MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHIẾN TRANH
VÀ LÝ LUẬN TÁC CHIẾN MỚI CỦA QUÂN ĐỘI NƯỚC NGOÀI
Phần I: MƯỜI ĐÁNH GIÁ VỀ CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI.
Nhiều năm đă trôi qua kể từ khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991 và cuộc
Chiến tranh lạnh Xô- Mỹ kết thúc. Trước đây mọi người đều cho rằng đối kháng
Xô- Mỹ trong Chiến tranh Lạnh lŕ nguồn gốc căn bản lŕm tình hình thế giới căng
thẳng và rối loạn. Mọi người tin rằng thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh thì tình hình
thế giới sẽ hoà dịu, phẳng lặng, nguy cơ chiến tranh sẽ không còn. Nhưng sự
thực lại đi ngược với mong muốn của mọi người.
Thế giới còn một siêu cường xưng bá đã làm cho so sánh lực lượng trên
thế giới mất cân bằng, từ đó chiến sự lại nổ ra liên miên và nghiêm trọng hơn so
với thời kỳ hai siêu cường tranh giành bá quyền trong thế giới hai cực. Cho dù
chiến tranh thế giới lớn không xảy ra, nhưng tình hình thế giới vẫn luôn rối ren
và bất ổn, hoà bình vẫn bị đe doạ ở nhiều khu vực. Tình hình thế giới vẫn tồn tại
nhiều nhân tố rất không xác định.
Những năm trong thời kỳ giao thời giữa hai thế kỷ, các cuộc chiến tranh
và xung đột liên tiếp nổ ra ở Châu Phi, Châu Á và Châu Âu. Với sự phát triển kỹ
thuật quân sự cao, tính chất của cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành có thay đổi
hay không? Liệu vai trò của vũ khí trang bị có áp đảo nhân tố con người hay
không? Cuộc chiến tranh chống khủng bố do Mỹ tiến hành sau sự kiện
11/9/2001 đã tác động mạnh mẽ tới tình hình thế giới, nhưng cuộc chiến tranh
này là cuộc chiến không có chiến tuyến và không nhìn thấy kẻ địch thì có được
coi là cuộc chiến tranh chính thức như lý luận đă đưa ra hay không? Người Mỹ
coi chiến tranh chống khủng bố lŕ "cuộc chiến tranh thế giới thứ 4" (cuộc Chiến
tranh Lạnh được coi lŕ cuộc "Chiến tranh thế giới thứ 3"), như vậy cuộc chiến
tranh này sẽ kéo dài bao lâu mới kết thúc? Đây đều lŕ những vấn đề lý luận quân
sự cần có câu trả lời.
Vừa qua nhà lý luận quân sự nổi tiếng người Anh Lawrence Friedmanhiện là Giáo sư Trường đại học King, Viện sĩ học viện Hoàng gia Anh- có bài
nghiên cứu và đưa ra 10 luận điểm về chiến tranh hiện đại ngŕy nay. Mặc dù đây
chưa phải là đáp án cuối cùng và còn nhiều điểm tranh luận, nhưng ý kiến của
ông đáng để mọi người nghięn cứu, tham khảo. L. Friedman từng là tác giả của
các tác phẩm nổi tiếng: "Chiến lược hạt nhân và Chiến tranh Lạnh", "Chiến lược
hạt nhân và Hoà bình hạt nhân", "Chiến tranh vùng Vịnh: Ngoại giao và chiến
tranh của trật tự thế giới mới".... Đánh giá về cuộc chiến tranh ngày nay,
Friedman viết:
Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh kỹ thuật quân sự cao ở các nước thế giới
thứ ba, dùng chiến tranh "đao to búa lớn" đối với một nước châu Phi nhỏ bé...
Vậy nước nŕo, Mỹ hay châu Phi, là đại diện cho cuộc chiến tranh hiện đại? Câu
trả lời lŕ: "cả hai", nhưng nó lại không đại diện cho cuộc chiến tranh quy mô lớn
theo quy ước giữa các cường quốc nước lớn, vì vậy cần phải xem xét lại tính
chất và định nghĩa lại về chiến tranh trong các sách giáo khoa kinh điển đă xuất
bản.
1- Về tính chất, chiến tranh vẫn là sự tiếp tục của biện pháp chính trị theo
một hình thức khác như định nghĩa kinh điển của nhà quân sự người Phổ
Clausewitz đưa ra 170 năm trước đây. Chiến tranh lŕ biện pháp bạo lực mang
mục đích chính trị. Thay đổi hiện nay không phải lŕ định nghĩa về chiến tranh
mŕ thay đổi về mục đích và tính chất của chiến tranh. Mỹ là nước lớn siêu cường
có ưu thế quân sự áp đảo, hiện không có nước nŕo hoặc tổ chức đồng minh nŕo
có thể chạy đua quân sự để giŕnh ưu thế hơn Mỹ. Do sự phụ thuộc rất lớn lẫn
nhau giữa các nước, nên không có lý do gì để một nước đi chinh phục lănh thổ
hoặc mở rộng lãnh thổ như trước. Đấu tranh quyền lực theo truyền thống vẫn
diễn ra ở châu Phi vŕ một số nước khác, nhưng bạo lực chỉ mang tính địa
phương. Cuộc chiến tranh ở những khu vực đó nhěn chung vẫn mang hình thức
của chiến tranh hiện đại. Viện trợ nhân đạo của các nước thế giới đối với các
nước nŕy đều xuất phát từ lợi ích của chính bản thân nước měnh muốn tránh
ngọn lửa chiến tranh lan tới họ.
2- Trước đây phương thức giao tranh giữa các nước thường do các chính
phủ chính thức tuyęn chiến. Nhưng từ Thế chiến thứ Hai tới nay, các nước đều
tránh důng phương thức này. Cơ sở hợp pháp của tuyên chiến đã được quy định
trong điều 51 của Hiến chương Lięn Hợp Quốc (LHQ), Trong đó viết: "Thực
hiện quyền tự vệ của cá biệt một nước vŕ của tập đoŕn", tức là đòn đánh phủ đầu
cũng được thừa nhận một cách hợp pháp, nếu nước đó thực sự chứng minh được
rằng họ đang đứng trước nguy cơ bị tấn công quân sự từ bęn ngoài.
3- Quan điểm cho rằng các nước dân chủ không tiến hŕnh chiến tranh với
nhau. Điều nŕy không đúng. Hầu hết các nước trong hệ thống quốc tế hiện đại
ngŕy nay đều lŕ nước thuộc địa phi dân chủ của châu Âu trước đây. Trong thế kỷ
20 đă xuất hiện rất nhiều quốc gia mới, một số nước là dân chủ, một số nước
không dân chủ, nhưng một khi nước đó cho rằng chính nghĩa thuộc về họ thì họ
vẫn là kẻ hiếu chiến.
4- Quan điểm cho rằng chiến tranh chính nghĩa được LHQ ủng hộ lŕ
không đúng. Mặc dů điều 7 Hiến chương LHQ quy định khi Hội đồng Bảo an
hŕnh động. Nhưng mục đích của việc thŕnh lập LHQ là ngăn chặn chiến tranh
chứ không phải được giao quyền tiến hành chiến tranh. Sự đối đầu giữa các
nước Đông- Tây vŕ việc sử dụng quyền phủ quyết cũng đă cản trở các nước
thành viên LHQ đi tới thống nhất ý kiến đánh giá đối với chiến tranh hợp pháp.
LHQ chỉ áp dụng hŕnh động đối với mối đe doạ an ninh của các nước, chứ
không có phản ứng đối với mối đe doạ mŕ lợi ích của công dân và dân tộc ít
người bị xâm phạm. Hai nước Trung Quốc và Nga đều quan tâm, lo ngại tới
những hoạt động chia rẽ tồn tại ở nước měnh, nên họ phản đối áp dụng hành
động quân sự của LHQ ở Côxôvô nhằm bào vệ dân tộc thiểu số Anbani. Điều
này, LHQ không dám phê phán.
5- Cuộc chiến tranh chống khủng bố không thể coi là chiến tranh quy ước,
nhưng tổ chức Al-Qaeda là ngoại lệ, bởi vì tổ chức này được sự ủng hộ hoàn
toàn của Taliban ở Ápganixtan. Khi tuyên bố cuộc chiến chống khủng bố, Bush
nói: "Bẳt đầu từ việc tấn công vŕo Al Qaeda sẽ tiến hành tới cùng khi nào phát
hiện, ngăn chặn và đánh bại một tập đoŕn khủng bố nào còn lại trên thế giới".
Tuy nhiên, ý nghĩa quân sự của cuộc chiến chống khủng bố có thể bị thổi phồng,
bởi lẽ tổ chức khủng bố đang muốn Mỹ coi những hoạt động của chúng lŕ một
hình thức chiến tranh, từ đó thu hút được sự chú ý của toŕn thế giới, dựa vào đó
chúng có thể đưa ra những yęu sách chính trị với cộng đồng quốc tế. Bởi vậy,
nhiều nước trên thế giới chỉ muốn giới hạn hoạt động của thế lực khủng bố trong
phạm vi của các hoạt động mang tính chất phạm tội, bạo lực phá hoại vŕ phi
pháp.
6- Quan điểm cho rằng kỹ thuật thông tin hiện đại ngŕy nay đă giảm bớt
sự thần bí của chiến tranh là không đúng. Thông tin hiện đại ngŕy nay có thể
xuyên lục địa, đại dương vŕ không trung, có thể thu được từ nhiều phương tiện
vŕ thiết bị khác nhau. Nhưng làm thế nào để phân biệt cái gì mình cần trong biển
thông tin khổng lồ như vậy? Làm thế nào để nhận biết được thật- giả trong biển
thông tin nŕy để dựa vŕo đó định ra quyết sách? Rő ràng đây là vấn đề khó khăn.
Các nhŕ hoạch định quyết sách quân sự vŕ chính trị làm thế nào lựa chọn được
những thông tin quan trọng nhất, tin cậy nhất trong biển thông tin tình báo thu
được hàng ngày. Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn. Một điều chúng ta cần phải
phân biệt rằng tin tức chưa phải lŕ tin tình báo, muốn trở thành tin tình báo phải
có nghiên cứu, phân tích và rút ra kết luận.
7- Tất cả cuộc chiến tranh trong tương lai sẽ là cuộc chiến tranh không
cân xứng, bởi vì trong tương lai không có hiện tượng hai nước có thực lực quân
sự hoàn toàn ngang bằng nhau. Kết quả cuối cùng của chiến tranh được quyết
định bởi thực lực kinh tế vŕ chế độ chính trị có chịu nổi sự tięu hao và bổ sung
lực lượng đã bị thiêu huỷ trong chiến tranh hay không? Mỹ sẽ đánh bất kỳ nước
nào hiện nay trên thế giới nếu giao chiến với Mỹ theo điều kiện quân sự của Mỹ.
Nhưng Mỹ và phương Tây sẽ bị sa vào vòng nguy hiểm của thất bại.
8- Quan điểm cho rằng ưu thế trên không là nhân tố quyết định thắng bại
của chiến tranh hiện đại. Điều nŕy không hoàn toàn đúng. Trong cuộc chiến
tranh vùng Vịnh 1991 và cuộc chiến tranh Irắc năm 2003, Mỹ đều chiếm ưu thế
tuyệt đối tręn không không để đối phó với chiến tranh du kích, nếu như lực
lượng du kích này lại ẩn nấp, trà trộn trong dân chúng thì ưu thế trên không sẽ bị
vô hiệu hoá.
9- Quan điểm cho rằng chiến tranh hiện đại kỹ thuật cao có thể giảm bớt
thương vong. Điều nŕy không đúng. Quan điểm của các nước phương Tây muốn
dùng kỹ thuật khoa học quân sự cao để giảm số lượng thương vong. Trong chiến
tranh Irắc, Mỹ và liên quân làm được điều nŕy. Nhưng cũng chiến tranh đó ở các
nước châu Phi như Angôla, Cônggô, Ruanđa, Xômali, quân Mỹ có 18 người bị
thiệt mạng trong khi Xômali có tới hơn 1000 người thiệt mạng. Tiếp đó, tại cuộc
chiến tranh ở Ruanda thě đă xảy ra các cuộc tàn sát tắm máu làm trên 800 nghìn
người thiệt mạng. Như vậy, trong chiến tranh hiện đại thì chỉ người Mỹ, người
phương Tây giảm bớt thương vong, nhưng dân chúng nước đối phương không
hề giảm bớt thương vong.
10- Quan điểm của các nhŕ quân sự Mỹ cho rằng ở bất kỳ thời gian và địa
điểm tác chiến nŕo, quân Mỹ đều giŕnh được thắng lợi. Quan điểm nŕy không
đúng. Mỹ có khả năng giŕnh được thắng lợi ở hầu hết các cuộc giao chiến,
nhưng Mỹ luôn phải tính xem khả năng chịu đựng được mức độ thương vong tới
bao nhięu. Bởi lẽ diễn biến thực tế của chiến tranh sẽ không theo ý định tính
toán chủ quan của Mỹ lŕ kết thúc nhanh chóng. Nếu phải đồng thời giao tranh
tręn một số mặt trận thì sẽ có nguy cơ làm tiêu hao và tổn thất lớn nguồn tài
nguyên và thực lực kinh tế của Mỹ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng duy
trì một đế quốc khó khăn hơn nhiều so với hěnh thành một đế quốc.
Phần II: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ BA LOẠI HOÀ BÌNH
SÁU KIỂU CHIẾN TRANH
Theo tài liệu của Uỷ ban Nghiên cứu Quốc phòng Pháp. Ứng với thời đại nông
nghiệp, thời đại công nghiệp vŕ thời đại hậu công nghiệp (thời đại thông tin)
theo cách chia về sự phát triển thế giới của nhŕ tương lai học người Mỹ A.
Toffler, có ba loại hoà bình và 6 kiểu chiến tranh theo phân tích của đại tá hải
quân Pháp J. Michenlet, tóm tắt như sau:
I- BA LOẠI HOÀ BÌNH VÀ KHẢ NĂNG ỔN ĐỊNH CỦA CHÚNG
Nền tảng của 3 thời đại
Tài sản
Kinh tế
Nhóm người
Chính quyền
Thời đại nông Thời
đại
công Thời đại hậu công
nghiệp
nghiệp
nghiệp
Đất đai
Năng lượng
Thông tin
Tự cấp tự túc
Sản xuất hàng loạt Sản xuất chuyên sâu
Bộ lạc
Dân tộc
Cộng đồng thế giới
(sắc tộc đồng nhất)
Phong kiến
Nhà nước
Phân quyền
Quốc gia
Chuyển từ thời đại nŕy sang thời đại tiếp sau
Việc chuyển xã hội từ thời đại nông nghiệp (TĐNN) sang thời đại công nghiệp
(TĐCN) diễn ra tự phát, khi 70% dân số nam giới của một nước được xoá mů
chữ, nghĩa là biết đọc, viết và đếm. Việc chuyển này thường kèm theo những
chuyển động mạnh về chính trị và ý thức hệ cấp tiến, rồi cuối cùng tàn lụi trong
vài thập kỷ, khi số đông nữ giới cũng không còn mù chữ. Tỷ lệ này mãi gần đây
mới đạt được ở Ả-rập Xę-út và Pa-ki-xtan; còn I-ran mất khoảng 20 năm. Toàn
bộ Trung Đông có những đột biến gắn liền với việc chuyển thời đại, có thể ví
với những cuộc chiến tranh tôn giáo ở châu Âu.
Chưa rõ các điều kiện chuyển đến thời đại hậu công nghiệp (TĐHCN), nhưng
việc phổ biến biết tiếng nước ngoŕi, truy cập Internet và điện thoại di động rő
ràng là những tiêu chuẩn xác đáng.
1- Hoà bình phong kiến của TĐNN (tiền công nghiệp)
Ngày nay, nhiều nước đang còn ở TĐNN, nhất là châu Phi, Trung Á... và sống
dựa vào khoáng sản và nông sản của họ.
Các nhóm người là bộ lạc sở tại, chính quyền là phong kiến. Các đế quốc đa sắc
tộc có thể được lập ra, theo các nguyęn tắc của chế độ phong kiến. Chúng sụp
đổ khi chế độ công dân kiểu nhŕ nước quốc gia được áp đặt.
Khôi phục hoà bình tại một khu vực có cấu trúc tinh thần nông nghiệp cần có
một chính quyền vững chắc, lập ra theo kiểu uỷ nhiệm của Liên Hợp Quốc, với
chức năng không chỉ ngăn chặn nổi loạn, mŕ đặc biệt lŕ nâng cao trình độ học
vấn để tạo thuận lợi chuyển đến thời đại công nghiệp. Nhŕ nước quốc gia có thể
được thiết lập, tôn trọng các nguyęn tắc nêu ở phần dưới. Ví dụ, khó có thể lập
ra một nhà nước ở Xô-ma-li hoặc Áp-ga-ni-xtan như mong muốn của Liên Hợp
Quốc. Giải pháp duy nhất để dẫn tới hoà bình là lập ra một chế độ uỷ nhiệm của
Liên hợp quốc để một nước ngoài quản lý đất nước đó hoặc một lực lượng đa
quốc gia cai quản như chính những người Áp-ga-ni-xtan đňi hỏi.
2- Hoà bình quốc gia của TĐCN
Thế kỷ XX chứng kiến sự tiêu vong của các đế quốc, là điển hình của TĐNN và
sự lên ngôi của nhà nước-quốc gia, là điển hình của TĐCN. Các nước công
nghiệp hoá mới nằm trong thời đại nŕy, như ở châu Á, Nam Mỹ và Đông Âu.
Ở thời đại này, hoà bình chỉ ổn định với 3 điều kiện:
+ Biên giới nhà nước trùng với biên giới quốc gia. Việc bảo vệ các dân
tộc ít người bị áp bức ở nước láng giềng thường là cái cớ của một cuộc xâm
lược. Giải pháp là vạch biên giới giữa các tộc chính và tổ chức chuyển dân, như
đã diễn ra ở Ba Lan và Đức sau thế chiến II, và giữa Ấn Độ và Pa-ki-xtan (trừ
vùng Ca-sơ-mia). Lưu ý là các dân tộc ít người không có nhà nước thì không
được bảo vệ tốt và phải đợi đến khi bước vŕo thời đại TĐHCN để không cňn lo
ngại về sự thống trị của tộc chiếm đa số, ví dụ tięu biểu: người Do thái.
+ Hoà bình chỉ ổn định trong một nhà nước khi chính quyền từ xã hội cũ
của địa chủ chuyển sang chính quyền mới của tư bản công nghiệp. Dân chủ tự
do là hình thái chính trị duy nhất ổn định ở TĐCN. Nó có thể bị áp bức từ bęn
ngoài, như đã diễn ra ở Đức và Nhật Bản.
+ Nguồn gốc xung đột thứ 3 lŕ ý thức hệ. Có ý thức hệ cấp tiến được hěnh
thành khi bước vào thời đại công nghiệp, khi dân số tăng lęn và mất đi gốc rễ
nông dân của họ. Lúc nŕy quốc gia mới chứa đựng nguy cơ với chính měnh và
các láng giềng. Có thể gọi đây là một loại "khủng hoảng thời kỳ non trẻ" của các
quốc gia. Tiếp đến là việc giáo dục phụ nữ dẫn đến kiểm soát sinh đẻ, vŕ dân
chúng tiến đến hiện đại. Rồi hŕng loạt thanh niên từ thất nghiệp nay có công ăn
việc làm, về ý tưởng quay trở lại thời đại cũ không hấp dẫn dân chúng đang bắt
đầu thưởng thức tiện nghi công nghiệp. Ý thức hệ không cňn là nguồn gốc xung
đột. I-ran là ví dụ rõ ràng về sự chuyển đổi nŕy với tính năng động dẫn đến giảm
một cách đặc biệt tỷ lệ sinh đẻ.
Nếu xét trường hợp I-rắc, gồm người Cuốc, người Si-ai và người Sun-ny,
bị khuất phục trước một thị tộc độc tài ý thức đảng BAAS (Xã hội phục hưng Arập), có thể thấy nước này chưa hội tụ đủ điều kiện để hưởng một nền hoŕ bình
ổn định.
Khái quát hơn, căng thẳng hiện nay giữa Hồi giáo vŕ phương Tây không
thể giải quyết bằng vũ lực mà bằng xoá mù chữ và thúc đẩy dân chúng A-rập đi
con đường công nghiệp hoá. Công cụ quân sự không đủ để giải quyết các xung
đột, nhưng có thể sử dụng để giảm nhẹ hậu quả trong khi chờ các nước đó
chuyển từ TĐNN sang TĐCN vŕ ổn định dân chúng.
3- Hoà bình trong làng toàn cầu của TĐHCN
Ngày nay, chúng ta chứng kiến sự ra đời của một thế giới dựa vào thông
tin, lúc này gồm những trung tâm đô thị của các nước G7. Cuộc cách mạng này
đang đổi mới tất cả các mặt của xă hội.
Đặc điểm cơ bản của xă hội như vậy là tự do lưu thông thông tin, điều này tăng
cường tự do tư tưởng và dân chủ hoá. Nguyên tắc phân quyền trở thành nền tảng
hoạt động của xã hội, và các trung tâm có quyền quyết định tăng lęn. Ngay các
tập thể địa phương có thể đưa ra những nguyęn tắc địa phương, từ đó từng cộng
đồng lợi ích, nhất lŕ dân tộc ít người, có thể hưởng những quyền phù hợp với họ.
Hoạt động cảnh sát tỏ ra cần thiết, từ gěn giữ hoà bình khu vực đến việc
can dự vào công việc giữa các nhà nước. Nhà nước có thể ban đầu là người duy
nhất nắm giữ hợp pháp vũ lực (cảnh sát, quân đội, nhŕ tù), nhưng mất dần tính
chính thống trong quyết định về vai trò của nó vì lợi ích của các tổ chức an ninh
tập thể, và lợi ích của một nền tư pháp độc lập.
"Kịch bản" về sự chuyển đổi hỗn độn giữa hai thời đại sẽ lập lại, nhŕ nước trung
ương tự bảo vệ trước những trung tâm đối kháng nổi lęn. Một thế giới như vậy
có thể ổn định khi nguyęn tắc phân quyền mở rộng được áp dụng không nhân
nhượng, như với tất các "diễn viên" khác, nhà nước phải liên tục chứng tỏ tính
chính thống của mình trong từng lĩnh vực mà họ hành động và cuối cùng thay
bằng một "diễn vên" khác thích ứng tốt hơn.
II- VỀ SÁU KIỂU CHIẾN TRANH
Đặc điểm các xung đột trong 3 giai đoạn phát triển
Chiến tranh có những khác biệt cơ bản ở từng giai đoạn phát triển.
Vũ khí thay đổi. TĐNN sử dụng công cụ bất kỳ lŕm vũ khí cá nhân. TĐCN thực
hiện huỷ diệt hŕng loạt. TĐHCN sẽ không sử dụng bạo lực quá đáng bởi vě nó
có vũ khí "thông minh" để giới hạn vŕo những mục tiêu cần thiết. Tuy nhiên, vũ
khí có thể mua bán nên không phải vũ khí đưa ra sử dụng đă đủ để xác định đặc
điểm của một cuộc xung đột. Chiến binh của bộ lạc không sợ chết và không đắn
đo khi cần phải chết Chiến binh thời đại công nghiệp cố gắng tôn trọng luật lệ
xung đột vũ trang.
Chiến tranh TĐHCN có sự kiềm chế của quan điểm "không người chết", ở cả
đối phương. Giá trị cuộc sống trở thành một thông số rất ý nghĩa: nó xác định
các nguyęn tắc mỗi bên đối địch phải tôn trọng mục tięu thay đổi. Nổi nhất ở
TĐNN, một nhŕ nước chiến đấu chừng nŕo họ còn khả năng thống trị hoặc
kháng cự. Ở TĐHCN, công luận lŕ thước đo tính chính đáng của kẻ chiến thắng.
Nếu hai bên đối địch có nguồn gốc thời đại khác nhau, có thể có những lầm lẫn,
mỗi bęn sẽ tìm thấy chiến thắng theo tiêu chí của mình và xung đột không có lý
do để kết thúc.
TĐNN
TĐCN
TĐHCN
Chính quyền
Phong kiến
Nhà nước
Phân quyền
Vũ khí biểu tượng Gươm
Pháo
Máy tính điện tử
Giá trị cuộc sống Không có
Có thể hy sinh
vô cùng
Tiêu chí chiến chiếm đóng lănh Tương quan sức Tính chính đáng
thắng
thổ
mạnh
Đối xứng, đối xứng lệch, không đối xứng
Nếu hai bên đối địch có cůng nguồn gốc thời đại, xung đột lŕ đối xứng, lŕ lực
lượng có mặt không cùng số lượng, không chung biện pháp (có lễ gọi là đối
xứng lệch). Ngược lại, hai bên đối địch có nguồn gốc thời đại khác nhau, xung
đột có tính không đối xứng, dů cân bằng về số lượng người có mặt và nguồn tài
chính.
Đặc điểm đối xứng hŕm ý so sánh các chuẩn mực về biện pháp như nhau. Kết
quả so sánh có thể là sự không cân đối lớn giữa hai đối thủ để gọi lŕ đối xứng
lệch. Ví dụ, có thể so sánh Ấn Độ với Nę-pan để từ đó suy ra nước nŕo có tác
động đến nước kia.
Ngược lại, có những trường hợp không có những yếu tố thích đáng để so sánh
hai đối thủ, ví dụ so sánh các nước SNG với nước Nga lŕ không có nghĩa khi nói
về những thực thể có tính chất khác nhau, nhưng có căng thẳng giữa hai bęn và
khó có thể giải quyết chừng nào Nga không tiến hoá. Đây thuộc phạm trù căng
thẳng không đối xứng.
6 kiểu chiến tranh
Chiến tranh thay đổi tính chất: vũ khí, quy tắc mục tięu... tuỳ theo giai đoạn phát
triển của từng bęn đối địch. Có 3 giai đoạn phát triển tięu biểu cho những khác
biệt rất đáng chú ý, dẫn đến 6 kiểu phối hợp vŕ cũng ngần này kiểu chiến tranh
khác nhau, trong đó 3 thuộc phạm trù đối xứng và 3 không đối xứng.
TĐNN
TĐCN
TĐHCN
TĐNN
TĐCN
TĐHCN
Chiến tranh cổ xưa Chiến tranh du kích Chiến tranh thuộc
địa mới
chiến tranh du kích Chiến tranh hiện Cánh mạng quân sự
đại
Chiến tranh thuộc Cánh mạng quân sự Xung đột hậu công
địa mới
nghiệp
Cách mạng quân sự: cuộc cánh mạng những vấn đề quân sự, đang tiến hŕnh ở
Mỹ và một số nước khác
Phương tây có thể xây dựng lý thuyết đúng váo lúc này cho cuộc chiến tranh
hiện đại mà họ có thể không tiến hành vì các quy tắc mới đặt ra cho họ khi
chuyển đến TĐHCN. Những cuộc chiến tranh mŕ phương Tây có thể phải tiến
hành khi hoàn thành chuyển đến giai đoạn hậu công nghiệp thuộc loại hěnh còn
là ẩn số, nhưng chúng có thể phác hoạ như sau:
1- Chiến tranh cổ xưa:
Đây là kiểu chiến tranh đối xứng. Tôn Tử đă xây dựng lý thuyết cho kiểu xung
đột không có đặc điểm quốc gia nŕy tất cả các cuộc chiến tranh thời cổ và trung
cổ đều thuộc phạm trù đó. Kiểu chiến tranh đó ngŕy nay vẫn xuất hiện ở châu
Phi (Ăng-gô-la, Li-bê-ri-a, Dai-a...).
Ngược lại, nếu những cuộc chiến tranh ý thức hệ đầu tięn (chiến tranh tôn giáo
thời kỳ phục hưng) giống các xung đột cổ xưa về kĩ thuật chiến đấu vŕ quy tắc,
thì việc nghiên cứu một vấn đề đồng nhất về ý thức hệ có thể gắn chúng với các
cuộc chiến tranh hiện đại.
2- Chiến tranh du kích: TĐNN chống TĐCN
Đây lŕ chiến tranh không đối xứng. Clausewitz gọi kiểu xung đột nŕy là chiến
tranh của nông dân và ông xem như không xuất phát từ nghệ thuật chiến tranh
nói chung.
Quân đội công nghiệp phân biệt thường dân với quân nhân, tôn trọng luật lệ
xung đột vũ trang, thực hŕnh bắt tù binh, quân đội nông dân tiến công bất cứ ai
mà họ có thể tiến công, bất chấp luật pháp quốc tế, và thản nhiên tự treo cổ khi
bị bắt.
Tính chất không đối xứng giải thích các điều kiện chiến thắng khác với điều
kiện hoŕ bình:
+ Chiến thắng đồng thời cho cả hai bęn là có thật mà vẫn không có hoà bình.
Quân đội công nghiệp có thể coi là chiến thắng xác đáng vì đă chiếm được một
số giếng dầu; nhưng đồng thời những người bản địa cũng hŕi lòng một cách
chính đáng khi những kẻ thực dân không còn bóng dáng ở hầu hết làng mạc của
họ; như vậy, một chiến thắng kép đã đạt được mŕ chưa có hoà bình, như trường
hợp Liên Xô ở Áp-ga-ni-xtan.
+ Hoà bình chỉ đạt được như tất cả các thủ lĩnh địa phương chịu khuất phục
chính quyền thực dân, điều nŕy trở lại việc chiếm đóng lănh thổ, hoặc ngược lại
khi quân đội thực dân ra đi. Như vậy chiến thắng cuối cůng dành được tuỳ theo
tiêu chí của bên đối địch kia chứ không theo tięu chí bên này.
Chiến tranh giải phóng dân tộc, sử dụng các kĩ thuật xuất phát từ kiểu xung đột
đó, có một số đặc điểm của chiến tranh hiện đại. Luật pháp quốc tế về xung đột
vũ trang thừa nhận điều đó, thừa nhận các quy tắc đặt ra cho các nhŕ nước là có
lợi cho các mặt trận giải phóng dân tộc (không giống nhau. v.v). Chiến tranh
giành độc lập được quy tắc hoá như vậy có tính đối xứng hơn.
3- Chiến tranh hiện đại (hoặc kinh điển) của TĐCN
Đây lŕ chiến tranh đối xứng giữa hai nhà nước mà Clausewitz đă hệ thống hoá
đầy đủ vŕ được giảng dạy ở tất cả các nhŕ trường quân sự. Kiểu xung đột nŕy là
đối tượng của các quy tắc, luật lệ về xung đột vũ trang, được phổ biến vŕ vận
dụng. Đây lŕ kiểu chiến tranh duy nhất mà luật lệ được cả hai bên tôn trọng. Vũ
khí hạt nhân có tác dụng răn đe kiểu chiến tranh hiện đại nŕy. Các ví dụ về chiến
tranh hiện đại có nhiều, từ chiến tranh ly khai ở Mỹ đến hai cuộc thế chiến.
4- Cuộc cách mạng những vấn đề quân sự: TĐCN chống TĐHCN
Clausewitz chưa nhận thấy hết. Lần này một nhà nước, còn ở giai đoạn công
nghiệp sử dụng vũ lực để chống lại đối thủ ở giai đoạn hậu công nghiệp: chiến
tranh Vůng Vịnh. Ngược lại, các quy tắc mới đặt ra cho thế giới hậu công
nghiệp: tách rięng sức mạnh và tính chính đáng không người chết... Hội đồng
Bảo an Lięn Hợp Quốc là tổ chức duy nhất phán xét tính hợp pháp của một
cuộc chiến tranh. Hành động vũ lực không được thừa nhận, như ở đảo Síp, Tây
Xa-ha-ra hoặc Pa-le-xtin.
Mỹ nhận thức đầy đủ điều đó vŕ hy vọng sự phát triển mạnh mẽ công nghệ cho
phép họ giữ một lợi thế mà họ gọi là cuộc cách mạng những vấn đề quân sự
(RMA). Tuy vậy, giới lãnh đạo Mỹ vẫn chưa chấp nhận những kiềm chế mới
của thế giới hậu công nghiệp trong đó Mỹ không thể theo đuổi lợi ích của họ
bằng sức mạnh nếu không có đčn xanh của LHQ và trước hết là dư luận trong
nước họ cũng sẽ ngăn cản, như đă diễn ra thời gian gần đây trong cuộc đối đầu
của Mỹ với I-rắc.
Dù là chính đáng, hành động quân sự ngày càng hạn chế. Các công ước La Hay
và Giơ-ne-vơ tỏ ra không đủ. Công luận đňi hỏi hầu như không có tổn thất nhân
mạng. Ngay tổn thất của đối phương cũng phải được bŕo chữa thận trọng trước
phán xét của toà án hình sự quốc tế. Bên cạnh đó, chiến tranh với việc sử dụng
ngày càng tăng công nghệ thông tin, trinh sát bằng vệ tinh, bom đạn "thông
minh", vŕ còn chịu sức ép của kinh tế, luật pháp quốc tế, truyền thông đại chúng.
Không tính các nhà nước, các tổ chức khác dính líu cũng phải chứng tỏ tính
chính đáng của họ theo những tiêu chí, và có sự đồng thuận, như trường hợp một
số nước SNG đă giành được một sự giúp đỡ đặc biệt của giới truyền thông đại
chúng. Các tổ chức đó nhằm vŕo nhà nước để thúc đẩy các giá trị hậu công
nghiệp: điều kiện sinh thái, các quyền xă hội, v.v...
Ở TĐHCN, điều có thể lŕ ảo tưởng nếu trông cậy vào răn đe hạt nhân để ngăn
chặn xung đột với các nhŕ nước còn ở giai đoạn công nghiệp, và có lẽ chỉ có thể
dựa vào thành tựu công nghệ tiên tiến vũ trang cho lực lượng cổ điển mới hy
vọng hiệu quả răn đe.
Các quy tắc hoàn toàn không đối xứng, nên thế giới hậu công nghiệp phải tìm ra
lợi thế của một trật tự khác: công nghệ, kinh tế, pháp luật...
Một ví dụ về kiểu xung đột nŕy là cuộc xung đột chống cộng đồng quốc tế của
chủ nghĩa A-pa-thai ở Nam Phi. Chiến tranh Vůng Vịnh và di hại của nó cũng là
nảy sinh từ kiểu xung đột nŕy, dù công nghệ đã sử dụng vẫn chủ yếu là TĐCN;
kết quả là không đối xứng một cách điển hěnh: cộng đồng thế giới hŕi lòng là đã
khôi phục Cô-oét, còn Xát-đam Hút-xen vẫn nắm giữ chính quyền. Không bên
nào chiến thắng theo tiêu chuẩn của từng bên và kết quả cuối cùng là không ổn
định, điều nŕy cho thấy rõ ràng tính chất không đối xứng của cuộc chiến tranh
đó.
5- Chiến tranh thực dân mới: TĐNN chống thời đại hậu công nghiệp
Các cuộc chiến tranh này càng không đối xứng hơn.
Vũ khí của cách mạng quân sự mới rất ít tác động đến một xă hội nông nghiệp.
Ngược lại những người thất học cũng không thể làm được điều gě lớn ở xa họ,
trừ vào lúc đặc biệt: khi họ bắt đầu được trang bị công nghệ cao. Điều nŕy có thể
xảy ra trước khi họ có thời gian để phát triển ý thức của họ đối với các quy tắc
lięn quan đến luật xung đột vũ trang, thậm chí quyền sống của họ. Phương thức
hŕnh động khủng bố được thực hiện đơn giản chỉ vě muốn khai thác điều khác
biệt về giá trị cuộc sống, không phụ thuộc vŕo các kĩ thuật đưa ra sử dụng. Đó lŕ
sự kiện đă xảy ra ngày 11-9-2001 ở Mỹ.
Ở đây chỉ có những lệch lạc về mục đích mŕ mỗi bên dính líu tìm cách đạt được.
Hai thế giới lięn quan khác nhau đến mực không bęn nào có ảnh hưởng đến bên
kia. Những con người tiền công nghiệp chịu tai hoạ của toàn cầu hoá nói chung,
nhưng họ không làm được điều gě lớn. Dư luận thế giới mất hi vọng về những
tập quán nhất định, mŕ họ phán xét là cổ lỗ, ti tiện nhưng cũng không thể làm
được điều gě lớn, ngoại trừ giáo dục và kiên nhẫn.
Thắng lợi của TĐNN đă diễn ra khi các nước SNG, giới truyền thông đại chúng
vŕ tất cả các "diễn viên" phương Tây đă rời bỏ khu vực của kiểu chiến tranh
chẳng muốn chống lại nữa, phó mặc nó cho số phận (đây chính lŕ điều mŕ
Osama Bin laden đňi cho A-rập Xê-út). Thắng lợi ở TĐHCN đňi hỏi chiếm
đóng lănh thổ lâu dài và có chiều sâu điều này cần có nỗ lực lớn (như ở Bancăng).
Khi xảy ra một cuộc khủng hoảng bạo lực tại một khu vực ở TĐNN (do đó
không có nhŕ nước theo nghĩa đă chấp nhận) các nghị quyết LHQ, luật pháp
quốc tế và sức ép truyền thông đại chúng, không đủ để giải quyết vấn đề. Cần
phải těm kiếm một nước chấp nhận nguy cơ về cuộc sống với người của họ,
cung cấp cho họ khả năng lŕm chậm lại sức mạnh mà TĐHCN mang lại, và yêu
cầu họ chiếm đóng lãnh thổ đủ lâu dài để bỏ qua về mặt trí tuệ và những rối loạn
ở giai đoạn công nghiệp (xoá mù chữ và chuyển dân số). Nếu không tìm thấy
một quốc gia như vậy chấp nhận thực hiện "quyền xen vào", chỉ còn cách cam
chịu và tạm cách li khu vực và chờ cho cơn sốt thuyên giảm trong khi tỏ ra
thương xót về mặt ngoại giao số phận đă dành cho các nạn nhân.
Chiến dịch Mỹ tiến hành ở Áp-ga-ni-xtan cho thấy một ví dụ rõ ràng về kiểu
xung đột này và hoà bình khó có thể đạt được nếu không có chiếm đóng dŕy đặc
lănh thổ. Cuộc xung đột I-xra-en – Pa-le-xtin cũng nảy sinh từ phạm trù đó và
cho thấy nó khác biệt với kiểu chiến tranh giữa hai nhà nước.
6- Xung đột TĐHCN
3 kiểu xung đột, bằng bạo lực hoặc sức ép, có thể phân biệt trong thế giới hậu
công nghiệp: tranh chấp công cụ sức mạnh; xung đột kinh tế, và xung đột pháp
luật về tính chính đáng.
Trong thế giới hậu công nghiệp, nhà nước giữ độc quyền về công cụ sức mạnh:
quân đội, cảnh sát, nhưng họ không lŕm chủ được tính chính đáng trong sử dụng
sức mạnh, vŕ điều trở thŕnh khó quan niệm khi xảy ra chiến tranh giữa họ. Tuy
nhiên, có những đối thủ khác có thể tranh giành độc quyền về sức mạnh đó
hoặc luật pháp mŕ tính chính đáng bęnh vực: tội phạm quốc tế có tổ chức, các
giáo phái, các phong trào chính trị dân chủ. Đây sẽ lŕ những cuộc "chiến tranh"
duy nhất bạo lực về vật chất trong thế giới hậu công nghiệp. Chống lại các "diễn
viên" bạo lực phi nhà nước, răn đe không có tác dụng, nęn nhà nước phải có
những đơn vị có khả năng hŕnh động trong lňng xã hội dân sự hoặc tổ chức biến
binh phù hợp với vai trò hậu công nghiệp đó.
Các xung đột kinh tế không tŕn phá vật chất ít khi được coi lŕ xung đột thực sự,
nhưng tác động của chúng được thừa nhận ở những thất bại vŕ người bị thất
nghiệp. Nhà nước được các tổ chức đa quốc gia sử dụng vŕo cuộc đấu tranh cho
sự tồn tại của họ vŕ nghiên cứu tìm kiếm lợi nhuận. Để có vị trí tốt nhất trong
các xung đột đó, các nhŕ nước phải đấu tranh với họ để xem ai quyết định các
quy tắc mŕ kẻ khác buộc phải tôn trọng.
Thế giới hậu công nghiệp có đặc trưng thể hiện ở sự cần thiết thường xuyęn đối
với mọi "diễn viên" là phải chứng tỏ tính chính đáng của mình: điều này cũng
làm cho chính nhà nước phải nỗ lực trong từng lĩnh vực tinh thông truyền thống.
Họ sẽ phải tự xoá bỏ khi một "diễn viên" khác tỏ ra thích ứng hơn, có thể đây lŕ
một tổ chức trên quốc gia, dưới quốc gia, phi chính phủ hoặc tư nhân. Trong
trường hợp xảy ra xung đột về tính chính đáng, bęn chiến thắng là bên thành
công trong việc khuất phục họ có tính chính đáng hoặc hợp pháp hơn đối thủ, mŕ
trọng tài là trưng cầu dân ý, truyền thông đại chúng, công lý quốc tế, v.v... ở
đây, vẫn sẽ không có cái chết vật chất, mà những gì liên quan đến lý do tồn tại
của toàn bộ các khu vực nhà nước.
Trong thế giới hậu công nghiệp, điều cấp bách nhất lŕ tư duy về vai trò của nhà
nước và sau đó là tổ chức nó.
Kết luận: chấp nhận tính đa dạng
Giáo lý cho rằng nhà nước-quốc gia là "diễn viên" duy nhất trong quan hệ quốc
tế ngăn cản việc kết thúc nhiều cuộc xung đột vŕ đạt được một nền hoŕ bình bền
vững ở nhiều khu vực là điều hoang đường.
Phải chấp nhận việc xem xét là dân chúng trên toàn thế giới không chia sẻ hoàn
toàn các giá trị mà chúng ta hình dung là phổ biến, đặc biệt giá trị cơ bản nhấtgiá trị cuộc sống con người. Điều nŕy tác động đến cách điều hŕnh chiến tranh
cũng như cách khôi phục hoà bình sau một cuộc xung đột.
Vì những khác biệt đó chỉ dựa vào giai đoạn phát triển, các dân tộc có xu hướng
chia sẻ về lâu dŕi các giá trị cao thượng nhất, và cần phải để họ có thời gian đánh
giá chúng theo nhịp độ của họ, trong khi sử dụng sức mạnh quân sự để tự bảo vệ
chứ không phải áp đặt bằng vũ lực các giá trị chưa phổ biến.
Phần III
PHÁT TRIỂN MỚI VỀ LÝ LUẬN TÁC CHIẾN QUÂN ĐỘI NƯỚC
NGOŔI TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
Lý luận tác chiến là cốt lõi của lý luận quân sự. Cuộc cách mạng quân sự mới sẽ
dẫn đến một trong những thay đổi sâu sắc nhất đó lŕ sự thay đổi vŕ sáng tạo mới
lý luận tác chiến. Bài viết này dựa vào những tài liệu có uy tín của nước ngoài
để qui nạp, tìm tòi, phân tích những phát triển và sáng tạo mới về lý luận tác
chiến của lý luận quân sự nước ngoài đối với tác chiến thông tin, tác chiến liên
hợp mới, tác chiến vũ trụ, tác chiến chính xác.
I- LÝ LUẬN TÁC CHIẾN THÔNG TIN
Từ năm 1976, khi nhŕ lý luận quân sự Mỹ Tôm Rô-nan đưa ra khái niệm tác
chiến thông tin, đặc biệt lŕ sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh, tác chiến thông tin
vẫn là vấn đề bàn luận sôi nổi của các nhà lý luận quân sự các nước. Mấy năm
gần đây, giới lý luận quân sự của các quốc gia chủ yếu tręn thế giới, đặc biệt lŕ
Mỹ, Nga, đă có những nhận thức sâu sắc và phát triển hơn đối với tác chiến
thông tin.
1- Lý luận tác chiến thông tin của quân đội Mỹ
Một số văn kiện chính thức mŕ quân đội Mỹ mới ban hành gần đây đă có những
giải thích mới đối với tác chiến thông tin như sau:
1. Sử dụng khái niệm "hành động thông tin" (IO).
Từ năm 1996, Bộ Quốc Phòng Mỹ đưa ra "hành động thông tin" trong "Báo cáo
quốc phòng" đến nay, các văn kiện chính thức vŕ điều lệnh của quân đội Mỹ đă
sử dụng thuật ngữ này. "Hành động thông tin" là "hành động gây ảnh hưởng đến
thông tin vŕ hệ thống thông tin của địch, bảo vệ thông tin vŕ hệ thống thông tin
của ta trong thời bình, thời khủng hoảng và thời chiến"; và "tác chiến thông tin"
(IW) là "hành động thông tin" thời khủng hoảng và thời chiến.
2. Phát triển thêm nội dung của tác chiến thông tin.
Trước đây quân đội Mỹ cho rằng, tác chiến thông tin chủ yếu có 5 nội dung lŕ:
bảo mật tác chiến, nghi binh (đánh lừa) quân sự, chiến tranh tâm lý, tác chiến
điện tử, công kích vŕ phá hoại vật lý. Trong “Điều lệnh hŕnh động thông tin lięn
hợp” được Hội đồng tham mưu trưởng lięn quân Mỹ ban hành tháng 10-1998 đã
tăng thêm 2 nội dung là tác chiến thông tin đặc biệt (tác chiến thông tin cần
được phê chuẩn riêng do tính chất nhạy cảm hoặc có ảnh hưởng lớn đến an ninh
quốc gia) và công kích mạng máy tính (hành động xoá sổ, làm suy yếu hoặc phá
hoại máy tính, mạng máy tính và thông tin của địch). "Hành động thông tin”
được hạn định trong “Cương yếu tác chiến” mới, được công bố tháng 6-2001
của Bộ lục quân Mỹ, so với trước đă thêm 4 nội dung là bảo đảm thông tin, phản
tuyên truyền, phản tình báo và phòng vệ mạng máy tính.
3. Nâng "hàng động thông tin" lên tầm chiến lược.
"Báo cáo quốc phòng" năm tài chính 2001-2003 có nói: "hành động thông tin là
thông qua việc tăng cường khả năng nhận biết těnh hình bằng ưu thế thông tin
của ta và gây ảnh hưởng đến nước ngoài, để bảo đảm thực hiện mục tięu chiến
lược an ninh quốc gia.” Điều đó chứng tỏ quân đội Mỹ đã nâng hành động thông
tin lên tầm chiến lược, bằng cách giành và giữ vững ưu thế thông tin chiến lược,
bảo vệ hình tượng của quốc gia trên thế giới, gây ảnh hưởng đến quyết sách
chiến lược của đối phương, đạt được mục tięu chiến tranh hoặc mục tiêu an ninh
quốc gia.
4. Đề ra vŕ tiến hành "chiến tranh đạo hàng".
Đầu năm 1999, Can-xtơ - thứ trưởng quốc phňng Mỹ phụ trách mua sắm trang
bị và kỹ thuật đưa ra khái niệm “chiến tranh đạo hŕng", và chỉ thị thành lập "tổ
giám sát nhất thể hoá chiến kỹ thuật đạo hàng" chuyên nghiên cứu về "chiến
tranh đạo hàng". Thực hiện mục đích “chiến tranh đạo hŕng" là giành và giữ
vững ưu thế đạo hàng, tức là bảo đảm cho ta tự do sử dụng hệ thống định vị toŕn
cầu, đồng thời gây nhiễu vŕ cản trở địch sử dụng hệ thống nŕy. Biện pháp cụ thể
là: cải tiến hệ thống vệ tinh, nâng cao độ bảo mật và cường độ tín hiệu quân
dụng; cải tiến và nâng cao tính năng máy thu của các hộ quân sự; nghiên cứu
chế tạo ra máy gây nhiễu có tính năng cao, ngăn cản địch sử dụng tín hiệu hệ
thống định vị toàn cầu dân dụng.
2- Lý luận tác chiến thông tin quân đội Nga
1. Đề ra văn kiện có tính cương lĩnh "học thuyết an ninh thông tin lięn bang
Nga".
Tháng 9-2000, tổng thống Pu-tin phê chuẩn văn kiện này cho rằng: tài nguyên
thông tin và công trình cơ sở thông tin đã trở thành phương tiện giành giật địa vị
đứng đầu thế giới, sự phát triển chính trị, kinh tế tương lai được quyết định bởi
tŕi nguyên thông tin; nền an ninh quốc gia phụ thuộc vào khả năng thông tin
quốc gia, chủ yếu là khả năng đảm bảo thông tin, tiến công thông tin vŕ phòng
vệ thông tin. Chính phủ và quân đội Nga đă sử dụng nhiều biện pháp, tăng
cường sẵn sŕng “đấu tranh thông tin”.
2. Xác định định nghĩa vŕ nguyên tắc "đấu tranh thông tin".
"Đấu tranh thông tin" là những biện pháp tổng hợp nhằm bảo đảm thông tin, đối
kháng thông tin vŕ bảo vệ thông tin theo ý đồ vŕ thực hiện kế hoạch thống nhất,
để giŕnh giật và giữ vững ưu thế thông tin đối với kẻ địch, trong quá trěnh chuẩn
bị và tiến hành đấu tranh quân sự.
10 nguyên tắc cần tuân thủ trong "đấu tranh thông tin" là:
- Phải phù hợp với mục đích chính trị và quân sự.
- Trong thời gian và địa điểm quan trọng phải tập trung binh lực đấu tranh thông
tin.
- Binh lực binh khí đấu tranh thông tin cần phải được chuẩn bị sẵn sàng từ trước.
- Dốc toàn lực bảo vệ thông tin, tiến hành gây nhiễu và phá hoại phương tiện
thông tin của địch.
- Hành động đấu tranh thông tin phải kięn quyết và hết sức chủ động.
- Phải phối hợp sử dụng mọi thủ đoạn đấu tranh thông tin.
- Đấu tranh thông tin phải được triển khai lięn tục, không để gián đoạn.
- Binh lực đấu tranh thông tin phải cơ động kịp thời.
- Hành động đấu tranh thông tin phải bất ngờ đối với địch.
- Trong quá trình đấu tranh thông tin phải coi trọng nhân tố con người.
3. Xác định rõ nội dung tác chiến thông tin.
Tác chiến thông tin bao gồm mọi hành động để chiến thắng kẻ địch trong lĩnh
vực thông tin, chủ yếu gồm 3 điểm:
Một là, bảo đảm thông tin, chủ yếu là trinh sát thông tin, thu thập thông tin, liên
lạc thông tin và công tác thông tin tại bộ tư lệnh, yêu cầu những thông tin phải
kịp thời, đáng tin cậy, chính xác và hoàn chỉnh.
Hai là, đối kháng thông tin, tức lŕ bảo đảm thông tin đối kháng với địch, chủ yếu
lŕ nguỵ trang, chống trinh sát, chống tình báo, chế áp bằng điện tử và hoả lực đối
với hệ thống thông tin của địch.
Ba là, phòng vệ thông tin, tức là bảo vệ thông tin và hệ thống thông tin của ta,
bao gồm trinh sát có tính kiểm soát, kiểm tra thông tin, chống hoả lực bắn phá,
phòng vệ điện tử, đối kháng phản thông tin...
Giới khoa học quân sự của các nước như Mỹ, Nga luôn đi sâu nghięn cứu lý
luận tác chiến thông tin, trong những tác phẩm quân sự mới xuất bản gần đây đă
đưa ra rất nhiều quan điểm mới, khái niệm mới. Trong số chuyęn gia tác chiến
thông tin của Mỹ, Ét-uốt Uô-giơ trong cuốn "Nguyên tắc và thực thi tác chiến
thông tin" có đưa ra 4 hình thức chủ yếu của tác chiến thông tin là: chiến tranh
mạng gây ảnh hưởng đến nhận biết của dân chúng và hành vi quốc gia nước
địch, chiến tranh chính trị gây ảnh hưởng đến quyết sách của người lãnh đạo
nước địch, chiến tranh kinh tế công kích vŕo thể chế kinh tế nước địch, chiến
tranh chỉ huy kiểm soát công kích mục tięu quân sự địch. Uây-en Xva-tu trong
cuốn “Chiến tranh thông tin” đă đề ra 3 loại chiến tranh thông tin, đó lŕ chiến
tranh thông tin cá nhân, công kích vào những bí mật điện tử của cá nhân; chiến
tranh thông tin công ty bao gồm chiến tranh gián điệp công nghiệp vŕ chiến
tranh làm tê liệt mạng máy tính; và chiến tranh thông tin toàn cầu, phá hoại hệ
thống kinh tế, chính trị, quân sự toàn cầu.
Nhà lý luận quân sự Nga tiến sĩ Rô-đi-ô-nốp, trong tạp chí "Tư tưởng quân sự"
tháng 2-1999 có viết bài nói về các dạng thức chủ yếu của chiến tranh thông tin
là "chiến dịch thông tin", "giao chiến thông tin", "hành động thông tin" và “đột
kích thông tin".
II- LÝ LUẬN TÁC CHIẾN LIÊN HỢP MỚI
Tác chiến liên hợp là hành động tác chiến được lięn hợp thực hiện bởi một kế
hoạch thống nhất của bộ đội từ 2 quân chủng trở lęn nhằm thực hiện mục tiêu
chung, là một dạng tác chiến chủ yếu mà giới quân sự các nước như Mỹ, Nga
đang đi sâu nghięn cứu.
Bước vào những năm 80 của thế kỷ 20, chiến tranh cơ giới hoá của thời đại công
nghiệp đă quá độ sang chiến tranh thông tin hoá của thời đại thông tin bằng
chiến tranh kỹ thuật cao, lý luận tác chiến lięn hợp đă có những bước nhảy vọt
về "chất".
Từ những năm 90 đến nay, quân đội các nước như Mỹ, Nga đă ban hành các loại
điều lệnh, điều lệ tác chiến lięn hợp, xây dựng kiện toàn hệ thống lý luận tác
chiến liên hợp, qui phạm hành động tác chiến liên hợp bộ đội các quân chủng;
thông qua những cuộc chiến tranh cục bộ kỹ thuật cao: chiến tranh Vùng Vịnh,
chiến tranh Cô-xô-vô, chiến tranh Ap-ga-ni-xtan, đã làm phong phú và phát triển
thêm lý luận và thực tiễn tác chiến liên hợp.
Hình thái chiến tranh hiện nay là chiến tranh kỹ thuật cao, đang trong quá trěnh
nhanh chóng chuyển kiểu dạng từ chiến tranh cơ giới hoá sang chiến tranh thông
tin hoá.
Nếu gọi tác chiến liên hợp trong chiến tranh cơ giới hoá thời đại công nghiệp là
tác chiến liên hợp cũ, gọi tác chiến liên hợp trong chiến tranh kỹ thuật cao và
chiến tranh thông tin hoá là tác chiến liên hợp mới, thì tác chiến liên hợp mới so
với tác chiến liên hợp cũ có 5 điểm khác nhau sau đây:
1- Đặc điểm tác chiến liên hợp mới
1. Không gian tác chiến khác nhau.
Hành động tác chiến của tác chiến liên hợp cũ cơ bản được tiến hŕnh trong
không gian 3 chiều: trên mặt đất, trên không và trên biển; còn tác chiến liến hợp
mới được thực hiện trong không gian 6 chiều: trên mặt đất, trên không, trên
biển, trên vũ trụ, thông tin, nhận biết; đặc biệt là tác chiến trên 3 chiều không
gian sau lại có tác dụng quyết định đối với tiến trěnh và kết cục của chiến tranh.
2. Lực lượng tác chiến khác nhau.
Tác chiến liên hợp cũ chỉ có bộ đội lục, hải, không quân; tác chiến liên hợp mới
không những có bộ đội lục, hải, không quân mà còn có lực lượng hàng không vũ
trụ và bộ đội tiến công phòng thủ của chiến tranh thông tin.
3. Thể chế chỉ huy tác chiến khác nhau.
Bộ máy chỉ huy cấp cao của tác chiến liên hợp cũ là sản phẩm kết hợp lỏng lẻo
của các bộ tư lệnh các quân chủng, đặc trưng quân chủng rất rõ. Bộ máy chỉ huy
cấp cao của tác chiến liên hợp mới chủ yếu là tổ hợp "sĩ quan công tác liên hợp",
màu sắc quân chủng mờ nhạt.
4. Bảo đảm tác chiến khác nhau.
Tác chiến liên hợp cũ về cơ bản thực hiện tự bảo đảm ở các quân chủng; tác
chiến liên hợp mới thực hiện bảo đảm lẫn nhau và liên hợp cho các quân chủng
một cách nhất thể hoá.
5. Trình độ nhất thể hoá tác chiến khác nhau.
Tác chiến liên hợp cũ là sự kết hợp, hiệp đồng và phối hợp của bộ đội các quân
chủng về thời gian, không gian, hành động các giai đoạn tác chiến, lŕ một sự liên
hợp lỏng lẻo, trình độ nhất thể hoá thấp. Tác chiến liên hợp mới là biên chế hỗn
hợp bộ đội các quân chủng trong tác chiến chiến dịch, có sự hoà nhập cao về
thời gian và không gian tác chiến, đã phá vỡ giới hạn giữa các quân binh chủng
về công kích mục tiêu.
2- Tác chiến liên hợp mới có những đặc tính sau:
1. Tính tổng thể
Yêu cầu cơ bản đối với lý luận tác chiến liên hợp mới của quân đội Mỹ, Nga là,
dưới sự điều hoà kiểm soát của hệ thống thông tin điện tử tổng hợp, bộ đội các
quân chủng phối hợp chặt chẽ với nhau, tręn toàn tung thâm của toàn bộ không
gian tác chiến, vận dụng tổng hợp mọi biện pháp, hình thành hiệu năng tác chiến
tổng thể. Cách làm chủ yếu là: phát huy tinh thần đồng đội của bộ đội các quân
chủng, thực hiện bổ sung cho nhau ưu thế năng lực, hěnh thành lực lượng tác
chiến tổng thể; kiểm soát và sử dụng có hiệu quả các loại không gian tác chiến,
hình thành chiến trường tác chiến tổng thể; đồng thời triển khai hành động tác
chiến, vận dụng tổng hợp các cách đánh, giŕnh hiệu quả tác chiến tốt nhất.
2.Tính thông tin
Tác chiến liên hợp mới có tính thông tin rất mạnh, lấy việc giành giật và giữ
vững ưu thế thông tin làm cơ sở để giành thắng lợi trong tác chiến, làm tiền đề
kiểm soát không gian tác chiến và nắm chắc quyền kiểm soát trên bộ, trên biển,
trên không, trên vũ trụ, và thực hiện bảo đảm “cơ động khống chế địch, công
kích chính xác, phňng vệ các chiều và hậu cần tập trung". Bộ đội các quân binh
chủng có thể sử dụng chung thông tin, cùng nhận biết tình hình chiến trường. Sĩ
quan chỉ huy và nhân viên tham mưu có ý thức thông tín, tố chất thông tin và
khả năng xử lý thông tin rất mạnh.
3. Tính kỹ thuật cao
Tác chiến liên hợp mới được thực hiện bằng việc sử dụng vũ khí kỹ thuật cao
hoặc trang bị thông tin hoá. Các loại trang bị kỹ thuật cao tuy có hiệu năng tác
chiến đặc biệt, nhưng mỗi loại cũng có mặt hạn chế, cần phải sử dụng phối hợp.
III- LÝ LUẬN TÁC CHIẾN VŨ TRỤ
Tác chiến vũ trụ còn gọi là tác chiến không gian, là thực hiện hành động tác
chiến công, phòng, nhằm vào lực lượng quân sự vũ trụ, là một dạng tác chiến
được nghiên cứu sôi nổi trong giới học thuật quân sự các nước.
1-Nội dung tác chiến vũ trụ
1. Đấu tranh giŕnh quyền kiểm soát vũ trụ.
Là bảo vệ hệ thống đặt trên vũ trụ của ta và bảo đảm cho ta được tự do hŕnh
động trong không gian, đồng thời gây nhiễu, phá hoại, huỷ diệt hệ thống đặt tręn
vũ trụ của địch, hạn chế địch tự do hŕnh động tręn không gian vũ trụ. Loại tác
chiến này bao gồm đối kháng giữa lực lượng không gian 2 bên giao chiến, cũng
bao gồm hành động của một bên sử dụng lực lượng phi không gian vũ trụ đối
phó với mục tiêu quân sự trong không gian vũ trụ của bên kia.
2. Hành động sử dụng lực lượng quân sự không gian vũ trụ để đạt mục đích
toŕn cuộc chiến tranh.
Hai bên giao chiến sử dụng lực lượng không gian vũ trụ để chi viện về trinh sát,
giám sát, dẫn đường, thông tin, chỉ huy, kiểm soát cho toŕn bộ hệ thống chiến
tranh và vận dụng hệ thống vũ khí đặt trên phương tiện vũ trụ để công kích vào
các mục tiêu trên mặt đất, trên biển, trên không. Nó phục vụ trực tiếp cho toàn
cục của chiến tranh, có ảnh hưởng trực tiếp mang tính quyết định đến tiến trěnh
và kết cục của chiến tranh.
Trên thực tế, tác chiến vũ trụ với ý nghĩa đích thực còn chưa xảy ra. Trong chiến
tranh cục bộ kỹ thuật cao hiện nay, chỉ là sử dụng hệ thống thông tin quân sự đặt
trên phương tiện vũ trụ để bảo đảm cung cấp thông tin, có tác dụng chi viện cho
tác chiến tręn bộ, tác chiến trên biển, tác chiến trên không và tác chiến thông tin.
Muốn tiến hành chiến tranh vũ trụ với đúng ý nghĩa, phải có hệ thống vũ khí tác
chiến vũ trụ vŕ bộ đội tác chiến vũ trụ. Vũ khí tác chiến vũ trụ của Mỹ, Nga cňn
nằm trong ý tưởng hoặc đang nghięn cứu chế tạo chủ yếu có 4 loại:
2-Vũ khí tác chiến vũ trụ
1. Vũ khí chống vệ tinh.
Gồm 3 loại: vũ khí chống vệ tinh đặt tręn mặt đất vŕ đặt tręn biển, vũ khí chống
vệ tinh đặt tręn máy bay và vũ khí chống vệ tinh đặt trên phương tiện vũ trụ,
dùng để gây nhiễu, phá hoại phương tiện bay hàng không vũ trụ của địch.
Những vũ khí này sử dụng động năng va đập trực tiếp thực hiện sát thương cứng
hoặc dùng tia la-de, vi sóng, chùm hạt là năng lượng định hướng để sát thương
mềm, cňn có thể dùng phương thức phun hoá chất làm chúng tạm thời mất khả
năng.
2. Vũ khí chống tên lửa.
Chủ yếu có các loại: vũ khí chống tên lửa đặt trên phương tiện vũ trụ và vũ khí
chống tên lửa đặt trên phương tiện mặt đất, trên biển, trên không. Ba loại sau là
trọng điểm phát triển hệ thống tên lửa của Mỹ hiện nay, đã dần hoàn thiện, sẽ
được đưa vŕo triển khai chiến đấu. Vũ khí chống tęn lửa đặt tręn phương tiện vũ
trụ phát triển tương đối chậm, nhưng có thể đánh chặn với hiệu suất cao khi tęn
lửa đang bay ở giai đoạn có sức đẩy phụ, nęn có ưu thế lớn.
3. Phương tiện bay tác chiến vũ trụ.
Loại phương tiện bay này có thể sử dụng nhiều lần, dựa vào máy bay hàng
không vũ trụ hoặc hệ thống động lực tự thân để bay lęn quĩ đạo, có thời gian bay
trong quĩ đạo vŕi tuần đến một năm; có thể thực hiện các nhiệm vụ tác chiến,
như důng làm phương tiện mạng vũ khí động năng hoặc vũ khí năng lượng định
hướng, bố trí đặt, sửa chữa, thu hồi vệ tinh của ta, phá hoại vệ tinh của địch.
4. Máy bay vũ trụ.
Có thể nhanh chóng bay tới tầng ngoài không gian, hoặc dùng làm cơ sở chỉ huy
trong không gian thời chiến hoặc làm nhiệm vụ trinh sát, cảnh báo sớm, hoặc
công kích mục tiêu quan trọng trên bộ, trên biển, trên không, trên vũ trụ của
địch.
3- Chiến tranh vũ trụ chủ yếu có 4 dạng tác chiến:
1. Tác chiến đánh chặn tęn lửa.
Tác chiến đánh chặn tęn lửa thuộc phạm trù chiến tranh vũ trụ, bao gồm sử dụng
vũ khí la-de và vũ khí động năng đặt tręn phương tiện vũ trụ để bắn huỷ tęn lửa
địch, cũng gồm cả việc sử dụng hệ thống thông tin vũ trụ chỉ huy, điều dẫn hệ
thống vũ khí chống tęn lửa trên phương tiện trên không, trên biển và trên mặt
đất để công kích tęn lửa và hệ thống tên lửa của địch. Đến năm 2010, Mỹ có thể
có khả năng tiến hŕnh tác chiến đánh chặn tęn lửa.
2. Tác chiến công kích vệ tinh.
Hành động tác chiến chủ yếu có: sử dụng phương tiện tác chiến đặt tręn vũ trụ,
trên không và trên mặt đất để phóng la-de hoặc vũ khí động năng, nhanh chóng
huỷ diệt hoặc làm mù vệ tinh của địch; bố trí mìn vũ trụ, đội vệ tinh địch bay
đến sẽ huỷ diệt chúng; sử dụng điện tử gây nhiễu, bắn các chất phủ lęn vệ tinh
làm mù chúng, khiến cho vệ tinh của địch tạm thời bị vô hiệu hoá, dùng cánh tay
máy trên máy bay vũ trụ hoặc trạm vũ trụ để bắt vệ tinh địch.
3. Tác chiến vũ trụ tiến công đối đất.
Loại tác chiến này là sử dụng năng lượng công kích chiến lược của vũ khí la-de,
chùm hạt hoặc động năng đặt tręn phương tiện vũ trụ để công kích mục tięu trên
mặt đất, tręn biển và trên không. Trạm vũ trụ và máy bay hàng không vũ trụ là
công cụ oanh tạc quĩ đạo và phương tiện phóng vũ khí vũ trụ lý tưởng, có thể
thực hiện các nhiệm vụ công kích đối đất.
4. Tác chiến công phòng của phương tiện tác chiến vũ trụ.
Dạng tác chiến điển hěnh là hai bên giao chiến sử dụng phương tiện tác chiến vũ
trụ có khả năng công kích để tiến hŕnh “tác chiến vũ trụ đối vũ trụ”, nhằm giŕnh
quyền kiểm soát vũ trụ hoặc kiểm soát khu vực không gian vũ trụ đặc biệt.
IV- LÝ LUẬN TÁC CHIẾN CHÍNH XÁC.
Tác chiến chính xác là hành động tác chiến được thực hiện bởi trang bị vũ khí có
độ chính xác cao, thông tin hoá, thông minh hoá vŕ được chi viện thông tin bởi
hệ thống thông tin điện tử tổng hợp. Nó yęu cầu đối với mục tięu tác chiến phải
trinh sát chính xác, đối với quyết sách tác chiến phải thực hiện chính xác, đối
với việc vận chuyển binh lực phải có kế hoạch chính xác, đối với hŕnh động tác
chiến phải chuẩn bị chính xác, đối với bộ đội tác chiến phải được bảo đảm (chi
viện) chính xác, đối với hiệu quả công kích phải đánh giá chính xác, cuối cůng
là với cái giá thấp nhất để đạt được hiệu quả tác chiến tốt nhất.
Trong những cuộc chiến tranh cục bộ kỹ thuật cao mấy năm gần đây, tác chiến
chính xác đă bắt đầu ló dạng, tỏ ra có hiệu năng tác chiến khiến mọi người phải
chú ý, trở thành vấn đề nóng hổi được giới quân sự các nước rất quan tâm.
Trong chiến tranh Vùng Vịnh, bom đạn có điều dẫn chính xác được quân đội
Mỹ sử dụng tuy chưa đến 10% tổng lượng bom đạn, nhưng đă phá huỷ tới 80%
mục tiêu ở I-rắc. Trong chiến tranh Cô-xô-vô tỉ lệ bom đạn có điều dẫn chính
xác đă tăng lęn 35%, trong chiến tranh Ap-ga-ni-xtan là 65% và trong chiến
tranh I-rắc là 68%, mức độ công kích chính xác đạt tới trěnh độ tính bằng mét.
Cơ sở vật chất của tác chiến chính xác là vũ khí công kích được thông tin hoá
cao, độ chính xác cao vŕ còn có hệ thống C 4ISR đồng bộ với nó. Quân đội các
nước phát triển phương Tây đến nay đă được trang bị vũ khí công kích chính
xác thế hệ thứ 2, thứ 3, đang phát triển thế hệ thứ 4, thứ 5. Sử dụng vũ khí có
điều dẫn chính xác thế hệ thứ nhất, khi bắn xạ thủ phải theo dői, ngắm bắn mục
tiêu, phải điều khiển liên tục cho đến khi trúng mục tiêu. Đặc điểm của vũ khí
điều dẫn chính xác thế hệ 2 lŕ "bắn rồi quên", nó có thể tự động bắt mục tiêu, sau
khi bắn tự động těm đến đích. Vũ khí điều dẫn chính xác thế hệ 3 chỉ cần xác
định mục tięu, không cần ngắm bắn, tên lửa sau khi được phóng đi sẽ tự động
thăm dň, phân biệt, theo dõi cho đến khi trúng mục tiêu.
Mỹ đang nghięn cứu chế tạo vũ khí điều dẫn chính xác thế hệ 4, thế hệ 5 sử
dụng kỹ thuật thông minh nhân tạo, có thể tự động těm mục tiêu công kích, còn
có khả năng phán đoán lô-gich, so sánh vŕ nhận biết nhất định; khi thực hiện
công kích không những có thể phán đoán mức độ uy hiếp, chọn lựa nhiều mục
tiêu và tự thích ứng chống nhiễu, còn có thể tự động lựa chọn điểm trúng đích
tốt nhất, tự động těm vị trí quan trọng mỏng yếu nhất của mục tiêu, để đạt hiệu
năng tác chiến cao nhất. Nhưng nếu chỉ phát triển vũ khí công kích chính xác
mỗi thế hệ một tięn tiến hơn cũng chưa đủ, cňn phải có sự bảo đảm cung cấp
thông tin của hệ thống C4I.
Hiện nay quân đội Mỹ đang nghięn cứu phát triển hệ thống C 4KISR, nhằm thực
hiện kết nối khép kín hệ thống thông tin chiến trường với phương tiện mang vũ
khí, thực hiện nhất thể hoá bảo đảm thông tin với công kích hoả lực. Đến lúc đó
tác chiến chính xác sẽ phát triển đến một giai đoạn mới.
Tác chiến chính xác có 6 đặc điểm chủ yếu sau:
1. Có sự kết hợp cao giữa thông tin và hoả lực.
Dùng thông tin để điều khiển hoả lực có thể nâng cao hiệu năng công kích của
hoả lực, důng hoả lực bắn huỷ hệ thống vũ khí địch có thể bảo vệ an toŕn cho hệ
thống thông tin của ta.
2. Có thể công kích trực tiếp vào trọng tâm của địch.
Trong "bàn về chiến tranh", Clausewitz có nói: trọng tâm là "trung tâm mà mọi
lực lượng và hành động phải lấy làm chỗ dựa" của một quân đội, nhờ đó quân
đội có được tự do hŕnh động, lŕ cội nguồn của sức mạnh và ý chí chiến đấu.
Dùng vũ khí có điều dẫn chính xác tầm xa thực hiện tác chiến chính xác, có thể
công kích trực tiếp vào trọng tâm của địch, nhanh chóng giành thắng lợi trong
tác chiến.
3. Ít chịu ảnh hưởng của yếu tố địa lý.
Các yếu tố địa lý chủ yếu ảnh hưởng đến tác chiến gồm: cự ly, độ cao, địa hěnh,
địa vật, địa mạo (dáng đất) vŕ quốc giới. Những yếu tố này ít có ảnh hưởng đến
tác chiến chính xác.
4. Khu vực tác chiến nhỏ hẹp.
Dù là mục tiêu công kích điểm (diện nhỏ), hay là đánh chặn tên lửa đang bay; dù
là bom đạn điều dẫn chính xác được phóng bằng máy bay tác chiến tầm xa hay
lŕ dùng pháo bắn đạn thông minh công kích mục tiêu địch, những mục tiêu tác
chiến đó đều hết sức tập trung, không cần tiến hŕnh ở không gian lớn, phạm vi
lớn, mà được thu hẹp trong một không gian hết sức hạn hẹp.
5. Có không gian tương quan rộng rãi.
Trước hết những vũ khí công kích chính xác tầm xa có thể bay hàng ngàn, thậm
chí hàng vạn km để công kích mục tiêu. Hai là các loại vũ khí công kích chính
xác đều phải có sự bảo đảm của hệ thống thông tin bố trí ở các nơi tręn trái đất
vŕ trên vũ trụ, chủ yếu là bảo đảm thông tin.
6. Dưới tiền đề đạt được mục đích tác chiến, thương vong ít, vật tư bị phá hoại
giảm, đặc biệt lŕ "những phá hoại phụ" giảm đếm mức thấp nhất.
PHẦN THAM KHẢO KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
DÊNÔNG
(Từ Êlê)
(Một trong 106 nhà thông thái)
Thế kỷ V Tr.CN
Sinh khoảng năm 490
Mất năm 430
"Không có vận động"
(Dênông)
"Triết học ban tặng cho con người sự khinh thường cái chết".
(Dênông)
I- CUỘC ĐỜI
* Nhà triết học Italia.
* Êlê là Tổ quốc của ông.
* Cùng với Empêđốclơ đă nghe nhà triết học Pacmênit giảng bài.
* Có giả thuyết cho rằng, Dênông là con nuôi của Pacmênit.
* Là người đầu tiên đã phát minh ra "Biện chứng"- phương pháp bác bỏ đối thủ
bằng con đường vạch ra mâu thuẫn trong các phán đoán của đối thủ. Việc bác bỏ
luận điểm đối lập được sử dụng lŕm chứng minh gián tiếp cho luận điểm đang
bảo vệ. Tính độc đáo của phương pháp này là ở chỗ sau khi thừa nhận luận điểm
cần bị bác bỏ một cách có điều kiện, Dęnông rút ra từ nó hai kết luận bài trừ lẫn
nhau, qua đó làm cho luận điểm ấy trở nên mâu thuẫn nội tại, vô căn cứ về mặt
lôgíc và không được phép về mặt lý luận.
* Ông hiến dâng cả cuộc đời cho việc chứng minh sự không thể tồn tại "số
nhiều".
* Đặc biệt ông nổi tiếng nhờ các luận chứng chống lại khả năng của vận động.
* Dênông đã làm rối trí nhân loại hàng nghìn năm bằng các nghịch lý của mình.các mâu thuẫn không giải quyết được. Dường như ông có cả thảy 45 nghịch,
hiện cňn lưu lại cho chúng ta 9 nghịch lý và những nghịch lý này còn biết đến là
thông qua những người bình luận và phê phán, trước hết là Arixtốt.
* Đặc thů lịch sử của Dênông là ở chỗ tất cả những phê phán của ông đều chĩa
vào vào biên niên sử của nhân loại, hay là tự chúng, hay là theo phương pháp
bác bỏ, như điều này đã xảy ra với người theo phái Xiníc là Antisphen. Vốn dĩ
không có khả năng đáp lại các luận cứ của người Ęlê khó hiểu, Atisphen đứng
bật dậy và bắt đầu đi lại để cho rằng chứng minh bằng hŕnh động mạnh hơn mọi
phản bác bằng lời.
* Cuối đời Dęnông đă tham gia vào vụ âm mưu lật đổ tên bạo chúa Nearkhơ.
II- SỐ PHẬN.
+ Chúng ta chỉ biết được về cái chết bi thảm của Dęnông qua vô số truyền
thuyết. Các sự kiện có lẽ đă phát triển như sau: Sau khi tổ chức âm mưu chính
trị bị thất bại, ông đă bị bắt. Bị xét hỏi và tra tấn rất dã man, nhưng ông không
khai gì và không phản bội đồng chí.
+ Đối mặt với cái chết không tránh khỏi, đang nằm trong tay tàn bạo của vô số
kẻ thù, hoàn toàn bất lực, ông đã biết cách làm hại kẻ thù của mình. Theo một
giả thuyết kể lại rằng, Dênông nói với kẻ thù hành hạ mình rằng sẽ thông báo
cho hắn ta một bí mật quan trọng. Dự định nếu hắn lại gần cúi xuống sát ông,
ông sẽ hành động. Khi kẻ thù thực hiện điều được yęu cầu, ông đă cắn chặt tai
hắn và không thả hắn ra cho tới khi ông bị đánh chết.
III- HỌC THUYẾT.
- Dênông bác bỏ sự tồn tại của "vị trí", ông hỏi: "Nếu vị trí tồn tại, thì tồn tại ở
đâu?" Vì mọi cái thực tồn đều tồn tại ở đâu đó. Đương nhięn là bất kỳ "vị trí"
nào cũng phải tồn tại ở một "vị trí" nào đó đối với měnh. Cứ như vậy cho đến vô
tận. Do vậy, vị trí không tồn tại.
- Dênông khẳng định tính không phân chia được của thể thống nhất bằng cách
suy luận rằng khi phân chia, chúng ta nhận được vô số đơn vị, mỗi đơn vị lại
được phân chia ra thŕnh vô số đơn vị nữa do có tính phân chia được vô hạn.
Nhưng vô số của vô số lŕ một điều nhảm nhí.
Luận chứng chống lại số nhiều.
- Điều kiện xuất phát: "Số nhiều là tổng số các đơn vị".
+ Có thông tin cho rằng, Dênông đã xây dựng được 45 cách chứng minh về tính
không thể của số nhiều. Song hiện chỉ có hai cách được giữ lại:
Thứ nhất: nếu cái thực tồn là số nhiều, thì nó phải vừa là lớn, vừa là nhỏ: là nhỏ
tới mức không có đại lượng, vŕ là lớn tới mức trở nên vô hạn.
Thứ hai: nếu cái số nhiều tồn tại, thì nó vừa là hữu hạn, vừa là vô hạn. Chứng
minh được xây dựng dưới hình thức các antinômi: định đề- phản đề.
CHỨNG MINH THỨ NHẤT:
Định đề: nếu tồn tại là số nhiều, thì nó hoàn toàn không có đại lượng, vì nó cấu
thành từ các đơn vị (còn "đơn vị" là phần còn lại cuối cùng trong dãy phân chia,
tức là nó không phân chia được nữa), mà các đơn vị- vì không có các bộ phận:
đầu, giữa, cuối, phải trái- không có đại lượng. Kết luận: cái không có đại lượng
không thể tạo thŕnh đại lượng. Do vậy tồn tại không có đại lượng.
Phản đề: nếu các đơn vị tách rời nhau (không có số nhiều thiếu điều đó), thě tồn
tại một cái phân chia chúng: "trước mỗi vật bao giờ cũng phải có một cái gì đó
có tính phân chia được vô tận". Nhưng, đến lượt měnh, giữa đơn vị vŕ cái phân
chia đó cũng có cái phân chia của měnh. Cứ như vậy cho tới vô hạn. Như vậy,
nếu số nhiều tồn tại, thì nó là vô hạn, vô cùng tận.
* Đó không phải lŕ triết học, mà là phép nguỵ biện. Ở đây, để phản bác, cần phải
có cả một việc làm tỉ mỉ: đọc vài lần, sử dụng thước kẻ và v.v.. Triết học không
cần đến thước kẻ. Những phản bác và phương tiện phân tích bao giờ cũng ở bản
thân nó. Tại sao anh lại nói rằng không thể là không phân chia được. Thế màu
sắc! Tại sao anh lại nói cái không phân chia được không tồn tại? Thế mŕu sắc!
Tại sao anh lại khẳng định rằng tất cả cần phải có đại lượng? Thế mŕu sắc! Tại
sao anh lại nói rằng không nên cấu thành từ những cái không phân chia được?
Thế ánh sáng!!! Áp dụng khái niệm không phân chia được có nghĩa lŕ áp dụng
khái niệm "không tồn tại". Cả hai khái niệm này không được rút ra từ kinh
nghiệm, do vậy, là của lý tính.
CHỨNG MINH THỨ HAI
Định đề: nếu tồn tại nhiều vật, thì chúng là bao nhiêu như chúng có, không ít
hơn và không nhiều hơn. Do vậy, chúng tồn tại với một số lượng xác định (hữu
hạn).
Phản đề: nếu có nhiều vật, thì chúng phải là vô số. Trên thực tế, giả sử chỉ tồn
tại 2 vật. Giữa hai vật này tất yếu phải có một vật thứ ba nào đó phân chia
chúng, giữa vật thứ ba và hai vật đầu tiên phải có các vật mới, và cứ như vậy
cho đến vô hạn. Trong trường hợp ngược lại, hai vật gián tiếp với nhau phải hoà
làm một, tạo thành một vật (chứ không phải hai). Như vậy, không tồn tại hai
thiếu ba, ba thiếu năm, năm thiếu chín và cho tới vô hạn.