bộ,
Nam Trung Bộ. Chỉ thị cũng nêu ra nhiệm vụ của cấp bách nhất của công tác
tư tưởng lúc này là phải sử dụng ngay báo chí, các đài phát thanh để cùng
chống lại thủ đoạn hèn nhát của thực dân Pháp, tổ chức phát động các cuộc
đấu tranh chống chính sách khủng bố của bọn phản động thực dân dưới nhiều
hình thức: “Tổng đình công, bãi thị, bãi khóa, bãi phố, có tính chất bất hợp
tác”(1). Trong khi tiến hành cần giương cao các khẩu hiệu tranh đấu chính:
“Phản đối thực dân Pháp bắn các nhà ái quốc miền Nam Việt Nam”
“Trung, Nam, Bắc thống nhất”
“Ủng hộ Hồ Chí Minh”(2)
Do có sự chỉ đạo kịp thời của Đảng, cùng với những hoạt động tích cực
của công tác tuyên truyền đã mau chóng động viên được lòng căm thù và ý
chí quyết tâm chống xâm lược, ủng hộ miền Nam kháng chiến của đồng bào
cả nước. Các tỉnh đều có những cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực
lượng chống thực dân Pháp xâm lược. Các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ
đều có nhiều hình thức động viên phong trào để quyên góp thuốc men, quần
áo, vũ khí chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Hàng vạn thanh niên
nô nức tham gia tòng quân, xung phong “Nam Tiến”. Các cuộc tiến đưa các
đoàn quân “Nam Tiến” đều diễn ra trong khí thế tưng bừng, hào hùng trong
1, 2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 8, tr.122, 123

1
2

17



tiếng ca cách mạng. Ở Nam Bộ, ngay khi quân Pháp kéo vào, công tác tuyên
truyền đã được tiến hành khẩn trương, sâu rộng nhằm nâng cao ý chí đấu
tranh bảo vệ cách mạng của nhân dân. Với nhiều cuộc chiến đấu của quân và
dân Sài Gòn đã gây ra cho quân Anh, Pháp nhiều khốn đốn, buộc chúng phải
tìm cách hoà hoãn với ta.
Bên cạnh đó, công tác tư tưởng cũng chỉ ra cho nhân dân thấy rõ âm
mưu lật đổ của bọn Tưởng và tay sai ở miền Bắc, đập tan những luận điều
phản động, xuyên tạc, vu cáo của chúng, kiên quyết chống lại những hành
động chia rẽ, phá hoại trật tự trị an, âm mưu gây bạo loạn. Nhờ những hoạt
động tuyên truyền tích cực của công tác tư tưởng, nên ngay khi quân Tưởng
thúc đẩy âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng, thì những cuộc biểu tình
biểu dương lực lượng của hàng vạn nhân dân Hà Nội đã được diễn ra với
những khẩu hiệu được hô vang: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Ủng
hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”…tỏ rõ thái độ phản đối, bất hợp tác với những
hành động vu cáo, phá hoại của bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách.
2.2. Vận động toàn dân thực hiện chủ trương, đường lối “Kháng chiến,
kiến quốc” của Đảng
Để mau chóng giải quyết những khó khăn đang đặt ra cho chính quyền
cách mạng non trẻ, khắc phục một phần những thiếu thốn trong đời nhân dân,
đem lại niềm tin và hy vọng trong xã hội. Trương ương Đảng đã ra chỉ thị
“Kháng chiến, kiến quốc” (25/11/45). Chỉ thị đã phân tích tình hình trong
nước và thế giới, xác định cách mạng nước ta vẫn là cách mạng giải phóng
dân tộc, kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược. Nhiệm vụ
chủ yếu trước mắt là củng cố chính quyền cách mạng, chống thực dân Pháp
xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân nhân dân. Chỉ thị “Kháng
chiến kiến quốc” vạch ra sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược

18



sau cách mạng tháng Tám, soi đường cho nhân dân ta giữ vững chính quyền
cách mạng, từng bước xây dựng chế độ mới trong lúc khó khăn phức tạp nhất.
Căn cứ vào đặc điểm, tình hình đất nước mà chỉ thị cũng đề ra công
việc trọng tâm của công tác tư tưởng lúc này là tuyên truyền sâu rộng khẩu
hiệu : “Dân tộc trên hết”; “Tổ quốc trên hết”, “Kêu gọi đoàn kết, chống chủ
nghĩa thực dân Pháp xâm lược. Phản đối chia rẽ nhưng chống sự thống nhất
vô nguyên tắc với bọn phản quốc, phản đối chủ nghĩa thất bại (défaitisme)
đặc biệt chống mọi âm mưu chia rẽ của bọn Tờrốtxkit, Đại Việt, Việt Nam
Quốc dân Đảng và nâng cao sự tin tưởng của quốc dân vào thắng lợi cuối
cùng, khêu gợi chí căm hờn chống thực dân Pháp nhưng tránh khuynh hướng
“vị chủng” (Chauvinisme)”(1). Chỉ thị cũng nhấn mạnh những việc cần tránh
trong khi thực hiện công tác tuyên truyền: “Trong công tác tuyên truyền đặt
riêng bọn thực dân Pháp ra mà đánh (đừng bỏ cả Pháp, Anh, Ấn, Nhật vào
một bị và đừng coi họ là kẻ thù ngang nhau, đừng công kích nước Pháp và
dân Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp”(2)
Cũng trong thời gian này, toàn bộ các hoạt động của công tác tư tưởng
tập trung vào tuyên truyền phổ biến nội dung của chỉ thị Kháng chiến, kiến
quốc trong toàn Đảng và nhân dân, tạo ra bầu không khí thi đua tăng gia sản
xuất, chống đói, xoá nạn mù chữ, đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Mở đầu phong trào tăng gia sản xuất, chống đói, Chủ tịch Hồ Chi Minh
kêu gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa!
Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ
vững quyền tự do, độc lập”(3). Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, phong trào
tăng gia sản xuất, cứu đói diễn ra sôi nổi khắp nơi, nhiều ruộng đất hoang hoá

1, 2) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 8, tr.27
3) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.114

1


19


được khai khẩn, trồng trọt, nhiều sáng kiến tương trợ, đùm bọc lẫn nhau của
nhân dân được tổ chức ở cả nông thôn, thành phố.
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất cứu đói, thì công tác tư tưởng cũng
phát huy thế mạnh trên mặt trận diệt giặc dốt. Nhiều hình thức phong phú về
tuyên truyền chống nạn mù chữ đã được áp dụng, và trở thành một cao trào ở
các địa phương. Khắp nơi với các khẩu hiệu tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu
phương trừ giặc dốt; thêm một người đi học là thêm một viên gạch xây nền
độc lập nước nhà…Nhờ những biện pháp tích cực như trên, thì chỉ sau một
năm đã có khoảng hai triệu người thoát nạn mù chữ. Điều này càng làm cho
nhân dân thêm niềm tin tưởng vào chính quyền cách mạng và chế độ mới.
Nhìn lại thực tế nước ta sau ngày tổng khởi nghĩa thì trong xã hội các tệ
nạn vẫn còn lan tràn, đó là hậu quả của chế độ cũ để lại sau bao năm cai trị đô
hộ. Một lần nữa công tác tư tưởng với sức mạnh to lớn của mình cần phải
quét sạch những thứ tệ nạn đó, làm lành mạnh hoá đời sống xã hội. Cuộc vận
động xây dựng đời sống mới trong nhân dân, giáo dục tinh thần yêu nước,
chống các hủ tục lạc hậu cũng được tiến hành tuyên truyền sâu rộng.
Bên cạnh việc giải quyết những khó khăn trước mắt cho đời sống nhân
dân. Đảng và Chính phủ cũng khẩn trương ra sức củng cố chính quyền cách
mạng, mà nhiệm vụ trước mắt phải tiến hành tổ chức tổng tuyển cử trong cả
nước (6/1/1946) để bầu ra Quốc hội, xây dựng hiến pháp và lập ra chính phủ
chính thức, đảm bảo tính pháp lý quốc tế trên mặt trận ngoại giao. Bám sát
vào nhiệm vụ cấp thiết lúc này của toàn Đảng và Chính phủ, công tác tư
tưởng đã tập trung tiến hành những cuộc vận động tuyên truyền bầu cử trong
nhân dân, để nhân dân hiểu rõ được ý nghĩa của “mỗi lá phiếu là một viên đạn

20



diệt thù”(1), từ đó biến nhận thức của mỗi công dân làm chủ nước độc lập
thành hành động: “Tất cả cử tri tới thùng phiếu”(2).
Song song với việc tuyên truyền vận động, thì công tác tư tưởng cũng
phải tiến hành cuộc đấu tranh gay gắt với các tư tưởng phản động, tố cáo các
hành động phá hoại của quân Tưởng và bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách ở
miền Bắc và thực dân Pháp ở miền Nam. Chính vì vậy, mà cuộc tổng tuyển
cử đã đạt kết quả tốt thu hút đại đa số cử tri đi bỏ phiếu bầu cho các ứng cử
viên của mặt trận Việt Minh. Qua đó, nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà trên thế giới.
2.2.Quán triệt chủ trương “Hoà để tiến”
Trong khi toàn Đảng, toàn dân đang ra sức củng cố chính quyền cách
mạng, ổn định tình hình, bước đầu xây dựng chế độ mới, thì thực dân Pháp và
quân Tưởng đã ký với nhau hiệp ước Pháp - Hoa, để không ngừng các hoạt
động phá hoại thành quả của nhân dân ta. Trước tình hình đó, Chính phủ ta ký
với Pháp hiệp định Sơ bộ vào ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Ban thường vụ Trương
ương ra chỉ thị “Hoà để tiến” vạch ra những vấn đề mà công tác tư tưởng cần
phải làm sáng tỏ trong lúc này: “Giải thích cho mặt trận và cho quần chúng
không tổ chức hiểu rõ tại sao giảng hoà với Pháp trong những điều kiện của
bản Hiệp định sơ bộ là đúng” (2), cũng như: “Mạnh dạn giải thích cho quần
chúng hiểu chủ trương của ta là duy nhất đúng”(2). “Chúng ta “hoà” với Pháp
để dành thời gian bảo toàn thực lực, giữ vững lập trường càng mau tiến tới
độc lập hoàn toàn”(3). Thông qua giải thích mà giúp cán bộ và nhân dân ta
nhận thấy thắng lợi và lợi ích của việc ký hiệp định, chống lại các hoạt động
1

1, 2) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.145

1,5) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 8, tr.51
2,4) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 8, tr.45

3) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tập 8, tr.56
2

21


chia rẽ của “bọn phản động lợi dụng tinh thần kháng chiến của quần chúng
mà tuyên truyền phỉnh dân và vu ta là phản quốc, là bán nước cho Tây”(4).
Chỉ thị cũng chỉ ra chuyển hướng mới về chiến thuật cũng như khẩu
hiệu trong công tác tuyên truyền ngay sau ngày ký bản Hiệp định sơ bộ.
“Những khẩu hiệu “Kháng chiến” nhường chỗ cho khẩu hiệu “Kiến quốc”.
Khẩu hiệu “Chống thực dân Pháp xâm lược” phải nhường chỗ cho khẩu hiệu
“Liên hiệp bình đẳng với nước Pháp mới” và “Hai dân tộc Việt - Pháp liên
hiệp lại chống bọn phản động Pháp” (5). Việc thay đổi trong cách thức tuyên
truyền nhằm làm cho công tác tư tưởng phù hợp hơn trong điều kiện tình hình
mới.
Do chưa từ bỏ dã tâm xâm lược nên ngay sau ngày ký Hiệp định sơ bộ,
thực dân Pháp đã có những hành động nhằm phá hoại các nội dung của hiệp
định. Trước tình hình trên Hội nghị trù bị Việt - Pháp họp ở Đà Lạt được tổ
chức nhưng không đem lại kết quả. Để kéo dài thời gian hoà hoãn, tranh thủ
chuẩn bị lực lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tham dự hội nghị
Phôngtennơblô và ký với Chính Phủ Pháp bản Tạm ước 14-9-1946 quy định
một số điều quan hệ tạm thời về văn hoá và kinh tế giữa hai nước, đình chỉ
chiến sự ở miền Nam và tiếp tục đàm phán…
Công tác tư tưởng sau ngày hội nghị Phôngtennơblô bị đổ vỡ cũng đã
được thể hiện qua loạt bài báo của đồng chí Trường Chinh: “ Trước hết phải
giải thích rõ nguyên nhân thất bại của Hội nghị Phôngtennơblô để bóc trần âm
mưu gian dối của phản động thực dân Pháp trước dư luận và kêu gọi nhân dân
chống lại chúng, đả phá mọi hoài nghi…Hô hào nhân dân đoàn kết chặt chẽ
và rộng rãi trong Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam khép chặt hàng ngũ chung

quanh Chính phủ và Hồ Chủ tịch, sẵn sàng đối phó với bất cứ bất chắc nào”(1).

1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương: Văn kiện Đảng 1945-1954, Ban nghiên cứu
Lịch sử Đảng Trung ương, Hà Nội ,1978, tr.252
1

22


Trong thời gian này, nhiều báo đài ở Trương ương và địa phương cũng
tích cực đấu tranh, tố cáo các hoạt động sai trái của bọn thực dân. Báo chí
thống nhất công khai kêu gọi thi hành Tạm ước, đòi thả tù chính trị, phổ biến
tài liệu kháng chiến. Những việc làm trên của công tác tư tưởng nói chung và
hoạt động báo chí nói riêng đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định tư
tưởng cho cán bộ, quần chúng nhân dân để họ càng thêm tin tưởng vào Chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Và trên thực tế thì Hiệp định sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 có ý nghĩa
chính trị và tinh thần rất to lớn. Dựa vào tính pháp lý của Hiệp định và nhân
lúc thực dân Pháp phải điều một phần quan trọng lực lượng quân sự ra miền
Bắc, đảng bộ Nam Bộ đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phát động
nhân nhân phá tề, trừ gian, chống địch càn quét, khủng bố. Khắp nơi nhân dân
vùng dậy với khí thế mạnh mẽ phát triển chiến tranh du kích, nhiều vùng giải
phóng và căn cứ được mở rộng.
Như vậy, có thể nói rằng việc ổn định tình hình đất nước, khắc phục
muôn vàn những khó khăn ngay sau ngày khởi nghĩa giành chính quyền mặc
dù được diễn ra trong thời gian tương đối ngắn (tháng 9 - 1945 đến 12 1946), nhưng đã thu được kết quả hết sức to lớn. Có được như vậy là do
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững mục tiêu cách
mạng, đánh giá đúng tình hình để từ đó sử dụng triệt để sức mạnh vũ khí công
tác tư tưởng trong việc tuyên truyền nêu cao khẩu hiệu đại đoàn kết, hoà hợp
dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân vào công cuộc kiến quốc, từng bước đưa

nước nhà vượt qua tình thế hiểm nghèo, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố
và giữ vững chính quyền cách mạng.
II. Công tác tư tưởng trong thời kỳ toàn quốc chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ (1946 - 1954)

23


1. Những chuyển biến của tình hình cách mạng trong nước và yêu cầu
mới đặt ra cho công tác tư tưởng của Đảng trong thời gian này
Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, dưới sự lãnh đạo sáng
suốt, tài tình, hết sức khéo léo của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân ta đã dần vượt qua được những khó khăn, thử thách ban đầu.
Và trước sau như một, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, nguyện vọng bức thiết
nhất của toàn thể đồng bào ta là có được hoà bình để kiến thiết đất nước.
Chính vì vậy, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã kiên trì thông qua
con đường bang giao hoà bình, hợp tác với Chính phủ Pháp, đồng thời nhân
nhượng khi ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946.
Nhưng Việt Nam càng nhân nhượng thì thực dân Pháp càng lấn tới với
dã tâm giành lại quyền thống trị của chúng ở Việt Nam và toàn Đông Dương
bằng bất cứ giá nào. Nên ngay sau khi Hiệp định sơ bộ vừa được ký, đã bị
bọn thực dân phản động Pháp phá hoại, bằng việc cho quân tấn công liên tục
các phòng tuyến của quân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, lập ra “Chính phủ
Nam Kỳ tự trị” - một chính phủ tay sai phản động.
Các hành động phá hoại của bọn thực dân không chỉ dừng lại ở đó, mà
còn mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên quy mô rộng lớn và quyết liệt
hơn ở miền Bắc. Quân đội Pháp đã đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, chiếm
đóng trái phép Đà Nẵng và Hải Dương…đặc biệt chúng đã gây ra những vụ
thảm sát nhân dân tại các khu vực của Hà Nội.
Ngọn lửa chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã bùng cháy trên

toàn quốc, chiến tranh là điều không thể tránh được với nhân dân ta.
Trước tình thế khẩn cấp đòi hỏi Đảng, Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh phải có một sự lựa chọn lịch sử, phải kịp thời có một quyết định
chiến lược để xoay chuyển tình thế đang lâm nguy. Trước những diễn biến
mới của tình hình cách mạng cũng đặt ra cho công tác tư tưởng những nhiệm

24


vụ mới cấp thiết cần phải giải quyết. Một lần nữa, công tác tư tưởng dưới sự
lãnh đạo của Đảng phải phát huy sức mạnh trong việc định hướng tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên tạo ra sự đồng thuận nhất trí đối với đường lối, quan
điểm của Đảng. Đồng thời tích cực động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
sẵn sàng tham gia kháng chiến cứu quốc trên tinh thần tự lực cánh sinh, lâu
dài và gian khổ.
2. Công tác tư tưởng của Đảng trong thời kỳ 1946 - 1950
2.1. Động viên tinh thần yêu nước của nhân dân, khơi dậy lòng căm thù
sâu sắc của toàn dân tộc đối với thực dân Pháp
Với âm mưu nham hiểm muốn tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, lập lại
chế độ Toàn quyền ở Đông Dương. Nên từ cuối năm 1946, thực dân Pháp đẩy
mạnh những hành động lấn chiếm, liên tiếp tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ,
gây ra các vụ khiêu khích ở miền Bắc. Thực tế thực dân Pháp đã xé bỏ các
hiệp định, buộc Đảng và Chính phủ quyết định phát động cuộc kháng chiến
trong cả nước để bảo vệ Tổ quốc.
Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến” của Trung ương Đảng (22/12/1946) đã
nêu rõ mục đích của kháng chiến giành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Phương
châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh
sinh.
Hơn lúc nào hết, công tác tư tưởng trong thời gian này đã bám sát các
nội dung của bản Chỉ thị, liên tục tiến hành tuyên truyền giương cao các khẩu

hiệu:
“Toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài
Liên hiệp dân Pháp, đánh thực dân Pháp!
Bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền!
Đánh đổ chính quyền bù nhìn, củng cố cộng hoà dân chủ!

25


×